Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Lý tưởng cộng sản

lý tưởng cộng sản!
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.
- chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn với các chế độ xã hội trước đó thể hiện trên một số nét cơ bản như sau:
(1) Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện;
(2) Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên tiến, hiện đại;
(3) CNXH là từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
(4) CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao dộng mới với năng suất cao;
(5) CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;
(6) Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động;
(7) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
muốn đạt tới lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cá nhân. chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân; trái lại, tôn trọng cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì sự phát triển xã hội và hạnh phúc của con người nói chung. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt trái của nó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy hiểm, ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Nếu không gạt bỏ được nó ra khỏi ý thức và hành động của chúng ta, thì chúng ta sẽ tự mình phá hủy sự nghiệp của mình.
Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa.cần chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội.chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó, con người ứng xử với nhau theo phương châm: mình vì mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế, và chăm lo giáo dục, phát triển con người là chiến lược quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa xã hội.
Điều cần lưu ý là, mặc dù rất chú trọng nhân tố đạo đức trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ nghĩa là thuộc về bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội,song đề cao sức mạnh tinh thần của đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng,dẩn đến bản chất giáo điều.cứng nhắc,phản tác dụng
Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin của dân. trước hết Đảng phải tăng cường đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.đó là điểm mấu chốt. Chỉ như vậy, Đảng mới mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mới xứng đáng với lòng tin của nhân dân.Bên cạnh đó, Đảng phải luôn luôn giữ được mối liên hệ máu thịt với nhân dân,
Muốn vậy, trong phương thức lãnh đạo, Đảng "phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hóa nó thành cách chỉ đạo nhân dân"
toàn dân, toàn quân hưởng ứng, trước hết, mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, cũng như củng cố, giữ vững niềm tin đối với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng trở nên cấp thiết khi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cũng như sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội nước ta.
Rivaret

_____________________________

XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA là mục tiêu, lí tưởng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những đặc trưng cơ bản của XHXHCN đã được Mac và Enghen nêu lên trong học thuyết của mình và được Lênin phát triển, sáng tạo.
XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA là mục tiêu, lí tưởng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những đặc trưng cơ bản của XHXHCN đã được Mac và Enghen nêu lên trong học thuyết của mình và được Lênin phát triển, sáng tạo. XHXHCN hiện thực do Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa xây dựng thể hiện trên các mặt: 1) Về chính trị, là sự xác định vai trò lãnh đạo độc quyền của giai cấp công nhân thông qua nhà nước chuyên chính vô sản trên cơ sở liên minh công nông và trí thức; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tối cao: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. 2) Về kinh tế, là sự thống trị của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển một nền kinh tế theo kế hoạch tập trung, thống nhất, triệt tiêu các quan hệ thị trường. 3) Về văn hoá tinh thần, tiến hành cuộc cách mạng văn hoá, tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống văn hoá, giáo dục tư tưởng Mac - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản. Hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua cho thấy, mô hình XHXHCN truyền thống đã bộc lộ những thiếu sót và nhược điểm căn bản: hệ thống chính trị cứng nhắc, thiếu dân chủ, bộ máy nhà nước quan liêu, cồng kềnh, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi; nền kinh tế kế hoạch tập trung dẫn đến trì trệ, triệt tiêu mọi động lực và khả năng phát triển, sáng tạo. Vì vậy dẫn đến công cuộc đổi mới, cải tổ trong tất cả các nước xã hội chủ nghĩa song nhiều nước đã thất bại. Trong tình hình phức tạp hiện nay, vấn đề mô hình XHXHCN đổi mới đang còn được tiếp tục nghiên cứu về mặt lí luận trên thế giới và đang được xây dựng theo sự đổi mới về tư duy và đường lối ở một số nước. Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, XHXHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của xây dựng XHXHCN là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
__________________________________
xây dựng chủ nghĩa Mac
Cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học nào khác, do hạn chế của lịch sử, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, không phải không có những nhận định sai. Chẳng hạn, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác đã phát hiện quy luật vận động phát triển của nó, nhưng lại không đánh giá hết tính co giãn, khả năng tự biến đổi của xã hội tư sản. Đọc Mác, người ta thấy dường như mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cứ ngày một tăng lên và dường như mọi tiến bộ xã hội được thực hiện trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đều chống lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chế độ xã hội đó thêm ngắc ngoải. Thực tiễn cho thấy cách đặt vấn đề như vậy là một chiều, còn phiến diện và thậm chí xa lạ với bản thân phương pháp luận mác xít.
Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ nhận chủ nghĩa Mác là những hiện tượng mới nảy sinh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội. Một mặt, chủ nghĩa tư bản mà Mác tuyên bố tất yếu sẽ diệt vong thì đã chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Còn ở mặt khác, chủ nghĩa xã hội đã được sinh ra và dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì lại kém hiệu quả, đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng và đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ở nơi đầu nguồn là Liên Xô (cũ)
Trước tiên chúng ta xem xét về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Mác cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản sẽ tới một thời điểm mà trong đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ bung ra. Tuy nhiên, Mác đã khẳng định là để tới đó, chủ nghĩa tư bản phải phát triển tới mức tột đỉnh. Cái đỉnh ấy ngày nay chưa xuất hiện. Chính Mác cũng chưa bao giờ ấn định thời gian kết thúc của chủ nghĩa tư bản.
khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản để đưa ra những luận điểm trên, Mác đã trừu tượng hóa, coi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là duy nhất thống trị. Sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa xã hội đã trở thành đối tượng đáng kể nhất làm cho chủ nghĩa tư bản mất đi vị trí độc tôn và bởi thế, chủ nghĩa tư bản không thể phát triển tự phát trên cơ sở của bản thân nó nữa mà buộc phải tự điều chỉnh lại mình. Trong quá trình điều chỉnh để thích nghi đó, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc biệt đã sử dụng có hiệu quả nhiều giải pháp của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Gọi là tạm thời làm dịu mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vì theo qui luật không tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế giới.
