Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Dễ trăm lần không dân cũng chịu Khó vạn lần dân liệu cũng xong

VỀ HAI CÂU THƠ THƯỜNG BỊ NHẦM LÀ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Phạm Xuân Cần
Có khá nhiều bài thơ, câu nói thường được cho là của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không chỉ được trích dẫn trong khi nói, chúng còn được trích dẫn trong các bài viết, thậm chỉ là các công trình nghiên cứu hoặc các bài luận văn chính trị xã hội quan trọng. Không chỉ người dân hoăc cán bộ bình thường có sự nhầm lẫn, mà rất nhiều lãnh đạo từ cơ sở đến Trung ương cũng mắc phải lỗi này. Trong rất nhiều sự nhầm lẫn tai hại đó phổ biến nhất là trường hợp câu thơ “Không có việc gì khó...” và câu “Dễ trăm lần không dân cũng chịu...”
Câu thơ “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” thường được biết đến với tên gọi “Khuyên Thanh niên”. Từ hàng chục năm nay khi được in, được nói đến người ta nghiễm nhiên cho đó là thơ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, hầu như không có ai suy nghĩ gì khác. Ở công trình Thủy điện Hòa Bình dưới bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đỉnh đồi cũng khắc trang trọng bài thơ này với tên tác giả Hồ Chí Minh. Khoảng năm 1975, 1976 bản thân tôi khi học tiếng Trung Quốc thậm chí còn cố gắng dịch bài thơ này ra...chữ Hán để đăng báo...tường! (Đầu đề tôi dịch là “Khuyến Thanh niên”, câu đầu dịch là “Thế gian một hữu nan chi sự”. Thầy giáo dạy Trung văn đọc xong chỉ cười). Rất may sau đó đọc cuốn “Chúng ta có Bác Hồ” của nhà xuất bản Lao Động, tôi bắt gặp hồi ký của một cựu cán bộ Đoàn. Trong đó ông này kể lại hồi ở chiến khu Việt Bắc, ông có gặp xin Bác Hồ một bài thơ để tuyên truyền giáo dục thanh niên. Bác Hồ nói đại ý thơ thì Bác chưa có, nhưng có mấy câu này người xưa hay dùng để dạy thanh niên hay lắm. Sau đó Bác viết lại mấy câu trên cho người cán bộ nọ. Và, có lẽ từ đó mấy câu thơ này đã trở thành bài “Khuyên thanh niên” bất hủ. Thế nhưng, phải cách đây mười mấy năm gì đó tôi mới biết cụ thể xuất xứ của bài thơ này. Té ra đó là một câu trích trong sách giáo khoa chữ Hán xưa “Ấu học ngũ ngôn thi”. Nhà thơ Ngô Văn Phú đã giới thiệu và dịch đăng một chương cuốn sách này trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trong đó nguyên văn chữ Hán của bốn câu thơ này như sau: “Tạc sơn thông đại hải/ Luyện thạch bổ thanh thiên/ Thế thượng vô nan sự/ Nhân tâm tự bất kiên” (鑿 山 通 大 海/ 鍊 石 補 青 天/ 世 上 無 難 事/人 心 自 不 堅). Như vậy, có thể nói Chủ Tịch Hồ Chí Minh không phải là tác giả của những câu thơ này. Tuy nhiên, chính Bác là người dịch ra tiếng Việt những câu thơ hàm súc, giàu ý nghĩa đó. Đó là một bản dịch tuyệt vời!
Trường hợp hai câu thơ: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong” lại hoàn toàn khác. Rất nhiều cán bộ, giáo viên hễ cứ nói đến vai trò quần chúng nhân dân là y như rằng không thể thiếu câu này, với lời dạo: “Bác Hồ đã dạy...”. Thế nhưng, thực chất đây là hai câu trong một bài ca dao khá nổi tiếng thời chống Pháp của...nhà thơ Thanh Tịnh. Bài này được nhà thơ Thanh Tịnh sáng tác năm 1948 trong cuộc vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Đó là bài Dân no thì lính cũng no. Nguyên văn:
“Trông lên thì thấy đầy sao
Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Thóc thuế mà có dân đong
Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên ?
Nhân dân là bậc mẹ hiền
Cơm gạo áo tiền thì mẹ phải lo
Dân no thì lính cũng no
Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công...”
Thế nhưng nguyên do gì mà những câu thơ trên bỗng nhiên trở thành thơ Bác Hồ? Tôi xin đưa ra một giả thuyết. Tôi đã đọc một bài nói chuyện của Chủ Tịch Hồ Chí Minh với Công an Hà Nội những năm chống Mỹ. Khi nói về việc Công an phải dựa vào nhân dân, Bác có nói đại ý: Đồng bào Quảng Bình nói rất đúng: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Được biết hồi đó hai câu này được viết thành khẩu hiệu và rất phổ biến ở Quảng Bình. Tôi không biết có phải đó là lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến hai câu thơ này không. Nhưng, có thể khi được Người nhắc đến thì những câu thơ đó trở nên nổi tiếng và vì nhiều lý do khác nhau người ta nghĩ đó là thơ Bác Hồ mà tuyệt nhiên không có sự nghi ngại nào. Mặt khác cũng phải thừa nhận hai câu thơ dung dị mà hàm chứa tư tưởng rất lớn của nhà thơ Thanh Tịnh cũng khá gần gũi với cách viết, cách nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Phải chăng đó cũng là một lý do tạo nên sự ngộ nhận này?
Hiểu đúng để sử dụng đúng những bài thơ, câu nói mà sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh thường nhắc đến là điều rất cần thiết. Mọi sự ngộ nhận là không nên và rất dễ bị xuyên tạc.
Khi viết lại những chuyện này tôi chưa có điều kiện tra cứu lại những tài liệu mà mình đã đọc, nhưng tin chắc về cốt lõi là như vậy. Rất mong các bạn cùng trao đổi thêm.

http://www.faxuca.com/2012/08/ve-hai-cau-tho-thuong-bi-nham-la-cua.html
_____________________________

Tôi đề nghị bỏ hai lời nói của danh nhân Hồ Chí Minh trong bản hiện hành. Lí do: Câu "Vì lợi ích mười năm... trồng người" là của Quản Trọng (Quản Di Ngô), tướng quốc nước Tề (triều Tề Hoàn Công) thời Xuân Thu, Trung Quốc; còn câu "Bàn tay ta... thành cơm" là lời thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ "Bài ca vỡ đất", sáng tác trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phú Phượng
Tôi không đồng ý với ý kiến của Phú Phượng, vì nhiều lý do. Nhiều người ngẫu nhiên cùng ý là chuyện thường. Cũng có thể Hồ Chí Minh có thể đã đọc sách Quản Trọng, học hỏi được cái hay của Quản Trọng, đó cũng là điều đáng khen. Việc người nổi tiếng nói việc cái gì, thì cái đó cũng trở thành nổi tiếng là chuyện dễ hiểu. Ở đây tôi nghĩ không thể xét ai nói giống ai để loại bỏ các câu nổi tiếng, chúng ta có bàn về bản quyền của lời nói đâu! Thân mến. Thaisk 22:32, ngày 25 tháng 4 năm 2007 (UTC)

Tôi cho rằng không nên quá sa đà vào vấn đề tiểu sử của Hồ chí Minh ở đây, chỉ cần tóm tắt 1 dòng + 1 liên kết ngoài đến Wikipedia là được rồi. (Ngọc Minh)
Tôi cho rằng câu nói :Không có gì quí hơn độc lập tự do chưa thực hoàn toàn chỉnh ý, vì không có gì quí hơn có nghĩa là vẫn có những cái khác quí ngang bằng. Phải nói cách so sánh tuyệt đối là : Không có gì quí bằng độc lập tự do. Việt Chi
Tôi cho rằng các bạn nên thay đổi cách viết về Bác: chữ Ông thành chữ Ngài thì hay hơn.

