Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Một số hệ tư tưởng/chủ nghĩa đương đại

Một số hệ tư tưởng/chủ nghĩa đương đại:
Chủ nghĩa cộng sản: là một tổng hợp các lý luận của một phong trào xã hội rộng lớn nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau và tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra đồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, con người được tự do toàn diện (kể cả tự do tình dục) nhưng trên cơ sở của sự nhận thức cao, và trên cơ sở của sự ràng buộc vào tư liệu sản xuất chung để bảo toàn lợi ích chung
Chủ nghĩa tư bản: khẳng định tư hữu, trong khi những người cộng sản hướng tới công hữu tư liệu sản xuất (hiểu theo nghĩa cộng sản đúng nghĩa). Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản luôn cho rằng không vì những phân hóa xã hội mà vi phạm đến các quyền sở hữu cá nhân, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa cộng sản. Những người ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản cho rằng chủ nghĩa này tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế dựa trên nền tảng ham muốn cá nhân làm giàu vô tận, và tạo cơ hội cho sự tự do kinh doanh và tự do lựa chọn lao động, thường cho sự phân hóa xã hội là một sự đào thải của cơ chế thị trường mà những người tụt lùi phía sau là những người kém cỏi chứ không phải là do bóc lột, ngược lại những người phê phán chủ nghĩa tư bản bao gồm những người cộng sản luôn luôn cho là chủ nghĩa tư bản có yếu tố bóc lột, và không bao giờ tạo công bằng thực sự, tạo ra lối sống ham muốn vật chất và hay dẫn đến suy đồi đạo đức. Những người cộng sản thường đổ lỗi cho chủ nghĩa đế quốc là hệ quả của chủ nghĩa tư bản vì các tập đoàn tư bản muốn vươn vòi bóc lột nhân dân các dân tộc thuộc địa, biến các nơi này thành nơi tiêu thụ hàng hóa tư bản và cung cấp tài nguyên và lao động rẻ mạt, trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản lại hay cho chủ nghĩa đế quốc là hệ quả của chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa quân phiệt (đặc biệt là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thứ hai từ cuối thế kỷ XIX, mà họ cho là nhằm bảo đảm lợi ích của cả dân tộc chứ không chỉ tư bản, trong khi thường nhìn nhân giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thứ nhất thường bảo đảm cho quyền lợi của cả quý tộc phong kiến và tư sản). Chủ nghĩa cộng sản cũng cho là chủ nghĩa tư bản thực hiện "chủ nghĩa đế quốc mới" trong khi chủ nghĩa tư bản cũng cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện "chủ nghĩa đế quốc mới"
Chủ nghĩa tự do: đề cao tự do cá nhân, nếu giới hạn gần với bảo thủ, nếu cấp tiến hơn có khi bị xem là cực đoan, hay gần với chủ nghĩa vô chính phủ; trong khi những người cộng sản cũng hướng đến tự do tuyệt đối như những người vô chính phủ, nhưng qua con đường vòng là nhà nước chuyên chính vô sản, coi trọng lối sống tập thể (cộng đồng) và điều hành của nhà nước. Lập trường kinh tế cũng có sự khác biệt, do ủng hộ tự do cá nhân nên những người tự do ủng hộ tư hữu đồng nghĩa sẽ có chủ nghĩa tư bản, chấp thuận phân hóa xã hội như là "sự tất yếu của cơ chế thị trường", coi trọng bình đẳng cơ hội, trừ những người tự do xã hội chấp thuận có điều chỉnh của nhà nước phân phối lại thu nhập thường thông qua đánh thuế cá nhân. Những người cộng sản phản đối cơ chế như vậy. Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản thường có một lập trường chống lại chế độ phong kiến và độc tôn tôn giáo (chủ nghĩa tự do ủng hộ tự do tôn giáo nhưng tách tôn giáo khỏi nhà nước). Do có lập trường trên nền tảng chủ nghĩa cá nhân nên chủ nghĩa tự do đề cao quyền cá nhân, mà không phụ thuộc vào sự ép buộc bên ngoài bao gồm nhà nước.