Mặt khác, cũng cần thấy rõ là chính những thành công của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lại một lần nữa tạo thêm những tiền đề, những yếu tố của phương thức sản xuất mới, hình thành nền tảng công nghệ mới, cơ sở hạ tầng ở tầm cao mà chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng trên đó. Những tiền đề ấy là việc điều hòa sản xuất, ở mức độ nhất định trong phạm vi toàn xã hội; các cơ chế phân phối lại ngoài thu nhập quốc dân; hệ thống bảo hiểm và các quỹ phúc lợi xã hội; sự tham gia của nhân dân lao động vào công tác quản lý; sự mở rộng dân chủ hơn với các tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã vô tình hoặc đã buộc phải thực hiện những vấn đề trên. Và chính vì thế, có thể nói rằng, xã hội tư bản hiện đại, một mặt, tất nhiên đang là tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt khác, chính nó đang chuẩn bị cho sự phủ định mình
Về khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân của những khó khăn và bi kịch của chủ nghĩa xã hội là do rất nhiều yếu tố. Sự xuất hiện và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác với dự kiến của Mác. Trên thực tế chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển, ở những nơi có tình thế cho giai cấp vô sản giành chính quyền nhưng lại thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác chưa dự tính đến việc chủ nghĩa xã hội tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản và hơn thế nữa, lại ở điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản Tây Âu.
Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh: "Theo tôi, cái mà người ta gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa" không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên
từ thực trạng của các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là muốn theo kịp và sau đó chiến thắng được chủ nghĩa tư bản trong cuộc đua tranh chủ nghĩa xã hội cần phải chủ động rất cao, tự giác rất cao, nắm thật vững những đặc điểm lịch sử cụ thể, vận dụng một cách có hiệu quả các quy luật phát triển kinh tế xã hội để tìm ra cho được chiến lược tăng tốc. Thế nhưng chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng theo ý muốn chủ quan, cứng nhắc, khuôn mẫu và trái quy luật. Khi đã nhận ra những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới nó, thì ở nhiều nước lại thiếu sự chuẩn bị những giải pháp tháo gỡ, củng cố hoặc xây lại, mà mới kịp làm được một công việc đầu tiên là phá bỏ những gì đã có! Vậy nên việc chủ nghĩa xã hội thua kém chủ nghĩa tư bản là do sự giáo điều hóa, thô thiển hóa chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải do bản thân chủ nghĩa Mác. Cũng như sự sụp đổ nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và ở Liên Xô một phần chính là do sai lầm trực tiếp của công việc cải tổ, chứ đâu phải là sai lầm của học thuyết mác xít.
Một số nguyên nhân quan trọng khác cũng cần phải nói tới. Đó là việc một số đảng công nhân luôn bằng lòng với chủ nghĩa Mác và bằng lòng với mình nên thường coi nhẹ công tác lý luận, đồng nhất công tác lý luận với công tác chính trị, trong khi ấy lại rất ít để ý tới hoặc rất ít tiếp thu cái mới. Tất cả những sai lầm và các nguyên nhân kể trên đã làm cho chủ nghĩa Mác mất đi tính sống động vốn có của nó, và nếu tình hình cứ như vậy, chủ nghĩa Mác sẽ thiếu hơi thở của cuộc sống trở thành lạc hậu, không thể lý giải được những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra.Một yếu tố mà không ít đảng cầm quyền thiếu mạnh dạn trong việc xem xét chủ nghĩa Mác và tự phê phán mình là tâm lý sợ xét lại hơn sợ giáo điều.chủ nghĩa giáo điều rất nguy hại vì nó cứ yên vị trong một cái vỏ ốc, nó làm cho chủ nghĩa Mác thành máy móc, thành khuôn mẫu.
Để khắc phục các tình trạng đó, chúng ta cần đặc biệt coi trọng công tác lý luận. Chủ nghĩa Mác luôn luôn rộng mở, như một cơ thể sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với thời cuộc, như cây xanh gắn bó với nắng gió và khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác xít. Nguyên lý mác xít chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới, trên cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác, không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập.
Chủ nghĩa Mác là vỉa tầng quý giá nhất của trí tuệ loài người, là cốt lõi tinh thần của chủ nghĩa xã hội.nhưng Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta.

________________________________

CNTB đang chuẩn bị cho sự phủ định mình.
chủ nghĩa tư bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng, trước đây vài năm cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế giới.Giờ đây Làn sóng biểu tình chống quyền lực vô hình của giới tài phiệt ở mỹ và châu âu lại càng nghiêm trọng và căng thẳng
.Phong trào chiếm lấy phố phố wall ở mỹ vô cùng mạnh mẽ và lan ra các nước châu âu
Theo Mac thì :chủ nghĩa tư bản phải phát triển tới mức tột đỉnh,thời điểm mà trong đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ bung ra.Cái đỉnh hiện nay chưa xuất hiện,nhưng rỏ ràng những điều Mac tiên đoán đang dần xảy ra và đúng với thực tế hiện nay.
chủ nghỉa tư bản hiện đại đã tự khắc phục và điều chỉnh lại rất nhiều so với trước đây nhằm tránh đi và loại bỏ khủng hoảng chu kì liên tục trong xã hội tư bản chủ nghĩa,Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Gọi là tạm thời làm dịu mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vì theo qui luật không tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.Vì bản chất của chủ nghĩa tư bản sản sinh và nuôi dưỡng sự cô lập của xã hội.chính nó đang chuẩn bị cho sự phủ định mình.
Mac đã nói rằng Chủ nghĩa tư bản là “Thầy phù thủy” không kiểm soát nổi ma quỷ .
Không nghi ngờ gì nữa, những cuộc khủng hoảng theo chu kì này là một thí dụ hoàn mỹ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản giống như một “thầy phù thủy, song lại bất lực trong việc điều khiển bày ma quỷ do mình gọi ra.
Trước đây chủ nghĩa xã hội đã được sinh ra và dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì lại kém hiệu quả, đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng và đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ở nơi đầu nguồn là Liên Xô .Chính là Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ nhận chủ nghĩa Mác.Nhưng thật sự chúng ta chưa đánh giá hết được vấn đề dẫn đến sự sụp đổ đó mà đã đổ lỗi và cho rằng cnxh,chủ nghĩa Mác là phản khoa học,là không tưởng.