Về câu nói "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"
Xin dẫn lại ý kiến của bạn Bùi Khắc Tiệp 
"Hai câu thơ trên nằm trong bài thơ “Dân no thì lính cũng no” của nhà thơ Thanh Tịnh, được sáng tác vào năm 1948 trong cuộc vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Nguyên văn bài thơ như sau:
Trông lên thì thấy đầy sao Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân Dễ trăm lần không dân cũng chịu Khó vạn lần dân liệu cũng xong Thóc thuế mà có dân đong Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi Đêm nằm nghĩ lại mà coi Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên? Nhân dân là bậc mẹ hiền Cơm gạo áo tiền thì mẹ phải lo Dân no thì lính cũng no Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công.
Khi mới ra đời bài thơ được phổ biến rộng khắp, tuy nhiên cũng ít người nhớ câu thơ này là của ai. Tuy nhiên trong những năm kháng chiến chống Mỹ, ở miền Bắc, Bắc Hồ cũng đã nhiều lần nhắc đến câu thơ này và nó như một lời dạy có tính khái quát cao về tinh thần và sức mạnh của nhân dân."
Có thể tìm hiểu thêm về nguồn gốc câu nói này ở cuốn Tiếng thơ Hiện đại của Hồng Diệu
Bài thơ trên đã đặt câu nói vào một chủ đề cụ thể, một tâm tình cụ thể, và làm giảm nhẹ tính "cường điệu" của nó. Còn nếu trích dẫn chỉ câu nói đó, coi người nói là Hồ Chí Minh, hay người nhắc đến là Hồ Chí Minh, điều mà cho tới nay vẫn chưa bao giờ được dẫn chứng cụ thể, thì câu nói này trở nên rất cường điệu, thậm chí có tính mỵ dân, vô hình chung không hề có lợi cho hình ảnh của Hồ Chí Minh. Nên bỏ câu nói này ra khỏi mục này.
Nguyễn Tuấn - Hà nội
Tôi ko đồng ý với Việt Chi khi Việt Chi cho rằng " câu nói :Không có gì quí hơn độc lập tự do chưa thực hoàn toàn chỉnh ý, vì không có gì quí hơn có nghĩa là vẫn có những cái khác quí ngang bằng. Phải nói cách so sánh tuyệt đối là : Không có gì quí bằng độc lập tự do. Thế tại sao Việt Chi ko đặt câu hỏi ngược lại, ngoài những cái quí bằng còn có những cái quí hơn nữa! bằng đồng nghĩa với tương đương, còn có cái quí hơn độc lập, tự do thì không biết Việt Chi tìm trong đông, tây, kim, cổ xem có không! Bác dùng rất "chuẩn" câu nói!
Tất cả các bạn bình luận về Bác là cũng dủ hiểu khả năng của các bạn tồi đến thế nào. Tôi chỉ nói một câu đơn giản thôi" Bác là người khai sinh ra bản tuyên ngôn độc lập chứ không phải là người khai sinh ra ngôn ngữ thuần việt". Vậy hỏi các bạn ai là người khai sinh ra ngôn ngữ thuần việt?
_____________________
 "Tứ hải giai huynh đệ"cũng của người xưa,Cụ vận dụng chuyển thành"Bốn phương vô sản đều là Anh em".đọc "Nhật ký trong tù"ta thấy sự vận dụng như thế này rất nhiều.câu này Bác cũng vận dụng,trích của người xưa,vậy mà có người cứ cãi là của Bác" Tiên Thiên Hạ chi ưu nhi ưu,Hậu Thiên Hạ chi lạc nhi lạc. ,"
________________________
Tôi xin chép một đoạn thơ, trong "Ấu học ngũ ngôn thi", để bạn xem mạng tham khảo:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Trước đèn mà chịu học
Mai ngày ắt thành danh".
Vũ Xuân Tửu




Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Theo Ang ghen Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và tự nhiên, ý thức và vật chất.
Vì sao: thế giới này phong phú đa dạng, khái quát, lại chỉ có hai yếu tố bên ngoài độc lập với ý thức con người gọi là hiện tượng vật chất.
Những hiện tượng không phụ thuộc con người gọi là hiện tượng ý thức .
Giải quyết 2 vấn đề này ta sẽ hiểu ai là duy vật , ai là duy tâm. Từ đó làm cơ sở để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn
Kết cấu:
Có 2 mặt:
Thứ nhất là giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Thứ 2: Con người có nhận thức được thế giới không?
Thứ nhất: trường phái nào cho là vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý thức là trường phái duy vật.
Ngược lại là duy tâm.
Duy tâm có 2 loại: duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan.
Duy tâm khách quan cho rằng có 1 lực lượng tinh thần có trước thế giới và sinh ra thế giới.
Duy tâm chủ quan cho rằng sự vật là tổng hợp các cảm giác
Trường phải duy vật nói chung cho rằng con người có thể nhận tức được thês giới.
2/ Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình:
Phương pháp là cách thức để chỉ đạo thế giới.
Biện chứng: chỉ tính chất gắn liền với sự vật. bao gồm: thống nhất giữa các mặt đối lập, tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và luôn vận động phát triển (gọi là tính chất biện chứng).
Từ tính chất biện chứng Khái quát lại thành phép biện chứng. Từ đó rut ra Cách thức cho con người nhận thức và hoạt động thực tiễn gọi là phương pháp biện chứng.
Phương pháp siêu hình:
Siêu hình là gì: Nghiên cứu những vấn đề sau vật lý, không dùng giác quan để cảm nhận được.
Ngày nay: nhìn nhận sự vật tĩnh tại, tách rời, cô lập, không vận động, biến đổi , giữa chúng không có mối liên hệ, nếu có chỉ là hời hợt bên ngoài.
Vì sao vẫn tồn tại mãi phương pháp siêu hình: thế kỷ 16 các ngành khoa học tự nhiên tách khỏi triết học và độc lập. một loạt các ngành khoa học phát triển mạnh và người ta đưa sự tách rời đấy vào trong triết học thành quan hệ siêu hình, từ đó hệ thống thành phép siêu hình, từ phép siêu hình đưa ra cách thức để nhận thức thế giới thì gọi là phương pháp siêu hình.
Ví dụ: Thầy bói xem voi.