Chủ nghĩa bảo thủ: đề cao một sự chuyển hóa từ từ, trong khi những người cộng sản muốn chuyển hóa nhanh chóng một cách cách mạng. Một số người bảo thủ ủng hộ cho quay lại một trật tự cũ, đã bị thay thế, vì thế có còn được xem là phản động, theo cách hiểu của những người cộng sản, thậm chí của những người tự do hay xã hội. Chủ nghĩa bảo thủ đề cao tính dân tộc, trong khi chủ nghĩa cộng sản đề cao tính giai cấp. Chủ nghĩa bảo thủ coi trọng tầng lớp trên mà họ cho là xứng đáng với "phẩm chất" và "đóng góp" của họ, trong khi những người cộng sản luôn bảo vệ quyền lợi tầng lớp dưới. Chủ nghĩa bảo thủ hiện đại ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản, coi nó là động lực thúc đẩy kinh tế, và "công bằng trong cơ hội" ít coi trọng phân phối lại tài sản và bàn tay nhà nước (Nhà nước tốt nhất theo họ là nhà nước ít can thiệp nhất). Trong vấn đề đạo đức, chủ nghĩa bảo thủ coi trọng truyền thống (khác với phe tự do đề cao đạo đức cá nhân, nhận thức của bản thân) - khác với những người cộng sản ủng hộ nền tảng đạo đức xã hội chung được xây dựng trên lý thuyết cộng sản. Với vấn đề tôn giáo, chủ nghĩa bảo thủ coi trọng tính dân tộc nên đề cao tôn giáo dân tộc (mà họ cho là cần thiết cho đoàn kết và đạo đức), và thường là người theo tôn giáo dân tộc, nhưng không loại trừ sự tồn tại tôn giáo khác. Một số do ảnh hưởng mạnh của tư tưởng dân tộc nên thường có xu hướng chống người nhập cư. Phần lớn những người bảo thủ ngày nay thường có lập trường gần giống những người tự do nguyên thủy, họ hay coi trọng vấn đề nhân quyền.
Chủ nghĩa phát xít: đề cao tầng lớp trên và nhà nước, trong khi những người cộng sản đề cao tầng lớp dưới và hướng đến một xã hội không còn nhà nước. Chủ nghĩa phát xít đề cao tính dân tộc (tới độ cực đoan), một số sẵn sàng dùng vũ lực để đất nước của mình thống trị dân tộc khác, một số khác không. Trong khi đó những người cộng sản coi trọng tính giai cấp và đoàn kết giai cấp quốc tế không phân biệt dân tộc, ngôn ngữ (chủ nghĩa quốc tế vô sản). Một số lý thuyết gia cho rằng cả chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản đều là hệ quả của phép biện chứng của Hegel, về bản chất khác hẳn nhau, đối nghịch nhau, nhưng về mô hình tổ chức có nhiều điểm rất giống nhau. Về cơ bản chủ nghĩa phát xít đối lập nhiều hơn với chủ nghĩa vô chính phủ hơn là với chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa vô chính phủ: chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cộng sản có chung mục đích là xóa nhà nước, nhưng những người cộng sản qua con đường vòng là nhà nước chuyên chính vô sản, còn chủ nghĩa vô chính phủ thì không. Biện pháp của những người vô chính phủ phần lớn là cách mạng giống với những người cộng sản, nhưng có phái (đa số ở phương Tây) không sử dụng biện pháp này. Đường lối kinh tế của chủ nghĩa vô chính phủ có thể trùng với chủ nghĩa cộng sản hay chế độ tư hữu tùy trường phái.