Các nhà chính trị cải lương của cntb cho rằng họ có thể loại bỏ được sự bất bình đẳng giai cấp cố hữu, loại bỏ khủng hoảng chu kỳ liên tục trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính họ mới là những nhà không tưởng đích thực của thời đại chúng ta.
Nếu như cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay nói lên một vấn đề gì, thì đó là: Các Mác là nhà hiện thực vĩ đại
Rivaret.

Tổng thống Assad sử dụng vũ khí hóa học (Syria)

Washington đã tạo ra một kịch bản “Tổng thống Assad sử dụng vũ khí hóa học” để lấy cớ mở một cuộc tấn công vào Syria. Sự khiêu khích này rất giống với những gì Hitler đã từng làm trước khi xâm lược Ba Lan. Kết quả ngoạn mục này đã dẫn tới việc quân đội phát xít vượt qua biên giới Nga như “đi vào nhà trống” và mở màn cho Thế chiến II.
Cũng cần phải nhắc lại rằng, vào năm 1939 bộ máy truyên truyền quốc tế đã đề cử Hitler vào danh sách những người nhận giải thưởng Nobel Hòa bình. May thay, tấm huy chương vàng trên chưa kịp trao thì Hitler đã lộ nguyên hình là con quỷ khát máu và bắt đầu nhấn trìm nhân loại trong một cuộc tắm máu ghê rợn nhất từ trước tới nay trong lịch sử loài người.
Còn nay, ông Obama từ một cựu luật sư khiêm tốn, bằng tài năng đã trở thành Tổng thống của một cường quốc hùng mạnh nhất hiện nay. Tổng thống Obama may mắn hơn Hitler vì đã trở thành người đoạt giải Nobel Hòa bình vào năm 2009. Như vậy, nếu chiến tranh ở Syria nổ ra, người dân của quốc gia độc lập và có chủ quyền này phải chiến đấu với người nhận giải Nobel Hòa bình.
Trong quá khứ không xa, tổ chức al-Qaeda đã bị nhận định là xương sống của chủ nghĩa khủng bố quốc tế và Mỹ cùng đồng minh của mình phải đổ khối người và của vào Afghanistan để “nạo sạch ung nhọt này”. Giờ đây, cũng là al-Qaeda nhưng lại có sứ mệnh khác- tiên phong trong cuộc chiến lật đổ Tổng thống hợp hiến của Syria, Assad, cùng với sự giúp đỡ hào phóng của Mỹ và phương Tây. Sự thay đổi cách dùng người này của NATO đã khiến cho Omran al-Zoubi, Bộ trưởng Thông tin Syria “đúc rút ra các kết quả” như sau: Nếu cuộc chiến chống khủng bố không thành công thì cuộc tấn công vào Syria không phải là một cuộc dạo chơi trên sa mạc và nếu “cố đấm ăn xôi”- tấn công Damascu – toàn bộ Trung Đông sẽ chìm trong biển lửa.
Trong suốt thời gian qua, Nga đã làm mọi việc cần thiết để “câu giờ” và “thức tỉnh ý thức của nhân loại” như là cố gắng tận cùng “vào đêm trước của thảm họa quân sự của thế giới” bằng cách hỗ trợ Syria càng nhiều càng tốt và “lật tẩy” mọi mưu mô thủ đoạn để có thể “bóp cò súng” tại Trung Đông.
Vì sao Moscow lại “lao tâm khổ tứ như vậy”?. Xét về thực tiễn, các chuyên gia quốc tế cho rằng: Mỹ hy vọng rằng sự hỗn loạn ở Trung Đông sẽ lan tỏa sang Nga. Và vì Nga là “thành trì” cân bằng trật tự thế giới, nên “bức tường cuối cùng” này sụp đổ thế gới sẽ chỉ có “một cực”.
Còn theo dự báo của Vanga?
Triển vọng thuận lợi cho Nga trong cuộc chiến tại Syria do Vanga dự báo không phải là liều thuốc an thần cho Moscow. “Trời chỉ giúp ai khi người đó biết tự giúp mình và giúp người khác”. Để chuẩn bị cho một cuộc tấn công tổng lực và chớp nhoáng vào Liên Xô, Hitler thậm chí không bận tâm đến các “kịch bản khiêu khích” sau khi đã bày trò và “nuốt sống được Balan”. Moscow có lẽ đang phải chuẩn bị để đối phó với một kịch bản như vậy vì họ biết bài học đắt giá mà cha ông để lại: Quên quá khứ nghĩa là bắn vào tương lai.


_______________________________

Thật vô vọng khi hy vọng rằng có thể làm nhân dân hạnh phúc bằng chính trị.Nhà cách mạng thành công trở thành chính khách, còn không thành công thì trở thành tội phạm.
_______________________________

Chiến tranh lạnh đã được tập trung ở đất liền, đặc biệt là ở trung tâm châu Âu, và một cuộc đối đầu trong tương lai giữa Mỹ và Trung Quốc gần như chắc chắn là từ biển.
________________________________


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất của con người
a. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chững giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của con người
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người là giới tự nhiên, do đó trước hết con người có bản tính tự nhiên. Nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tựnhiên của con người là cơ sở khoa học để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân trong mọi hành vi hoạt động sáng tạo ra lịch sử.
Bản tính tự nhiên của con người thể hiện trên hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên, cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là bộ phận của giới tự nhiên do đó những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên và làm biến đổi môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, con người cũng không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó có đặc tính xã hội. Bản tính xã hội của con người là bản tính đặc thù của nó trong quan hệ với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Bản tính xã hội của con người thể hiện ở các mặt sau:
Một là, nguồn gốc hình thành con người không chỉ là quá trình tiến hóa của giới tự nhiên mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng biến đổi và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại trở thành tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính mình. Vì vậy, để lý giải bản tính sáng tạo của con người cần kết hợp chặt chẽ cả hai phương diện tự nhiên và xã hội nhằm tránh rơi vào phiến diện, không triệt để, dẫn đến những sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
b. Bản chất của con người
Theo C.Mác, “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau và bản chất, “bản tính người” của con người song về cơ bản những quan niệm đó đều mang tính phiến diện, trừu tượng và duy tâm thần bí, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội.