____________________________
NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:
- Ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người bao gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, tư tưởng…(tất cả chỉ tồn tại trong não người), trong đó trí thức là nhân tố có bản, cốt lõi nhất của ý thức.
1/ Nguồn gốc của ý thức:
Vấn đề nguồn gốc của ý thức là 1 trong những vấn đề khó khăn cho các nhà tư tưởng từ trước đến nay, triết học từ thời cổ đại đến trước Mác.
a/ Nguồn gốctự nhiên:
Thời cổ đại, quan niệm con người có hai phần là phần hồn và phần xác. Khi chết, xác con người tan rữa nhưng hồn thì bay đi. Linh hồn bất tử. Quan niệm này rơi vào chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Còn chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng ý thức do vật chất sinh ra. Vật chất quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Nhưng họ không phân biệt được đâu là vật chất, đâu là ý thức, lẫn lộn giữa vật chất và ý thức.
Ví dụ: họ cho rằng vật chất là linh hồn quá độ của lửa. Linh hồn do lửa sinh ra. Linh hồn là nguyên tử hình cầu.
Thế kỷ XVII XVIII, quan niệm ý thức do vật chất sinh ra giống như gan tiết ra nước mật
Quan điểm duy vật biện chứng thì cho rằng ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên là óc người với thuộc tính phản ánh. Nguồn gốc xã hội là lao động và ngôn ngữ.
Nguồn gốc tự nhiên: quan niệm duy vật biện chứng cho rằng ý thức là ý thức của con người, là thuộc tính phản ánh của 1 dạng vật chất có tổ chức cao, tinh vi hoàn thiện, dạng vật chất ấy là óc người.
-Bộ óc con người là sản phẩm đặc biệt của sự tiến hóa lâu dài về mặt sinh học và mặt xã hội, sau quá trình vượn biến thành người, óc vượn biến thành óc người. Bộ óc người là tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi phức tạp gồm khoảng 14 – 17 tỷ tế bào thần kinh: Các tế bào có mối liên hệ mật thiết với nhau và với các giác quan của con người tạo thành vụ số những mối liên hệ thu nhận, điều khiển họat động của cơthể trong quan hệ với thế giới bên ngoài và hình thành nên các phản xã không điều kiện và có điều kiện.
Óc người là cơ quan sản sinh ra ý thức, óc người minh mẫn thì ý thức minh mẫn, óc người mà tổn thương thì ý thức kém, thậm chí điên loạn
Thuộc tính phản ánh của óc người. Phản ánh chia làm 4 loại trình độ: phản ánh của những chất vô cơ, phản ánh kích thích sinh vật, phản ánh hưng phấn thần kinh, phản ánh ý thức. Trong đó:
Thứ nhất: Phản ánh những chất vô cơ. Ví dụ: cho sắt vào nước thì sắt rỉ. Ánh sáng chiếu vào mặt hồ thì mặt hồ phản chiếu
Thứ 2: Phản ánh kích thích sinh vật. chẳng hạn, rễ cây đâm vào chỗ nhiều thức ăn, cây hướng dương quay về phía mặt trời.
Thứ 3: Hưng phấn thần kinh: nghĩa là tế bào thần kinh là khâu trung gian giữa cơ thể và môi trường. Ví dụ con vật chạm vào lửa sẽ phản ứng ngay
Hưng phấn thần kinh hình thành 2 loại là phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện
Phản ánh cao hơn nữa là tâm lý động vật. Ví dụ: Con vật cũng có tình cảm vui buồn. Nhưng chỉ dừng lại ở bản năng.
Thứ 4: Phản ánh ý thức là phản ánh của óc người, phản ánh thông qua ngôn ngữ, mang tính ích cực sáng tạo. Nhờ đó mà con người có thể tưởng tượng được các sự vật hiện tượng trên thế giới.
b/ Nguồn gốc xã hội:
Lao động và cùng với lao động sẽ sinh ra ngôn ngữ. Nguồn gốc xã hội cụ thể là gì? Đây là đóng góp của Ang ghen. Chính lao động đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến từ vượn sang người, làm cho con người khác với các động vật khác.
- Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu con người.
►Lao động giúp giải phóng hai chi trước của vượn thành hai bàn tay khéo léo của con người.
►Lao động tạo ra nhiều thức ăn, thay đổi khẩu phần ăn và tăng hàm lượng Prôtơin giúp não bộ, hệ thần kinh và cơbắp phát triển.
►Lao động làm cho thế giới quan bộc lộ nhiều thuộc tính bản chất, tạo điều kiện cho con người so sánh , phân tích , tổng hợp về quy luật của thế giới khách quan .
►Lao động tạo ra nhu cầu cần trao đổi thông tin, làm xuất hiện ngôn ngữ.
►Lao động giúp con người phát triển hơn những khí quan nhận thức, đb giúp con người chế tạo được công cụ SẢN XUẤT , nối dài khả năng nhận thức của con người.
Thứ 2: Chính lao động đã giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện mình. Nghĩa là, nhờ lao động con người cải tạo thế giới, giác quan con người càng nhạy bén với hiện thực, dần dần thành thói quen, con người nhạy cảm với hiện thực. Mác nói, nhờ lao động mà các giác quan của con người trở thành các nhà lý luận.
Thứ 3: Nhờ lao động, não người ngày càng phát triển, giúp tư duy trừu tượng phát triển.
Thứ 4: Nhờ có lao động để làm cơ sở để phát triển ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ con người phản ánh sự vật khái quát hơn. Có thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, bao gồm tiếng nói và chữ viết.
->Vai trò của ngôn ngữ đối với việc hình thành ý thức:
> Chuyển tải thông tin, trao đổi thông tin
> Là tư liệu để học tập từ những thế hệ đi trước.
> Là phương tiện ghi lại khoa học cho thế hệ sau.
Như vậy: Nguồn gốc sâu xa của ý thức là thế giới quan tác động vào bộ óc người, nguồn gốc trực tiếp, quan trọng nhất quyết định sự ra đời, phát triển của ý thức là thực tiễn xã hội, nhờ lao động và thông qua ngôn ngữ.
Tóm lại, ý thức có hai nguồn gốc tự nhiên và xã hội nhưng suy cho cùng về mặt thế giới quan nguồn gốc xã hội là yếu tố quyết định ý thức ra đời.
2/ Bản chất của ý thức:
Là sự phản ánh thế giới khách quan lên bộ óc con người dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đây là phản ánh tích cực chủ động sáng tạo hình ảnh chủ quan …
Qua đây ta thấy:
Thứ nhất: BẢN chất của ý thức là sự phản ánh thực Tại khách quan trên cơ sở hoạt động Thực tiễn. Ý THỨC KHÔNG PHẢI LÀ HUYỀN BÍ mà bản chất của nó là sự phản ảnh tức là có cả cái phản ảnh (Ý thức) và cái được phản ánh (vật chất). Ở đây cái được phản ánh sẽ quyết định cái phản ánh.
Thứ 2: Hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Hình ảnh chủ quan nghĩa là ý thức là hình ảnh chứ không phải là bản thân sự vật. Nghĩa là bản thân sự vật được di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó. Vì thế nội dung phản ảnh mang tính khách quan. Mức độ cải biến đến đâu là do chủ thể.
Thứ 3: Đây là phản ánh tích cực chủ động, sáng tạo:
Tích ực chủ động là con người không thụ động chờ đợi hoàn cảnh khách quan mà chủ động tác động vào khách quan để khách quan bộc lộ thuộc tính. Con người nhận thức để cải tạo thế giới khách quan theo mục đích của mình. Ví dụ: đổ dấm vào đá, đá sủi bọt
Tính sáng tạo là ý thức phản ánh sự vật và đi sâu vào bản chất sự vật, dự kiến được xu hướng phát triển của sự vật để con người chủ động đón trước. Mác nói: con người tái tạo tự nhiên theo quy luật của cái đẹp. Ví dụ: nước ta đưa ra những mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành 1 nước cơ bản là 1 nước công nghiệp. Xây nhà làm sao cho đẹp.
3. í nghĩa phương pháp luận và thực tiễn
-Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
-Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người: giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên.; vận dụng đúng đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học khụng vụ lợi; chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ.
-Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời hiện thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.