Chủ nghĩa dân tộc: đề cao tính dân tộc (có khi cực đoan), trong khi những người cộng sản coi trọng tính giai cấp hơn (và được những người dân tộc xem là "không đoàn kết dân tộc"), nhưng trong quá trình phát triển, có những người cộng sản chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội: cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cùng có mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại nhà nước. Do chủ nghĩa xã hội được hiểu nhiều cách khác nhau và nhiều trường phái khác nhau chủ trương khác nhau, nên chủ nghĩa cộng sản được xem là một trường phái chủ nghĩa xã hội. Khác nhau chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội dân chủ là cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Một số trường phái chủ nghĩa xã hội hướng tư liệu trong tay tập thể, một số khác hướng nhà nước làm đại diện quản lý tư liệu. Lập trường của một số trường phái xã hội chủ nghĩa khác nhau cả thái độ với tôn giáo, hay cách thức để đạt mục đích của mình. Một số khá nhiều người xã hội là những người theo tôn giáo, nhưng hướng văn hóa thế tục và nhà nước thế tục (không kể theo phái xã hội chủ nghĩa gắn với tôn giáo).
Dân chủ xã hội: hướng đến xóa bỏ tư bản hay xóa một phần hoặc chỉ cải tạo chủ nghĩa tư bản theo hướng phân phối công bằng hơn, nhưng không sử dụng biện pháp cách mạng và nhà nước chuyên chính vô sản mà họ lo ngại "chuyên chế đi từ dưới đi lên".
Chủ nghĩa công đoàn: đề cao công đoàn, chứ không phải nhà nước. Đây là điểm khác với chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa dân túy: cũng giống chủ nghĩa cộng sản là đề cao bình đẳng thu nhập, nhưng khác ở cách thức, và xác định vai trò giai cấp,... Chủ nghĩa dân túy hay gắn với tính dân tộc hơn.
Dân chủ Thiên Chúa giáo: đề cao vai trò tôn giáo - trong một nhà nước thế tục, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và đạo đức, tùy theo trường phái, có lập trường ủng hộ tư bản hay chống tư bản, ủng hộ thay đổi tiệm tiến, khác bảo thủ cực đoan là chấp thuận một nền chế độ đại nghị. Trong khi những người cộng sản loại trừ tôn giáo ra khỏi vai trò chính trị và hướng tới nền văn hóa vô thần.
Các tôn giáo: đa số các tôn giáo (trừ một số ngoại lệ như Phật giáo) khẳng định hữu thần và các lực lượng siêu nhiên, trong khi những người cộng sản khẳng định vô thần (chịu ảnh hưởng học thuyết Darwin), họ xem các lực lượng siêu nhiên chỉ là những hiện tượng tự nhiên mà khoa học chưa lý giải được. Các lý thuyết gia chủ nghĩa cộng sản truyền thống thường phê phán tôn giáo, là công cụ của các giai cấp phong kiến quý tộc hay tư sản nhằm làm nhụt ý chí đấu tranh của tầng lớp vô sản với các bất công của xã hội, ngược lại nhũng người bảo vệ cho tôn giáo cho những người cộng sản là vô thần, không có niềm tin vào một thế giới bên kia hay các khía cạnh đạo đức tôn giáo nên thường sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, thiếu khoan dung, nên những lý tưởng nhân văn trong lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản không thể thực hiện được. Nhưng những người cộng sản và những người tôn giáo, đặc biệt những người tôn giáo cánh tả thường phê phán chủ nghĩa tư bản vì về lý thuyết đều thường không khuyến khích cho chủ nghĩa cá nhân.
Một số học thuyết chính trị tôn giáo khác: phát triển đa dạng, có thể không có đường hướng kinh tế rõ ràng, có trường phái ủng hộ một chế độ cộng sản (kinh tế) mà họ cho là công bằng (như một số được xem là cộng sản Thiên chúa giáo, Hồi giáo Marxism, hay Đạt Lai Lạt ma) không như chế độ tư bản - tư hữu, nhưng ủng hộ hữu thần, còn chủ nghĩa cộng sản là vô thần và có lập trường kinh tế rõ ràng. Một số ủng hộ thần quyền (ngày nay ít) và được xem là cực đoan, một số chấp thuận chế độ đại nghị,...