Quan điểm của C.Mác đã khắc phục được hạn chế của quan điểm duy vật siêu hình về con người, trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của nó, hơn nữa chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người, là cía phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên.
Năng lực sáng tạo lịch sử của con người và các điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của con người:
Con người làm ra lịch sử của chính mình. Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó là xuất phát từ sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử., khi những quan hệ này thay đổi thì cũng có sự thay đổi về bản chất của con người. Vì vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người phải căn cứ cả vào phương diện tự nhiên và phương diện xã hội, trong đó vấn đề có tính quyết định là phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệkinh tế xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển của xã hội là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những quan hệ kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó có thể khẳng định giá trị căn bản nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế xã hội áp bức, bóc lột nhằm giải phóng con người, phát huy cao nhất năng lực sáng tạo của con người, đưa con người tới sự phát triển tự do và toàn diện.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là một cộng đồng liên kết những con người trong xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay tổ chức chính trịxã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội.
Lực lượng cơ bản tạo thành quần chúng nhân dân bao gồm:
- Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. - Bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột đối kháng với cộng đồng nhân dân. - Các giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại nó thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mối thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những người lao động; ngoài ra, tùy theo mối điều kiện lịch sử nhất định còn bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
Các nhà tư tưởng trước C.Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội; mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân, chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử. Cách mạng xã hội hoặc cải cách xã hội chỉ có thể thành công nếu xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Với ý nghĩa đó có thể nói: “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, nhờ đó làm cho lịch sử tiến được những bước dài.
Vai trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử:
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, nhất là cá nhân là thủ lĩnh hay lãnh tụ của nhân dân.
Cá nhân và vai trò của cá nhân
Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ mỗi con người cụ thể trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Mỗi cá nhân, tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể của họ mà có thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa đó, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều in dấu ấn của mình vào quá trình sáng tạo ra lịch sử, dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau.
Lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ:
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Để trở thành lãnh tụ của nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có các phẩm chất sau:
- Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động, phát triển của lịch sử. - Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân. - Gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ nhất là lãnh tụ ở tầm vĩ nhân có vai trò to lớn trong việc tập hợp, tổ chức, chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Lãnh tụ xuất hiện và thực hiện vai trò của mình từ trong phong trào của quần chúng nhân dân.
Trong hoạt động thực tiễn cần có quan điểm biện chứng về vai trò của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân. Không được tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân cũng như không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, của lãnh tụ.
Ý nghĩa phương pháp luận.:
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân, chống những quan điểm sai trái của chủ nghĩa duy tâm đồng thời đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân, của vĩ nhân, của lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
PHÂNTÍCH VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA VĨ NHÂN TRONG LICH SỬ? Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN?
*Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân:
Các nhà tư tưởng trước C.Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội; mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân, chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử. Cách mạng xã hội hoặc cải cách xã hội chỉ có thể thành công nếu xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Với ý nghĩa đó có thể nói: “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, nhờ đó làm cho lịch sử tiến được những bước dài.
Vai trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử:
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, nhất là cá nhân là thủ lĩnh hay lãnh tụ của nhân dân.
Cá nhân và vai trò của cá nhân
Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ mỗi con người cụ thể trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Mỗi cá nhân, tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể của họ mà có thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa đó, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều in dấu ấn của mình vào quá trình sáng tạo ra lịch sử, dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau.
*Lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ:
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Để trở thành lãnh tụ của nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có các phẩm chất sau:
- Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động, phát triển của lịch sử. - Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân. - Gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ nhất là lãnh tụ ở tầm vĩ nhân có vai trò to lớn trong việc tập hợp, tổ chức, chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Lãnh tụ xuất hiện và thực hiện vai trò của mình từ trong phong trào của quần chúng nhân dân.
Trong hoạt động thực tiễn cần có quan điểm biện chứng về vai trò của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân. Không được tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân cũng như không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, của lãnh tụ.
*Ý nghĩa phương pháp luận.:
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân, chống những quan điểm sai trái của chủ nghĩa duy tâm đồng thời đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân, của vĩ nhân, của lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP

QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng, nói lên nguồn gốc động lực của sự phát triển. Lê nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biệt chứng. nghĩa là nắm bắt được quy luật này sẽ là cơsở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn gốc vận động, phát triển của mọi hiện tượng. Nội dung ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như thế nào, ta cùng nhau nghiên cứu:
I/ Nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là gì:
Mâu thuẫn là sự liên hệ tác động lẫn nhau của các mặt đối lập trong bản thân các sự vật hiện tượng và giữa sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
2. Các mặt đối lập: là những mặt có xu hướng vận động trái ngược nhau trong 1 sự vật hoặc giữa sự vật này với sự vật khác.
Ví dụ: Trong tự nhiên, khi coi con người là 1 sự vật, thì giữa đồng hóa và dị hóa, giữa biến dị và di truyền, hấp thụ và bài tiết là các mặt đối lập.
Hai mặt đối lập thống nhất với nhau trong cùng một sự vật tạo thành mâu thuẫn.
Ví dụ Khi coi một xã hội Tư bản là một sự vật, mâu thuẫn giữa Vô sản và Tư sản, mâu thuẫn giữa Giai cấp bóc lột và bị bóc lột, Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, sản xuất và tiêu dùng, là hai mặt đối lập.
Trong tư duy: biết và chưa biết, chân lý và sai lầm, biết sâu sắc và biết nông cạn, là các mặt đối lập.
Hai sự vật đối lập: Ngành công nghiệp và nông nghiệp: đòi hỏi giữa nhu cầu công nghiệp phải đáp ứng về máy móc và nông nghiệp mâu thuẫn về khả năng đáp ứng..
Kinh tế và quốc phòng: Kinh tế đáp ứng nhu cầu quốc phòng.
Lưu ý: 2 mặt đối lập biện chứng thống nhất với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng
Ví dụ: Tay trái, tay phải trong một con người.