______________________________

PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊ NIN? Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỊNH NGHĨA
1/ Hoàn cảnh ra đời định nghĩa
* Khái niệm vật chất từ thời cổ đại đã bàn đến, nhưng do điều kiện lịch sử khác nhau trình độ sản xuất, kỹ thuật, nhận thức khác nhau, người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Thời kỳ cổ đại, nói chung người ta tìm 1 yếu tố ban đầu, từ đó hình thành thế giới vật chất.
Có người cho là lửa, có người cho là nước, có người cho là không khí,
Quan điểm 2: cho là nhóm yếu tố ban đầu, tác động với nhau tạo thành thế giới vật chất.
Ví dụ: Kim mộc, thủy, hỏa , thổ.
Quan điểm 3 là Thuyết nguyên tử của Dê mô cơ rít: cho rằng nguyên tử là nhỏ nhất, không phân chia được, tạo nên thế giới vật chất, giống nhau về chất lượng, khác nhau về số lượng.
Thời cận đại (thế kỷ XVII : Do khoa học tự nhiên phát triển, người ta phục hồi lại thuyết nguyên tử, cho nguyên tử là nhỏ nhất.
Người ta đồng nhất giữa vật chất và khối lượng.
Đến cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XX, một loạt các thành tịu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Ví dụ: điện tử, thuyết phóng xạ, thuyết tương đối (vật chất vận động đến một lúc nào đó thì khối lượng bằng không…
Từ đây một loạt các vấn đề theo quan niệm cũ không giải quyết được. Ví dụ: Nguyên tử hay điện tử nhỏ nhất, ai là vật chất. Đây là thời kỳ khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học.
Đứng trước tình hình ấy, để khắc phục sự khủng hoảng và đưa 1 quan điểm mới về vật chất, khảng định nền tảng của chủ nghĩa duy vật thì Lê nin đưa ra định nghĩa dưới đây:
2. Định nghĩa vật chất của Lênin:
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được qua cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh, tồn tại không phụ thuộc cảm giác
Trước hết, Lê nin trong định nghĩa vật chất đã dùng định nghĩa đặc biệt khác với thông thường. Nghĩa là đem đối lập giữa vật chất với ý thức để định nghĩa . Nghĩa là tất cả những gì bên ngoài độc lập với ý thức con người đều là vật chất.
Về nội dung định nghĩa: có 2 nội dung chính:
Thứ nhất: vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan và con người biết được qua cảm giác.
Trước hết, vật chất là phạm trù triết học. Đây là phạm trù rộng lớn nhất nhưng chỉ thực tại khách quan. Thực tại là những cái tồn tại thực sự. Khách quan là độc lập với ý thức con người.
Như vậy, tất cả những gì bên ngoài, độc lập với ý thức con người đều là thực tại khách quan.
Con người biết được qua cảm giác: Điều đó có nghĩa là vật chất có trước, cảm giác có sau
Thứ 2 là: Cảm giác chụp lại, nhắc lại và phản ảnh những tồn tại không phụ thuộc cảm giác. Nghĩa là vật chất là cái mà con người có thể nhận biết được, chỉ có cái chưa biết nhưng rồi con người sẽ biết thông qua nhận thức.
Như vậy; Theo Lênin Vật chất có 2 thuộc tính cơ bản giúp con người nhận biết được đó là: Tồn tại khách quan; nhận biết được bằng cảm giác tức thông qua các giác quan của con người.
3. Ý nghĩa khái niệm vật chất của Lê nin:
Thứ nhất: Định nghĩa này Là cái mốc thứ 2 sau vấn đề cơ bản của triết học do Ang ghen đưa ra, khảng định nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thứ 2: Định nghĩa này giúp chúng ta cơ sở để chống chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan về thuyết không chỉ biết (bất khả chi luận)
Duy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng tinh thần có trước thế giới, đẻ ra thế giới. Quan điểm đó đã không phản ảnh đúng khoa học.
Duy tâm chủ quan đã cho rằng sự vật là tổng hợp của các cảm giác. Quan điểm đó cũng không đúng. Thực chất vật chất tồn tại độc lập với ý thức con người chứ không phải là tổng hợp của cảm giác
Thuyết không thể biết là nghi ngờ nhận thức của con người. Con người chỉ nhận thức được hiện tượng mà không nhận thức được bản chất sự vật. Có một vật tự nó tức là có vùng con người không với tới như thiên đàng. Đã rơi vào duy tâm. Quan điểm Lê nin cho rằng không có cái gì là không biết, dần dần con người sẽ biết, đã chống lại quan điểm không thể biết .
Thứ 3 là: Định nghĩa này Đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là đồng nhất vật chất với vật thể.có cái vật chất không là vật thể như từ trường, chân không thì quan điểm duy tâm không giải thích được. Quan điểm Lê nin khảng định những cái không là vật thể độc lập bên ngoài ý thức, nó chính là vật chất.
Thứ tư: Định nghĩa này là cơ sở định hướng trong các ngành khoa học khác phát triển. Nghĩa là vật chất không ai sinh ra, không mất đi , nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác.Do đó Các ngành khoa học khac đi sâu nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất.
Thứ 5: Định nghĩa này, giúp chúng ta xác định được vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đó là tồn tại xã hội.

GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP

GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP.
1.Giai cấp:
Thời đại XH thị tộc, bộ lạc, loài người chưa phân thành giai cấp, Cuối thời đại thị tộc, bộ lạc trong nội bộ các cộng đồng người, dần dần hình thành giai cấp. Từ khi Xh phân chia thành các giai cấp và các cuộc đấu tranh không ngừng diễn ra lúc ngấm ngầm, lúc công khai thì quan hệ giữa người với người thay đổi về căn bản. Vậy giai cấp là gì ? g/c tồn tại trong điều kiện lịch sử nào ? Vì sao có đấu tranh g/c, đấu tranh g/c có vai trò như thế nào trong lịch sử và trong thời đại ngày nay. Đó là những vấn đề hết sức cơ bản để khám phá các qui luật lịch sử, để hiểu lịch sử XH loài người từ khi XH nguyên thủy tan rã.