Nhân dân, nguồn gốc và nền tảng của cuộc Cách mạng Dân chủ


Nhân dân, nguồn gốc và nền tảng của cuộc Cách mạng Dân chủ


Đã có nhiều cuộc thảo luận, nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề Dân chủ, Dân chủ cho Việt nam, nhưng dường như chúng ta vẫn chưa có một khái niệm chung về Dân chủ, vẫn chưa có một có một cái nhìn chung về thực trạng của tiến trình Dân chủ của Đất nước để mà từ đó thảo luận và tìm ra con đường đi lên của Dân tộc. Thế nên có lúc, người nói rằng cần phải có Dân chủ cho Việt Nam, người lại nói không cần. Có người nói Dân chủ là phải đánh đổ Cộng sản, có người nói điều đó không nhất thiết, bởi trong bao nhiêu chế độ Dân chủ trên thế giới, đảng Cộng sản vẫn tồn tại đó sao (Pháp, Đức, Nhật,..). Thậm chí, ở trong nước người ta còn nói là Việt Nam đã có Dân chủ rồi, thậm chí Dân chủ hơn triệu lần các nước khác, vậy thì còn phải đấu tranh cho Dân chủ làm gì nữa. Nhiều đến nỗi mà đã có người đã lợi dụng cái Dân chủ đó để mưu đồ cá nhân (?) hay sao, để rồi phải ngồi tù vì anh cứ làm loạn cả lên, làm mất ổn định. Ai đời lại đi đòi cái mà anh đã có rồi, có tràn trề thế cơ mà... Bạn đừng cười những lập luận như thế, có khi nó không đúng ý bạn, nhưng nó lại làm cho hàng triệu người khác nghe theo, dấn thân thậm chí đấu tranh quên mình vì nó. Vậy thì vì đâu mà người dân Việt Nam ta ở khắp mọi nơi vẫn cứ tranh luận, tranh luận và tranh luận, để mãi mãi không hoà hợp được với nhau. Tôi cũng vậy, cũng mạo muội đưa ra ý kiến của mình về Dân chủ, sau khi trải qua biết bao lắng nghe, tìm tòi, suy tư, với tất cả mong muốn rằng những người Việt Nam đấu tranh vì Dân chủ cho Đất nước Việt Nam kính yêu hãy cất lên tiếng nói chung, cùng nhau đứng trên một chiến tuyến, bước trên một bước đường, đấu tranh để mang lại một ngày mai tươi sáng cho Đất nước. Tôi không dám và không đủ khả năng trình bày khái niệm Dân chủ kỹ càng, khúc chiết một cách mô phạm [1], mà chỉ đưa ra những suy nghĩ cá nhân mộc mạc về bản chất và cốt lõi của vấn đề rộng lớn và hệ trọng này.

I. Bản chất của chế độ dân chủ:

Dân chủ, hiểu một cách nôm na nhất, chính là Nhân dân làm chủ Đất nước. Một chế độ Dân chủ là một chế độ mà tất cả người dân đều có quyền ngang nhau quyết định vận mệnh và đường lối của Đất nước, tức thực sự là người chủ của Đất nước. Quyền đó được chia đều cho mỗi người dân, không phân biệt nguồn gốc, đảng phái, học thức, thu nhập, tôn giáo, v.v.. mỗi người được một lá phiếu duy nhất, công bằng và hết sức công bằng. Đó chính là cách thức thực hiện quyền Dân chủ, thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu. Như vậy, mỗi người dân trong một chế độ Dân chủ đều cảm nhận được cái quyền của mình, anh ta hiểu rằng anh ta đóng góp vào sự lựa chọn chung về người làm chủ Đất nước, về đường lối phát triển kinh tế, xã hội... Và đặc biệt hơn nữa, anh ta cảm nhận được cái quyền của anh ta cũng ngang bằng với tất cả những người khác, kể cả người đang đứng cao nhất trong chính quyền. Cái quyền đấy dù rất nhỏ, chỉ bằng một chia cho vài chục triệu, nhưng nó là có thật, và con người từ ngàn năm nay đã đấu tranh không mệt mỏi để dànhh bằng được quyền làm chủ đó.