Mọi sự vật đều có mâu thuẫn bên trong:
Do cấu trúc sự vật. Sự vật gồm những mặt giống, khác, và đối lập nhau.
Hai mặt đối lập trong 1 sự vật tạo nên mâu thuẫn. Mâu thuẫn ở đây mang tính khách quan.
3. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
a/ Sự thống nhất:
Là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia.
Ví dụ: Đồng hóa, dị hóa trong con người.
Hấp thụ, bài tiết.
Xã hội Vô sản và Tư bản. (người bán, người mua.
Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, lê nin gọi là đồng nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau.
Ví dụ: có nam có nữ đều là con người mới thành vợ chồng.
Cái thiện và cái ác trong 1 con người. Trong cái ác Đều có cái thiện, làm sao để lương tâm thức tỉnh.
Phân biệt sự thống nhất là thống nhất của các mặt đối lập với quan niệm thống nhất thuần túy trong đời sống hàng ngày:
Ví dụ: thống nhất đất nước là thống nhất thuần túy.
Thống nhất Các giai cấp đều vì nhân loại.
b) Đấu tranh giữa các mặt đối lập:
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động, bài trừ phủ định nhau,là sự triển khai của các mặt đối lập.
Ví dụ: Tư sản Vô sản, nông dân địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Các hình thức của các mặt đối lập rất phong phú đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện, tính chất, phạm vi, phạm vi của các mặt đối lập.
Ví dụ: Đấu tranh Trong tự nhiên và xã hội là khác nhauh. Ở đây Điều kiện và hình thức đấu tranh khác nhau…. Chúng ta phải phân tích các loại mâu thuẫn để tìm cách giải quyết.
Phân biệt đấu tranh ở đây là đấu tranh của các mặt đối lập, không giống với quan niệm đấu tranh thông thường. không phải đấu tranh chống chọi trong lĩnh vực chính trị. Thực ra đấu tranh trong chính trị chỉ là một bộ phận. Ví dụ: đấu tranh giải phóng đất nước.
4. Tính chất của thống nhất và đấu tranh:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khảng định: thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối.
Thống nhất là tương đối tạm thời vì đứng im là tương đối. Đứng im là một hình thức vận động trong thế cân bằng khi sự vật đang là nó chưa là sự vật khác. Nhờ có đứng im, nhờ có thống nhất mà ta xác định được sự vật.
Thống nhất là tương đối, thống nhất các mặt đối lập, do đó, Trong thống nhất bao hàm đấu tranh.
Đấu tranh là tuyệt đối vì vận động là tuyệt đối.
5. Vai trò của đấu tranh các mặt đối lập và mâu thuẫn:
Đấu tranh các mặt đối lập dẫn đến chuyển hóa, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời vì thế đấu tranh các mặt đối lập nói riêng, mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Lê nin gọi : phát triển là đấu tranh của các mặt đối lập.
6. Phân loại một số mâu thuẫn : Thông thường phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu,.
- Lưu ý: Riêng trong lĩnh vực xã hội ngoài các mâu thuẫn trên còn có thêm mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
- Mâu thuẫn bên trong(giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật): Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập bên trong một sự vật, hiện tượng).
VÍ DỤ : mâu thuẫn trong XÃ HỘI Tư bản: Tư sản mâu thuẫn với Vô sản.
- Mâu thuẫn bên ngoài(Có vai trò quan trọng trong sự vận động, phát triển của sự vật): Là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập thuộc các sự vật khác nhau.
- Mâu thuẫn cơ bản: Là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn phát triển của sự vật, nó quyết định sự nảy sinh của các mâu thuẫn khác.
VÍ DỤ : Trong khách quan quan ĐIỂM lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở VIỆT NAM mâu thuẫn căn bản là mâu thuẫn về con đường đi lên CHỦ NGHĨA TƯ BẢN hay CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
- Mâu thuẫn không cơ bản: Là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
VÍ DỤ : Mâu thuẫn không căn bản trong khách quan quan điểm lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở VIỆT NAM là mâu thuẫn về xác lập văn hóa tương lai VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA hay văn hóa hiện tượng.
- Mâu thuẫn chủ yếu: Là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
VÍ DỤ : Trong giai đoạn thực hiện cuộc CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ để giải phóng Dân tộc, mâu thuẫn chủ yếu của DÂN TỘC VIỆT NAM là: Mâu thuẫn giữa DÂN TỘC VIỆT NAM với đế quốc, thực dân xâm lược.
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của SỰ VẬT , nhưng không đóng vai trò chi phối SỰ VẬT . Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu góp phần vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng:Là >< giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản trái ngược nhau.
Ví dụ : XÃ HỘI TƯ BẢN CHỦ NGHĨA mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản
- Mâu thuẫn không đối kháng là > < giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản không đối lập nhau
II/ Ý nghĩa phương pháp luận:
1/ Vì sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập cho nên nhận thức sự vật là nhận thức mâu thuẫn của sự vật.
Ví dụ: Đánh giá một đất nước, một con người thì phải đánh giá các mặt trong đất nước, con người đó. Tức là Đánh giá 2 mặt trong một vấn đề.
2/ Thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, do đó phải đấu tranh như thế nào để có thể thống nhất mới cao hơn. Chống hai khuynh hướng tả và hữu, tả khuynh tàn phá tiêu cực, hữu khuynh là ngại đấu tranh.
3/ Các hình thức đấu tranh cũng rất đa dạng phong phú, cho nên chúng ta phải phân tích mâu thuẫn, phân tích các mặt đối lập, phân biệt các mâu thuẫn để tìm ra các giải pháp phù hợp.
4/ Con đường đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn, đây là con đường duy nhất, đúng đắn và đây cũng là lẽ sống.
Ví dụ: ở việt nam đấu tranh phê bình, tự phê bình (Nghị quết Trung ương 4).

THUẬT TƯ TƯỞNG

THUẬT TƯ TƯỞNG - CHƯƠNG 5 - PHẦN 1
KHÁI NIỆM VỀ TƯ TƯỞNG
"Thông minh là biết nhận thấy
sự liên quan giữa sự vật".
A. TƯ TƯỞNG LÀ GÌ?
Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Có người bảo với vua nước Lương: "Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử không nói gì được nữa".