a. Định nghĩa ( của Lênin): G/c là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong 1 chế độ kinh tế, xã hội nhất định.
b. Đặc trưng cơ bản của giai cấp:
- G/c là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong 1 hệ thống xã hội nhất định, sự phân chia g/c gắn liền với hệ thống sản xuất XH nhất định. Trong Xh có những hệ thống SXXH nô lệ, hệ thống SXXH phong kiến, hệ thống SX TBCN. Ngược lại có những hệ thống SXXH không chứa đựng trong lòng nó những yếu tố phân chia g/c như hệ thống SXXH CSNT, hệ thống SX CSCN mà giai đoạn đầu gọi là XHCN.
HTSX XH qui định địa vị của các g/c, có g/c giữ địa vị thống trị, có g/c giữ địa vị bị thống trị.
- Các g/c có quan hệ khác nhau về quyền sở hữu đối với TLSX: G/c nào chiếm đoạt được những TLSX chủ yếu của XH thì g/c đó sẽ giữ quyền thống trị nền sản xuất XH, giữ quyền tổ chức quàn lý sản xuất và cũng giữ quyền phân phối sản phẩm do XH tạo ra.
- Các g/c có quan hệ khác nhau trong việc tổ chức lao động XH. Đặc trưng này do chính đặc trưng thứ 2 qui định.
- Các g/c có những phương thức và qui mô thu nhập khác nhau về của cải XH. Đặc trưng này do đặc trưng thứ 2 qui định
04 đặc trưng trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đặc trưng 02 là giữa vai trò quuyết định, nghĩa là g/c nào chiếm đoạt TLSX chủ yếu của XH, thì g/c ấy không những giữ địa vị thống trị sản xuất XH, giữ lấy quyền quản lý sản xuất mà còn có quyền phân phối sản phẩm.
c. Nguồn gốc, nguyên nhân ra đời & kết cấu của g/c:
+ Nguồn gốc: Nguồn gốc kinh tế là nguồn gốc quan trọng nhất.. G/c chỉ ra đời và tồn tại trong
những điều kiện lịch sử nhất định.
Thời kỳ nguyên thủy: trình độ sản xuất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống con người, để tồn tại họ phải sống bầy đàn lệ thuộc vào nhau nên g/c chưa xuất hiện.
Khi LLSX phát triển, CCSX bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá dẫn đến năng suất lao động tăng đáng kể cho nên của cải dư thừa xuất hiện dẫn đến phân công LĐ hình thành cho nên chế độ tư hữu ra đời vì thế g/c xuất hiện. Như vậy XH chiếm hữu nô lệ là XH có g/c đầu tiên hình thành bằng 2 con đường: phân hóa nội bộ trong CSNT và chiến tranh cướp bóc, biến tù binh thành nô lệ.
Sự tồn tại của g/c đối kháng gắn với chế độ CHN, PK, TBCN, CNTB phát triển cao lại tạo tiền đề thủ tiêu chế độ tư hữu, cơ sở kinh tế của đối kháng g/c trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội dẫn tới logic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
+ Kết cấu: Trong 1 hình thái KTXH có g/c thì có 1 kiểu kết cấu g/c nhất định ( nói chung g/c cơ bản và g/c không cơ bản ). Khi hình thái kết cấu XH thay đổi dẫn đế kết cấu cũng thay đổi theo. Trong 1 kiểu kết cấu g/c xác định gồm: g/c cơ bản, g/c không cơ bản , có những tầng lớp không thuộc g/c nào ( tầng lớp trí thức).
2. Đấu tranh giai cấp:
a. Định nghĩa: (Lênin) Đấu tranh g.c là đấu tranh giữa những gc mà lợi ích căn bản đối lập và kết cục của cuộc đấu tranh đó đi đến 1 cuộc cách mạng XH để thay đổi chế độ XH này bằng 1 chế độ khác tiến bộ hơn.
Chủ yếu đấu tranh gc là đấu tranh giữa gc bị bóc lột, bị áp bức, bị thống trị chống lại gc bóc lột, áp bức, thống trị
b. Nguyên nhân:
- Trực tiếp: Do địa vị đối lập nhau.
- Sâu xa: sự đối kháng gc xuất phát từ mâu thuẫn giữa LLSX mới với LLSX lỗi thời
c. Vai trò của đấu tranh gc:
Lịch sử XH kể từ khi xuất hiện gc đến nay là lịch sử đấu tranh gc. Trong XH có gc đối kháng thì gc là 1 trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của XH. Vai trò đó thể hiện:
+ Thông qua đấu tranh gc thì mâu thuẫn giữa LLSX mới & QHSX lỗi thời sẽ giải quyết. Thúc đẩy sự phát triển của XH từ HTKT- XH này đến HTKT XH khác tiến bộ hơn.
Sự phát triển của XH xèt đến cùng là do sự phát triển của LLSX quyết định. LLSX mới mâu thuẫn với QHSX lỗi thời, biểu hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa gc đại diện cho LLSX mới và gc đại diện cho QHSX lỗi thời. Mâu thuẫn đó chỉ có thể giải quyết bằng cuộc đấu tranh gc mà đỉnh cao là CMXH nhằm xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới.
+ Đấu tranh gc là động lực phát triển XH. Trong XH có gc đối kháng không chỉ thể hiện trong thời kỳ CMXH mà còn thể hiện trong cả thời kỳ hòa bình. Vd: cuộc đấu tranh chống kéo dài thời gian lao động, sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất LĐ cho nhân công, đấu tranh trong nước và áp lực của các nước khác để có những cải cách tiến bộ.
+ Đấu tranh gc không chỉ có tác dụng cải tạo XH mà còn có tác động cải tạo bản thân gc cách mạng. Qua đấu tranh gc , gc CM được tôi luyện và trưởng thành về lý tưởng, lý luận, tổ chức.
3. Liên hệ thực tế:
Hiện nay đấu tranh gc biển đổi phong phú và đa dạng, đấu tranh về kinh tế, chính trị và cả văn hóa…
Nội dung đấu tranh gc ở nước ta hiện nay:
- Đấu tranh giữ vững chính quyền CM, chống lại âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
- Đấu tranh chống khuynh hướng tự phág TBCN, đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
- Đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tham những, mớc ngoặc.
- Đấu tranh để thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa đưa nước ta thành 1 nước công nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