Hôm sau vua đến thăm Huệ Tử: "Xin tiên sinh nói việc gì cứ nói thẳng, đừng thí dụ nữa".
Huệ Tử nói: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi hình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng cái nỏ như cái nỏ, thì người ấy có hiểu không?".
Vua nói: "Hiểu làm sao được?".
Huệ Tử nói: "Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lãy, thì người ấy có biết được không?"
Vua nói: "Biết được".
Huệ Tử nói: "Khi nói với ai, là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì không được".
Một đứa trẻ đi vào vườn bách thú, thấy cọp beo, voi, gấu... Nó sẽ đem những loài thú rừng ấy sắp vào hạng loại rất hạn định như chó, mèo, heo, ngựa... mà nó đã biết trước thôi. Bởi vậy, gặp con cọp nó nói: Con chó lớn. Còn gặp con gì cao mà chân dài, nó đều gọi là con ngựa cả...
Trái lại, nhà động vật học đem những loài thú rừng ấy sắp vào hạng loại cực kỳ tinh tế hơn.
Dầu sao, cách phán đoán của hai đàng, cũng cùng một cách thức như sau: Đem vật mình chưa biết sắp vào hạng loại mình đã biết. Vì thế, người học hỏi sâu rộng, thường có được những hán đoán tinh vi đúng đắn hơn kẻ học nông thấy hẹp.
Như ta đã thấy, trong quyển Óc sáng suốt([2]), sở dĩ ta biết được một điều gì, là nhờ so sánh với những điều cùng một loại với nó mà ta đã có thấy, có hiểu trước.
Bởi vậy, khi ta nói: Trái đất tròn, là tại ta thấy trái đát có hình giống như viên đạn mà ta đã biết trước. ta đem trái đất sắp vào một hạng loại với viên đạn, và bởi viên đạn hình tròn mà trái đất lại hình viên đạn, ta mới quyết đoán: Trái đất tròn.
Bất kì là ở vào lúc nào, mỗi một người của chúng ta đều có sẵn trong đầu một mớ ít nhiều khái niệm như thế, nghĩa là một mớ hạng loại (catégory) đã biết trước. Nếu có một sự vật nào hiện ra trước mắt, ta liền tìm cách đem nó sắp vào hạng loại ta đã biết qua một lần... Hễ làm được là ta tư tưởng đấy, ta hiểu biết đấy. Bằng không, ta chỉ có cảm qua thôi, chớ không tư tưởng gì cả.
Tư tưởng là phán đoán, mà phán đoán là nhận thức và quyết định được sự liên lạc giữa hai tư tưởng, hai sự vật. Phán đoán là một sự sắp đặt([3]).
Phán đoán được đầy đủ rồi thì lẽ cố nhiên ta tin nó đúng với sự thật. Khi ta bảo: Ông X... vô tội, ta tin và quả quyết rằng ông ấy có thật như thế.
Sư phán đoán, bao giờ cũng đi tới cái mức cuối cùng ấy, là quả quyết và tin tưởng. Tuy nhiên, cũng có khi sự phán đoán không được đầy đủ, buộc phải dừng lại nửa chừng thôi. Như khi ta nghĩ: "Trên các hành tinh có lẽ cũng có sinh vật", ta chỉ quan niệm được sự liên lạc giữa các hành tinh và trái đất ta đang ở đây mà nghĩ qua như thế thôi, chớ ta chưa dám quả quyết và tin tưởng việc ấy.
Phán đoán mà quả quyết là một việc làm của Ý chí, vì quả quyết là tự buộc một trách nhiệm. Khi tôi bảo "Ông X. vô tội" tôi tự hẹn thầm ba điều:
1. Trước hết, tôi tự hẹn không bao giờ nói trái lại điều tôi vừa nói đó. Những người vô học thường hay thay đổi ý kiến của mình, hoặc bởi họ bị phản đối, hoặc vì họ không có chủ định gì cả, nên họ mâu thuẫn với họ luôn luôn.
2. Kế đó, tôi tự hẹn phải hành động theo sự phán đoán của tôi. Quả quyết rằng: "Ông Xoài vô tội", đó là tôi nhất định xem ông ấy là người vô tội, không khinh bỉ, không ngờ vực nữa.
3. Sau rốt, tôi tự hẹn, sẽ ráng làm cho kẻ khác công nhận phán đoán của tôi. Thật vậy, quả quyết cũng là một cách sai khiến nữa mà là sai khiến một cách phong nhã, kín đáo ... Mỗi khi ta quả quyết một ý kiến hay một điều tin tưởng nào, cố nhiên là ta muốn cho kẻ khác cũng tán đồng. Bởi vậy, tánh cố chấp tuy là một tật xấu rất to, nhưng nó là một hiện tượng rất tự nhiên của tâm lý. Phải có một hiểu biết thật rộng, tư cách thật cao mới có thể hiểu và dung được những tư tưởng trái nghịch của kẻ khác, nghĩa là có thể hiểu được kẻ khác, mà không một lòng nào bực dọc cả. Nhưng mà tin tưởng thái quá, lại thành ra Tín ngưỡng.
B. PHÁN ĐOÁN VÀ TÍN NGƯỠNG
"Bất kỳ một ý tưởng nào mà không gặp ý tưởng khác phản đối thì được quả quyết là có thật".
Đó là định lệ của sự tín ngưỡng.
Những dân tộc bán khai, cùng là trẻ con hay đàn bà nhẹ tính, bất kì ai quả quyết cái gì họ cũng tin theo, đó là tại họ không biết có những tư tưởng đối đích, nghĩa là trái nghịch lại. Chỉ có khi nào sự tin tưởng của ta bị phản đối - phản đối mà ta không còn lý lẽ nào bênh vực được nữa - mới có thể làm cho ta không tin cái điều ta đã quả quyết trước kia nữa mà thôi.