___________________________-

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
NỘI DUNG
I - Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1. Lực lượng sản xuất.
a. Khái niệm.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên . Trình độ của lực lượng sản xuất , thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của loài người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người .
b. Nội dung
Lực lượng sản xuất bao gồm :
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra , trước hết là công cụ lao động.
-Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao động , biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
-Tư liệu sảnt xuất bao gồm : - Đối tượng lao động
- Tư liệu lao động : + Công cụ lao động
+ Những tư liệu lao động khác
Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên , mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất . Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn , mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động , chúng dẫn chuyền sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất . Đối với mỗi thế hệ mới những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai . Vì vậy những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử . Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động , khi chúng kết hợp với đời sống . Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu , nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng , khồg thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhau . Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học-kĩ thuật , kĩ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định . Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội . Lênin viết : “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân , là người lao động “.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần con người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi . Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ gồm người lao động chân tay mà còn cả kĩ thuật viên , kĩ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
2.Quan hệ sản xuất
a.Khái niệm
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội : Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng . Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức . Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội , nó tồn tại khách quan , độc lập với ý thức của con người . Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội . Một kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế xã hội nhất định.
b. Nội dung
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau :
- Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệusản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý
- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau , trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác . Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất :
+ Sở hữu tư nhân
+ Sở hữu xã hội
Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội . Đương nhiên để cho tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ” phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu. Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định . Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã hội ấy. Vì vậy khi nghiên cứu , xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không thể nào nhìn ở trình độ của lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất .
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất . Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người , vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kĩ thuật của nền sản xuất . Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội , chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất . Nó do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qui định.
3. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người , quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất . Đến lượt mình , quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất . Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người . Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn.
a. Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo hơn.Cùng với sự phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ thuộc nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới , quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay thế bằng mối quan hệ mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành , biến đổi , phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển , nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất:Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời , theo tính chất tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất , quy định hệ thống của tổ chức , quản lý xã hội , quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng . Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội ( con người ) , nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động , áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất , hợp tác và phân công lao động . Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống , một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt : Quan hệ sở hữu , quan hệ quản lý và quan hệ phân phối . Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
c. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất . Trong sự thống nhất biện chứng này , sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất . Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động , phát triển nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất . Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người . Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.
II - Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ trước đến nay nói chung và từ năm 1954 đến nay ở Việt Nam .
1 . Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ trước đến nay.
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là : Thời kỳ công xã nguyên thuỷ , thời kỳ chiếm hữu nô lệ , thời kỳ phong kiến , thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định . Chính những những phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội . trong đó hình thái kinh tế xã hội thời kì công xã nguyên thuỷ là hình thái sản xuất tự cung tự cấp . Đây là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng . ở thời kì này lực lượng sản xuất chưa phát triển , nó chỉ là sản xuất tự cung tự cấp , khi mà lao động thủ công chiếm vị trí thống trị . Và trong hình thái kinh tế xã hội này do lực lượng sản xuất chưa phát triển nên kéo theo sự chậm phát triển của quan hệ sản xuất . Đây là mối quan hệ kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên , khép kín trong phạm vi nhỏ của từng đơn vị , không cho phép mở rộng mối quan hệ với các đơn vị khác . Hình thái kinh tế xã hội này còn tồn tại đến thời kì chiếm hữu nô lệ . Đến thời kì phong kiến sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới hình thức điền trang , thái ấp và kinh tế nông dân gia trưởng . Vì vậy mà phương thức sản xuất ở các thời kì này có tính chất bảo thủ , trì trệ và bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp thoả mãn tiêu dùng nội bộ từng gia đình .....
Do mỗi hình thái kinh tế xã hội như vậy nên quan hệ sản xuất của nó cũng tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử loài người .
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển các hình thái kinh tế xã hội thì lực lượng sản xuất bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội , quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao . Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử . Những quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu sản xuất mới cao hơn trong thời kì tư bản chủ nghĩa . Trong thời kì này , Mác nhận định rằng : “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại vĩnh viễn , mà chỉ là sự quá độ tạm thời trong lịch sử . Quá trình phát sinh và phát triển của phương thức sản xuất này . Nó không chỉ tạo ra tiền đề xã hội mà điều quan trọng là đã tạo ra những tiền đề vật chất , kinh tế cho sự phủ định sự ra đời của phương thức sản xuất mới .” đã được trình bầy trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh” của F.Ănghen . Đó là một tất yếu khách quan theo đúng yêu cầu của quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất .
Từ sự phân tích trên cho thấy lôgic tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của phương thức sản xuất mới - Cộng sản chủ nghĩa về mặt lý thuyết là phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử loài người .
Theo quan niệm của C.Mac giai đoạn này phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở chính nó . Do đó về mọi phương diện kinh tế , đạo đức, tinh thần còn mang dấu vết của xã hội cũ . Trong giai đoạn này quyền lợi không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định , cho nên phân phối theo lao động là không tránh khỏi . Từ những điểm này có thể thấy giai đoạn xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng kinh tế chủ yếu sau : Tình độ xã hội hoá tuy có cao hơn chủ nghĩa tư bản song còn thấp hơn so với giai đoạn cao của xã hội cộng sản . Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu : Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể . Lao động vừa là quyền lợi vùa là nghĩa vụ , phân phối theo lao động còn mang dấu vết “pháp quyền tư sản”. Kết thúc giai đoạn thấp , xã hội cộng sản bước lên giai đoạn cao , giai đoạn mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch của họ vào sự phân công lao động không còn nữa , cùng với sự phụ thuộc đó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay không còn nữa , khi mà lao đông không những là phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sinh sống , khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân , năng xuất của họ cũng ngày một tăng lên và tất cả các nguồn mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của các quyền tư sản .
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vạch ra quy luật khách quan của sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên . Trong đó sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình , con người ta có những quan hệ nhất định , tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ , tức những quan hệ sản xuất , những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ . Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội tức là cái cơ sở hiện thực , trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị tương ứng với cơ sở thực tại đó có những hình thái ý thức xã hội nhất định . Phương thức sản xuất chính trị và tinh thần nói chung . Không phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ , trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ . Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng , các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ gây mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có , hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sở hữu , trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển . Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất , khi đó bắt đầu thời đại của cuộc cách mạng xã hội .
2. Biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1954 - 1975 ở Việt Nam.
Năm 1954 sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , Đảng ta đã thực hiện chủ trương đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa . Mặc dù chủ trương đua đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được xác định từ đầu thế kỷ XX , nhưng đến thời gian này mới có điều kiện để đưa đất nước tiến lên theo con đường này . Tuy nhiên sau một thời gian dài nước ta phải chịu ách thống trị của thực dân Pháp với những chính sách thống trị “ngu dân” của chúng đã làm cho con người của đất nước chúng ta kém phát triển và bị tụt hậu , điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản xuất , nó làm cho nền kinh tế nước ta bị tụt hậu rất nhiều năm so với thế giới bên ngoài . Chúng ta đều biết rằng phương thức sản xuất là cách con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định . Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất , trong đó lực lượng sản xuất là thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và những người sử dụng những tư liệu này để sản xuất ra của cải vật chất . Trong lực lượng sản xuất yếu tố con người đóng vai trò chủ thể và quyết định . Con người chẳng những là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất bằng sức mạnh cơ bắp , trí tuệ của mình , mà còn không ngừng sáng tạo ra những công cụ lao động để sản xuất . Từ tình hình lực lượng sản xuất như vậy nên quan hệ sản xuất trong thời kì này tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau đó là : Sở hữu cá nhân , sở hữu tập thể và sở hữu tư bản tư nhân . Trong hoàn cảnh phương thức sản xuất diễn ra như vậy nên Đảng ta đã chủ trương cải tạo : ở thành phố là công tư hợp doanh còn ở nông thôn là cải cách ruộng đất .
Đảng ta đã quyết tâm đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Từ những chủ trương đổi mới của Đảng ta mà đến năm 1960 quan hệ sản xuất đã có sự thay đổi cơ bản từ hình thức sở hữu tư nhân đưa lên hình thức sở hữu tập thể , hình thức sở hữu tập thể đưa lên hình thức quốc doanh , còn hình thức tư bản tư nhân thì vận động lên hình thức công tư hợp doanh .
Những chủ trương trên đã được Đảng ta khẳng định trong đại hội Đảng III. Mặc dù quan hệ sản xuất lúc này không còn được phù hợp chặt chẽ với lực lượng sản xuất , nhưng trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì tài sản tập trung trong tay nhà nước và quan hệ phân phối theo lao động lại là chính sách có hiệu quả để thúc đẩy đất nước đi lên dành thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975và thực hiện cải cách miền Bắc thành công .
3. Quá trình tồn tại và phát triển của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt nam từ năm 1975 đến trước 1986.
Mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ chí minh lịch sử nước ta đã hoàn toàn giải phóng . Đảng ta chủ trương đưa cả nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa . Tuy nhiên do quá vội vã trong công cuộc đổi mới đất nước nên Đảng ta đã mắc phải một số sai lầm . Những sai lầm lúc này là : Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là tập thể và quốc doanh với cơ chế “xin cho , cấp phát”. Từ những sai lầm trên đã dẫn đến những hậu quả về kinh tế xã hội : Các thành phần kinh tế kém phát triển và lâm vào tình trngj khủng hoảng kinh tế những năm đầu thập kỷ 80 . Điều đó cũng chứng tỏ rằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là không phù hợp . Một mối quan hệ sản xuất tiến bộ không thể áp đặt cho một lực lượng sản xuất thấp kém . Đó chính là bài học cho Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước .
4. Sự biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1986 đến nay
Đứng trước tình hình khó khăn và những sai lầm đã mắc phải trước đó , đại hội đại biểu toàn quốc khóa VI của Đảng cộng sản Việt nam đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước . Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức cho đúng mục tiêu và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta .
Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa , đó không phải là những bước đi tất yếu , hợp quy luật . Từ đó Đảng cổng sản Việt nam đã quy định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện nước ta hiện nay . Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước , thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực , thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng . Trong các thành phần kinh tế , Đảng khẳng định kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo . Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong những năm qua đã chứng minh điều đó .
Đại hội đại biểu toàn quốc khoá VIII của Đảng cộng sản Việt nam nhận định “Nước ta chuyển thời kỳ phát triển mới , thời kỳ thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . . . . . Mục tiêu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá kà xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . . . “
Đảng ta còn khẳng định : “Nền công nghiệp hoá , hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền hành hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp . . .”
Nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần mà Đnảg ta chủ trương là nền kinh tế phát triển theo định hươngs xã hội chủ nghĩa . Do đó phải chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế hợp tác , làm cho nền kinh tế nông nghiệp thật sự làm ăn có hiệu quả , phát huy vai trò chủ đạo , cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
C - KẾT LUẬN
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai .
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là : “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc , dân giàu nước mạnh xã hội công bằng , văn minh”
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay công nghiệp hoá hiện đại hoá là khuynh hướng tất yếu của tất cả các nước . Đối với nước ta , từ một nền kinh tế tiểu nông , muốn thoát khỏi nghèo nàn , lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu cũng phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá như là : “Một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội “.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Song về mặt nhận thức chúng ta đã đặt công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như đối lập hoàn toàn với công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa . Trong lựa chọn bước đi đã có lúc chúng ta thiên về phát triển công nghiệp nặng , coi đó là giải pháp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội , nà không coi trọng đúng mức việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ . Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách đơn giản là quá trìng xây dựng một nền sản xuất được khí hoá trong tất cả các nghành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá , kết hợp những bước tiến tuần tự về cônh nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt , đón đầu , hìhn thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới . Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , vận hành theo thị trường , có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời , chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo lên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.

Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới (mầm mống quan hệ sản của xã hội sau). Ví dụ: trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam, về cơ bản có các kiểu quan hệ sản xuất sau: quan hệ sản xuất cũ là kiểu quan hệ sản xuất phong kiến, tư bản chủ nghĩa; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa định hướng cho sự phát triển cơ sơ hạ tầng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
Trong mối quan hệ của các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, thì quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò qui định, chi phối các quan hệ sản xuất khác. Tương ứng với quan hệ sản xuất trong cơ sở hạ tầng là các thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị qui định các quan hệ sản xuất khác.
Đặc trưng, bản chất của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví dụ: quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam phản ánh bản chất kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta. Tương ứng với các kiểu quan hệ sản xuất trong một cơ sở hạ tầng là các thành phần kinh tế khác nhau. Ví dụ: trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam bao gồm rất nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tư nhân của người sản xuất nhỏ, thành phần kinh tế tư nhân tư bản…
Trong xã hội có giai cấp thì cơ sở hạ tầng mang tính giai cấp. Bởi, nó đều phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp khác nhau.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của nó được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Tư tưởng xã hội, là những hiện tượng xã hội được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Đó là chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ. Thiết chế xã hội tương ứng với tư tưởng xã hội trên là giai cấp, chính đảng, nhà nước, giáo hội và các tổ chức xã hội khác…
Mỗi bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm và qui luật riêng, nhưng chúng đều có sự tác động biện chứng qua lại lẫn nhau khi phản ánh cơ sở hạ tầng. Trong các bộ phận khác nhau đó, thì nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là các bộ phận quan trọng nhất trong xã họi có giai cấp.
Đặc trưng, bản chất của một kiến trúc thượng tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví dụ: bản chất của nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, phản ánh tính giai cấp ở trong cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì bộ phận thể hiện quyền lực xã hội quan trọng nhất là nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị thể hiện quyền thống trị xã hội của nó về mặt chính trị, pháp luật và các mặt quan hệ xã hội khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời thống trị về mặt tinh thần. Cho nên, cơ sở hạ tầng nào thì sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, hoặc giữa các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng mất theo. Song, có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại rất lâu trong xã hội mới, nhất là về mặt tư tưởng. Trong quá trình chuyển hoá giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng mới bao giờ cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới những hình thức cụ thể nào đó.
b) Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở hạ tầng; nhưng nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị tác động một cách trực tiếp và quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng cũng có thể thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng có thể kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng cơ sở hạ tầng và thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì nó củng cố bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngược lại, nó phản ánh không đúng đối với cơ sơ hạ tầng và không thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì lại kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng
3. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó, kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, v.v... Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong cuộc phát triển kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân. Các tổ chức, thiết chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

_________________________

Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.Tồn tại xã hội bao gồm ba nhân tố: Môi trường (hoàn cảnh địa lý); dân số và phương thức sản xuất. Trong đó, môi trường, dân số là yếu tố thường xuyên, tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội; còn phương thức sản xuất là yếu giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Theo nghĩa đó, ý thức xã hội là các lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống… hoặc thể hiện thông qua các hình thái ý thức xã hội cụ thể như: ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Trước triết học Mác về có nhiều quan điểm không đúng về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội cũng như vai trò của nó với đời sống xã hội. Chẳng hạn, triết học duy tâm đi tìm nguồn gốc của ý thức, tư tưởng từ bản thân nó; xem tinh thần, tư tưởng hoặc các lực lượng siêu nhiên là nguồn gốc và quyết định mọi hiện tượng xã hội.
Một trong những ý nghĩa bước ngoặt cách mạng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện trong lịch sử triết học đó là việc xây dựng quan điểm duy vật lịch sử và lần đầu tiên đã giải thích khoa học vấn đề sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức xã hội. Các ông cho rằng đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc tư tưởng xã hội, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. C.Mác viết: “... không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và nhưng quan hệ sản xuất xã hội”[1].
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị pháp quyền, đạo đức... sớm muộn cũng sẽ biến đổi theo. Vì thế, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau. Sự thay đổi của ý thức xã hội có thể là sự phản ánh đúng, hoặc không đúng đối với tồn tại xã hội; nhưng xét cho cùng về lâu dài, ý thức xã hội có khả năng phản ánh đúng, dầy đủ và chính xác đối với quá trình thay đổi của tồn tại xã hội. Vấn đề này đã được C.Mác khẳng định: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[2].
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không chỉ dừng lại ở việc xác định nguồn gốc, sự phụ thuộc của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội mà còn chỉ ra rằng không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà xét cho cùng những quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng, quan niệm ấy. Bởi vì, không chỉ có ý thức chính trị phản ánh trực tiếp quan hệ kinh tế của quan hệ giai cấp, mà nó còn được phản ánh ở các hình thái ý thức khác; mặt khác trong các hình thái ý thức xã hội còn bao hàm sự tác động qua lại và bao hàm cả sự kế thừa với quá khứ.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội có khuynh hướng nhanh hơn so với sự thay đổi và phát triển của ý thức xã hội. Bởi vì, ý thức xã hội dù thể hiện dưới hình thức nào, như ý thức thông thường, ý thức lý luận, hệ tư tưởng và các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền…cũng chỉ nảy sinh từ tồn tại xã hội và là phản ánh, bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Mặt khác, về nguyên tắc ý thức xã hội có thể phản ánh đúng hoặc không đúng với sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội, nhưng xét về lâu dài nó sẽ phù hợp với tồn tại xã hội.
Do sức mạnh của thói quen tâm lý, mặt hạn chế của truyền thống, tập quán cũng do tính lạc hậu, bảo thủ của một số các hình thái ý thức xã hội cũng tác động ngược lại sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội luôn gắn liền với lợi ích của nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được những lực lượng lưu giữ, truyền bá, sử dụng bảo vệ lợi ích của mình chống lại những những lực lượng xã hội tiến bộ.
Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, thì chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định rằng trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người và đặc biệt vai trò tiên phong của những tư tưởng khoa học tiên tiến bởi tính vượt trước của nó so với tồn tại xã hội.
Tri thức khoa học không chỉ có khả năng dự báo tương lai, mà nó còn có ý nghĩa tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn hướng hoạt động thực tiễn của con người giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ chín muồi của đời sống vật chất đặt ra; nhưng nó vẫn phụ thuộc và bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Ví dụ như vai trò của khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay.
Yếu tố kế thừa trong sự tồn tại và phát triển của ý thức xã hội. Quan điểm về sự phát triển của xã hội kể cả ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ coi yếu tố kế thừa là cơ sở lý luận giải thích mối quan hệ biện chứng giữa cái mới và cái cũ trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội; mà nó còn là điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của cái mới. Lịch sử hình thành và phát triển của ý thức cá nhân, ý thức xã hội xét cho cùng là sự kế thừa và phát triển giữa các cá nhân, giữa cá nhân với ý thức xã hội và ngược lại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái của ý thức xã hội. Ý thức xã hội bao gồm nhiều hình thái ý thức xã hội cụ thể khác nhau như: chính trị, pháp quyền, đạo đức... và sự tác động qua lại giữa chúng làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Lịch sử hình thành và phát triển của ý thức xã hội, không chỉ đơn thuần là sự phản ánh của mỗi một hình thái ý thức xã hội cụ thể như chính trị, pháp quyền… đối với tồn tại xã hội dưới các hình thức khác nhau; mà còn có sự tác động giữa chính trị đối với pháp quyền và ngược lại…tạo nên, sự thống nhất, tính mâu thuẫn giữa các hình thái ý thức xã hội, phản ánh toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội dưới các hình thức khác nhau. Chính vì vậy, trong xã hội có giai cấp thì vai trò của hệ tư tưởng chính thống trị sẽ chi phối tất cả các hình thái ý thức xã hội khác. Thậm chí, tôn giáo cũng có khả năng “định hướng” cho cái thiện và làm việc thiện của con người trong một chừng mực nhất định nào đó khi nó quan hệ với đạo đức, quan hệ giữa cái thiện và cái ác dù là ở trong tư tưởng của tôn giáo. Hơn nữa, không thể phù nhận vai trò của tôn giáo đối với quá trình hình thành, phát triển phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của các nền văn hoá khác nhau. Nhất là vấn đề tính ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân. Ví dụ: nghiên cứu nguồn gốc, bản chất và các hình thức của bản sắc văn hoá truyền thống Việt Nam, không thể không nghiên cứu vai trò của nho giáo, phật giáo và đạo giáo.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chống lại quan điểm truyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, hoặc bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó không phải là sự phản ánh đơn giản, máy móc về tồn tại xã hội mà tác động một cách tích cực, năng động và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn trong cuộc sống vật chất của xã hội.
Tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức xã hội phụ thuộc vào những điểu kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của những mối quan hệ kinh tế mà trên đó ý thức xã hội được nảy sinh, tồn tại và phát triển. Tư tưởng tiến bộ cách mạng có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội và đồng thời cũng thấy được những mặt tiêu cực hạn chế của những tư tưởng lạc hậu, phản động tác động ngược lại sự phát triển của xã hội.