Đó là cái lẽ nó phải vậy. Nhưng sự thật ở đời, phần đông đã một khi tin tưởng cái gì rồi, thì dẫu gặp phải những tư tưởng đối đích, họ cũng bỏ qua, và cứ giữ đức tin họ vững vàng kiên cố mãi. Là tại nhiều duyên cớ, như sau đây:
1. Thị dục: ([4])
Ta chỉ thừa nhận những ý kiến nào thuận với sự ta thèm thuồng ao ước mà thôi, không kể gì nó có đúng với sự thật hay không. Ở đây, cũng không có lý lẽ nào vô đánh đổ đức tin của ta cho được.
Người mẹ quá yêu con không bao giờ chịu tin rằng con mình là một người dở dang hèn hạ, mặc dầu sự thật đã đem đến cho bà nhiều bằng cứ xác đáng. Bà ao ước con bà là một người tốt, cho nên, chỉ có những ai khen con bà, thì bà thích và nhận là thật mà thôi. Ngoài ra, những tin gì có thể hại đến danh giá con bà, thì bà loại ra một bên, không bao giờ ai đánh đổ được đức tin của bả cả. Hoặc bà sẽ có những lý luận của bà để bênh vực, để gột rửa sự ngờ vực không tốt của bà.
Những người ham đi coi bói, thường thích những ông thầy bói nói họ sẽ làm giàu, làm quan, chỉ có nhiều phước đẹp duyên lành ... Bao nhiêu lời nói vừa với lòng ao ước của họ, là họ ghi nhớ, họ thừa nhận đúng cả, mặc dầu họ không biết sẽ có thật như thế không. Trái lại, những lời đoán sai với lòng ao ước của họ, là họ không chịu tin, hoặc nửa ngờ, có khi lại đem lòng oán hận là khác.
Nếu sự ao ước kia lại thành một thị dục (une passion) mãnh liệt, nó sẽ xô đẩy người ta vào sự cuồng tín (fanatisme) như chơi. Tỉ như lòng ái quốc tăng đến cực điểm, có thể làm cho người si mê. Óc bè phái, óc tôn giáo có lẽ cũng như thế.
Người ta không dùng đến lý trí nữa, mà chỉ tin những cái gì thuận với lòng mình ao ước thôi, và tìm những lý lẽ để bênh vực nó.
2. Ảnh hưởng của xã hội:
Một ý tưởng nào mà được xã hội đồng thanh quả quyết và tin tưởng, thì khó lòng mà ta không cùng chia sẻ được. Bởi vậy, phong tục, tập quán là những tin tưởng mà ta nhắm mắt làm theo không suy nghĩ gì cả. Người ta thường thấy trong xã hội có những phong trào tư tưởng là thế.
Nói hẹp lại thời ảnh hưởng gia đình cũng không phải nhỏ. Hễ ông bà cha mẹ là người theo đạo Gia Tô, thì con cháu cũng theo đạo Gia Tô. Họ tin theo, là vì cả gia đình hay dòng họ tin như thế. Họ đâu có suy nghĩ chi nữa mà làm gì. Chung quanh họ, đều đồng thanh quả quyết và tin tưởng một cách triệt để, lại không bao giờ gặp hoặc nghe có sự phản đối, thảo nào họ không tin theo. Một ý tưởng mà được đại đa số tín ngưỡng là một sức mạnh phi thường, không có một lý lẽ nào đánh đổ nổi.
Ảnh hưởng của xã hội đối với tư tưởng và hành vi của chúng ta thật là mãnh liệt vô cùng. Nó làm cho ta không còn biết suy nghĩ là gì nữa. Những điều mà ta gọi là suy nghĩ, toàn thị là vô tâm theo một cái chiều nào mà ta không làm chủ được. Nó ám ảnh đầu óc ta, nó sai sự chỉ huy ta như một bộ máy. Sách vở, báo chí, những cuộc bàn cãi, những tình thế hưng vong xảy ra trong thời buổi ... tạo thành một luồng sóng đưa đẩy ta vào một khuynh hướng nào... những luồng sóng ấy có khi là kết tinh của một tinh thần sáng suốt, thanh cao; lắm khi lại là cặn bã của một dục vọng, âm u hèn thấp cũng không chừng. Nhưng chắc chắn là nó sẽ đưa quần chúng đi vào một con đường vinh hiển hay bại vong.
Những ý tưởng do hoàn cảnh xã hội vun đúc thật là mạnh mẽ một cách rõ ràng, ai ai cũng có thể nhận thấy được. Mạnh mẽ đến, hễ một cá nhân nào bỏ hoàn cảnh xã hội của mình đi vào một hoàn cảnh xã hội khác, là thấy đã thay đổi cả tư tưởng chí hướng của mình liền.
Một nhà hoàn toàn thuộc về xã hội cách mạng, mà đến khi lên nắm chính quyền, liền thấy mình dễ dàng trở nên một nhà rất trung thành với phe bảo thủ. Lịch sử chỉ cho ta thấy rõ Napoléon khi lên ngôi, đem những tay thù nghịch của chính thể quân chủ mà ông chưa kịp đưa ra pháp trường, phong hầu cả thảy một cách hết sức dễ dàng, và những người ấy liền trở nên "quân chủ hơn đấng quân chủ" nữa([5]).
Hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng ta, tuy mãnh liệt như thế, nhưng không ảnh hưởng sâu nặng bằng cái xã hội của mình đang sống. Người ta phần đông suy nghĩ phán đoán toàn theo giai cấp, phe phái, tôn giáo hay nghiệp đoàn của mình. Những điều họ cho là phải hay quấy đều là những điều mà nhóm xã hội của họ cho như thế. Họ không cãi lại, hoặc không dám cãi lại. Họ tin tưởng nó như một tín điều thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thật vậy, nếu người nào không nhận những ý tưởng của nhóm mình, thì không thể sống ở trong nhóm đó được nữa.
Một thị dục mà được phần đông công chúng hoan nghênh thừa nhận, sẽ là một tính ngưỡng có một lực lượng phi thường. Đối với tín ngưỡng của quần chúng - dầu là tín ngưỡng về chính trị hay tôn giáo cũng vậy, - thời không thể dùng đến lý luận đánh đổ được nữa. Bởi vậy, tín ngưỡng ấy là hiện thân của một Dục vọng không bờ bến, như một cuồng phong vô cùng mãnh liệt. Ảnh hưởng của nó rất to tát, vậy trước tình thế này, ta phải biết nhẫn nại mà chiều theo. Pascal nói: "Tại sao ta lại phải chiều theo phần đông? Đâu phải vì họ có lý hơn ta, mà chỉ vì họ mạnh hơn ta đó thôi".
Chiều theo họ, là để mà sửa đổi họ, không phải để a dua, nếu mình là một bậc thức giả.
3. Dốt nát và Hoài nghi:
Dốt nát, cũng là một nguyên nhân làm cho ta tin tưởng một cách mê muội.
Thật vậy, đã dốt nát thì làm gì tìm thấy được những tư tưởng đối đích đánh đổ sự quả quyết và tin tưởng của ta. Lẽ cố nhiên là ta tín ngưỡng một cách êm đềm không phải có một cái chi đến lung lạc đức tin của ta cả. Một người dốt nát làm gì biết đến những hiện tượng của điện khí là gì. Bởi vậy, họ tin "trời đánh" (sét đánh) là có lôi công cầm búa đi tìm người gian ngụy để giết chết. Đức tin ấy của họ, có làm gì gặp được những bằng cứ đối đích của khoa học phản đối. Cho nên họ vẫn yên tâm mãi trong sự mê tín của họ. Sự lầm lạc của ta, một phần rất lớn đều do nơi sự ngu dốt của ta mà gây nên cả.
Muốn phá những tập quán, thành kiến đã ăn sâu vào trí não con người, không có phương pháp nào hay hơn là gợi sự ngờ vực nghi nan trong lòng người. Cái đó, André Gide gọi là sự "ngờ vực phá hoại" (le doute destructeur). Léon Pierre Quint trong quyển André Gide có câu: "Không một tiếng kêu gọi lớn lao, không một chút bạo động nào cả. Gide chỉ dùng phương pháp "ngờ vực phá hoại" để lung lạc đức tin con người đối với cổ tục, tập quán ... Phản đối một cách đột ngột, hùng hồn, không bằng khêu gợi mối hoài nghi trong lòng người. Những quyển sách có kết luận đàng hoàng, thời hỏng mất. Gide cho rằng, những tiểu thuyết có luận đề (roman à these) vì muốn chứng giải mà thành ra mất cả sức mạnh của nó đi. Một quyển sách cần phải để lại nơi lòng người một mối nghi ngờ không giải quyết, một câu hỏi không có tiếng trả lời. Điều mà con người không thể chịu nổi là đối với điều mình tôn sùng ngưỡng mộ mà phải có sự ngờ vực nghi nan. Làm cho con người không sống đặng êm đềm trong sự tin tưởng của họ nữa, thời mới mong cải cách được việc gì".([6])
Socrate, với cái tài hùng biện riêng của ông, chỉ hạch hỏi mà thôi, gợi cho các đệ tử một mối nghi ngờ... để phá cái lòng mê tín của họ.([7])
Phật, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng dùng một phương pháp ấy để cảnh tỉnh đệ tử ruột của mình là A Nan.
Phán đoán thì tất nhiên phải quả quyết.
Quả quyết thì cố nhiên là tin tưởng, mà hễ tin tưởng nhiều rồi thì lại biến thành Tín ngưỡng. Đó là con đường tự nhiên, ai ai cũng phải trải qua.
Tuy nhiên, tín ngưỡng cũng có nhiều thứ: Có thứ tín ngưỡng mà mê muội, có thứ tín ngưỡng mà sáng suốt.
Nếu biết đen óc phê bình mà kiểm tra những quyết đoán của ta, thì sự tin tưởng hay tín ngưỡng của ta kia, được gọi là chánh tín (Croyance rèflechie). Nhược bằng để cho thị dục, xã hội và sự ngu dốt điều khiển tư tưởng ta, thì tín ngưỡng của ta gọi là mê tín.
Những tín ngưỡng đem ra xem xét chu đáo, dùng lý trí điểm tra lại, lấy sự thực để đối chứng; đó là những quyết đoán có khoa học, nghĩa là có phương pháp và được kiểm soát một cách vô tư. Để tự nhiên, thời người ta ai ai cũng tin tưởng theo lòng ao ước, theo thị dục, hoặc theo xã hội chung quanh ám thị.
Nếu có óc phê bình, người ta sẽ không còn bị lôi cuốn theo những lối tin tưởng vu vơ như thế nữa; người ta sẽ tin khi nào đã lựa chọn, kiểm điểm kĩ lưỡng rồi, nghĩa là sau khi tìm được những tư tưởng phản nghịch mà cũng vẫn thấy nó có đủ lẽ đứng vững được nữa.
Goblot nói: "Một tin tưởng mà mình ao ước hay ưa thích, đó là nguồn gốc của sự lạc lầm".([8]) Muốn ngừa sự lạc lầm trong khi ta tư tưởng hay phán đoán, điều kiện đầu hết là phải biết hoài nghi. Hoài nghi để khỏi phải sa vào cái bẫy của Tình cảm và Ý chí.([9])
Ở đời phải có một lý tưởng để làm phương châm cho hành động hàng ngày của mình. Ai ai cũng có quyền có tín ngưỡng cả. Nhưng không nên đem những tín ngưỡng của mình mà cho nó là những chân lý khách quan. Người mà được gọi là có một cơ sở triết học và giáo dục hoàn toàn, là người biết dùng một cách đúng đắn, không lầm lẫn với nhau những câu nói này:
Tôi biết;
Tôi tưởng rằng tôi biết; và
Tôi tin.([10])
Kẻ thiếu óc phê bình, thiếu học thức, là kẻ không đủ sức phân biệt được cách dùng những tiếng nói trên đây. Điều mình tưởng là biết chưa phải là điều mình biết, mà điều mình tin chưa ắt là điều mình biết. Biết đâu mình tin là vì nó thuận với lòng ao ước hay thị dục của mình, hoặc vì mình bị ảnh hưởng gia đình, xã hội chứ không phải vì đã dò xét rõ ràng rồi mà tin, tin như nhà khoa học.
Cổ nhân có nói: "Biết, thì biết là mình biết; không biết, thì biết là mình không biết, mới thật là biết vậy" (Tri chi vi tri chi; bất tri vi bất tri, thị tri dã).([11])
____________________________________