Tự Luận (CNXH)

Tự luận
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu là hệ tư tưởng hay hệ thống kinh tế đối lập với chủ nghĩa tư bản. Cuộc chiến về lí luận và thực tế giữa những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là trung tâm của các sự kiện thế giới trong suốt thế kỷ XX.
Những người theo chủ nghĩa xã hội hay ủng hộ chủ nghĩa xã hội công kích chủ nghĩa tư bản đã gây ra bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, chế độ đẳng cấp, nạn bóc lột lao động, lối sống thực dụng. Họ cũng công kích những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản dung dưỡng, dung túng cho nhiều chế độ quân chủ, thần quyền (như một số nước Trung Đông và một số nước khác hiện nay),cho chủ nghĩa phong kiến và địa chủ, các hủ tục, cho các chế độ phân biệt chủng tộc (như Nam Phi). Chủ nghĩa tư bản theo họ là cha đẻ cho chủ nghĩa thực dân (chủ nghĩa đế quốc), hay thao túng kinh tế các nước nghèo đói. Chủ nghĩa tư bản được xem là góp phần dựng nhiều chế độ độc tài hay cai trị độc đoán, chuyên chế ở Mỹ Latin (Haiti, Nicaragua,Paraguay, Chile, Argentina, Peru, El Salvador...), ở Philippines, Nam Triều Tiên, Nam Việt Nam, Indonesia trước đây, chế độ quân phiệt và độc đoán Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc và Đài Loan, ở một số nước châu Phi, chế độ độc đoán trước đây ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Những người theo chủ nghĩa tư bản hay ủng hộ chủ nghĩa này đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội gây ra nhiều cuộc nội chiến, các cuộc cách mạng (mà họ thường gọi là đảo chính hay nổi loạn), sự cưỡng ép các mô hình kinh tế tập thể hay nhà nước gây nghèo đói, tham nhũng, tước đoạt quyền tư hữu. Họ cho các nạn đói trên diện rộng ở Trung Quốc, Campuchia,... một số nước châu Phi trước đây là hậu quả của kinh tế hợp tác cưỡng ép. Những người theo chủ nghĩa tư bản cũng cho chủ nghĩa xã hội cản trở cho tự do kinh doanh của người dân, để nhà nước thao túng toàn bộ kinh tế (bao gồm cả truyền thông, giáo dục, y tế...)gây bất bình đẳng, chậm phát triển. Đường lối chống tôn giáo của một số phái chủ nghĩa xã hội bị xem là cực đoan. Nhiều người theo chủ nghĩa tư bản cũng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội gây ra các chế độ cai trị độc đoán ở Bắc Phi và một số nước châu Phi khác (Zimbabwe,...), Syria, Iraq, Miến Điện trước đây, các chế độ độc đoán của Stalin (Liên Xô), Mao Trạch Đông (Trung Quốc), Nicolae Ceauşescu ở Romania,... chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia. .
Cả hai phía ủng hộ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đều đổ lỗi cho nhau gây sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít(chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, , chủ nghĩa tư bản,chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản.). Sự phát triển của các phong trào Hồi giáo cực đoan được những người theo chủ nghĩa xã hội đổ lỗi cho sự khuyến khích của chủ nghĩa tư bản để chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng bản thân những người này có khi cũng chống cả chủ nghĩa tư bản.
Theo lý luận của những người cộng sản, nhất thiết cần tiến hành cách mạng vô sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản đặc biệt là sự đa dạng hóa trong sở hửu và quản lý gây khó khăn và làm phân hóa thêm những người theo chủ nghĩa xã hội.Nhưng theo tôi việt nam là một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.và xây dựng đất nước trên nền tảng chủ nghĩa xã hội từ đó đến nay.và đả đạt được những thành tựu to lớn.tuy nhiên những sai lầm và thất bại cũng không ít.Vì vậy chúng ta nên dựa trên nền tảng xã hội chủ nghĩa có sẳn và cũng cần phải biết kết hợp những thành tựu trong quá trình xây dựng hiện thực từ hai chủ nghĩa này mang lại.Và cần phải xóa bỏ những sai lầm mắc phải của hai chủ nghĩa này từng gây ra.
lý tưởng cao nhất của CNXH là làm việc hưởng theo lao động. Trong đó, người lao động sẽ nhận đầy đủ những giá trị thặng dư do mình làm ra. Chủ lao động sẽ nhận được mức thặng dư trên nền tảng thỏa thuận và có quản lý của nhà nước - đại diện cho giai cấp CN - VS - TT và các tầng lớp tiểu tư sản.nhưng về cơ bản Vì CNTB có rất lâu trước CNXH, lại có rất nhiều thành tựu trong các cuộc cách mạng KH-KT nên những thặng dư nó tích lũy được rất lớn so với CNXH. Do những kinh nghiệm tích lũy được, các nước TBCN có cách điều hành hệ thống kinh tế - giáo dục tốt hơn, tác phong công nghiệp tốt hơn, tập trung đầu tư cho phát triển công nghệ với tần suất cao cũng là một nguyên nhân khiến cho trình độ KH-KT của các nước CNTB vượt trội hơn so với CNXH.
Trên mặt bằng chung, những nước đi lên CNXH, trừ Liên Xô, đều trải qua thời kỳ bị đô hộ từ phong kiến cho đến thực dân, trình độ lạc hậu, kinh tế nghèo nàn. Để giành lấy độc lập cho dân tộc, không còn con đường nào khác hơn phải xây dựng một hệ thống chính trị đối lập với hệ thống chính trị của CNTB. Nhưng với tài nguyên đã bị các nước TBCN và chính bản thân nước đó khai thác triệt để và ít có khả năng khôi phục đã khiến cho các nước bị hạn chế tiềm lực phát triển. dựa trên những nền tảng công nghệ đã có của các nước TBCN nên không thể nào có trình độ KH-KT và kinh tế hơn các nước TBCN. Nhưng hiện nay, cán cân không còn qua thiên lệch .
chúng ta cần:
tổng hợp các tư tưởng phản ảnh các cuộc đấu tranh giai cấp .
tổng hợp các tư tưởng phản ảnh những ước mơ, nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của con người mà trước hết là những người lao động nghèo khổ về một xã hội tương lai tốt đẹp không có áp bức bóc lột. tổng hợp những (phương pháp, cách thức, con đường) giải pháp khả thi để đi đến xã hội mong muốn đó.
Rivaret

____________________

THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI là gì?
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội.
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của TKQĐLCNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ này bao gồm: 1) Cải tạo những thành phần kinh tế không xã hội chủ nghĩa theo hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từng bước phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2) Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. 3) Đối với những nước kém phát triển, còn phải phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật mà thiếu nó thì không thể có chủ nghĩa xã hội. Thời kì quá độ dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tình hình lịch sử cụ thể của mỗi nước, nhất là vào trình độ xuất phát ban đầu. Trong thời kì đó, việc tiến hành cải tạo xã hội ở từng nước có thể sử dụng những hình thức và phương pháp cụ thể riêng biệt phù hợp với những điều kiện lịch sử, dân tộc, kinh tế, chính trị và văn hoá của mỗi nước. Ở Việt Nam , sau 1975, cả nước bước vào TKQĐLCNXH. Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (6.1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ. Cương lĩnh đã khẳng định tính tất yếu của thời kì quá độ, đề ra những phương hướng cơ bản và những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại trong thời kì đó. Cương lĩnh cũng chỉ rõ, TKQĐLCNXH ở Việt Nam là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá… phù hợp làm cho Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
_____________________
vấn đề của nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội,
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định.
Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa........Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng,
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước phát triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Rivaret