Vâng, chế độ Dân chủ ngày nay (trên những nước Dân chủ) là kết quả của một cuộc đấu tranh thực sự, vì vậy mà tôi muốn nhấn mạnh quá trình đó bằng khái niệm Cách mạng Dân chủ (CMDC). Con người từ khi bắt đầu cuộc sống tập thể, đã có nhu cầu tìm ra một người đứng đầu để quản lý đời sống chung của nhóm, cộng đồng, và xã hội cũng hình thành từ đó. Như một điều tự nhiên, mỗi người đều muốn mình là người chủ của xã hội đó, có thể nói đây là một đặc tính cơ bản của con người. Cũng dễ hiểu bởi khi người ta thấy được cái quyền làm chủ của mình, thấy được những mệnh lệnh của mình được người khác phục tùng, thấy uy quyền của mình làm người khác nể sợ, điều đó mang lại cái cảm giác mãn nguyện khôn tả. Tôi tin chắc tất cả các ông vua, nhiều vị tổng thống, đã nhiều đêm không ngủ được vì sung sướng khi cảm thấy quyền lực đã ở trong tay mình. Thuở xa xưa, cái địa vị làm chủ xã hội và quyền lực đi kèm theo nó do sức mạnh tạo nên, đó chính là bản chất của chế độ phong kiến. Và đương nhiên, khi đã giành được ngai vàng, các ông vua cũng luôn dùng sức mạnh để bảo vệ bằng được ngôi báu đó. Lòng tham về quyền lực là cái lòng tham lớn nhất, người ta không bao giờ thoả mãn được với nó, thậm chí đến lúc chết. Cái bản chất đó bao trùm lên tất cả. Nhiều vị anh hùng khi đứng lên khởi nghĩa cũng chỉ một lòng mang lại điều tốt đẹp nhất cho Đất nước, cho Dân tộc, nhưng khi nắm quyền trong tay rồi thì những lý tưởng tốt đẹp lại nhường chỗ cho cái bản năng tột bực kia. Điều đó lý giải vì sao chế độ Phong kiến đã kéo dài đến thế. Để lật đổ được chế độ đó, con người đã phải đấu tranh, đổ máu mà tiêu biểu nhất là những cuộc Cách mạng Dân Chủ Tư sản (CMDC Pháp, CMDC Anh..) cuối thế kỷ 18. Tuy các cuộc Cách mạng này chưa mang lại ngay một Xã hội Dân chủ thực sự theo đúng nghĩa của nó, nhưng đó là một thành quả hết sức tiêu biểu trong quá trình phát triển của Nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, quyền làm chủ một xã hội không thuộc về một người, mà là nhiều người. Những người làm nên cuộc cách mạng đó đã thấy rõ rằng xã hội chỉ có thể phát triển (quan trọng nhất là phát triển sản xuất) khi mà nó được điều hành bởi một tập thể, suy rộng ra là bởi Nhân dân. Chỉ như vậy nó mới thực sự vận hành, biến đổi vì quyền lợi của Nhân dân. Và kết quả của nó đã được kiểm chứng rõ, đời sống Nhân dân tại các nước Dân chủ đã tiến bộ không ngừng, với một tốc độ vượt xa hơn tất cả những gì con người làm được trước đó. Tuy những Nhà nước Dân chủ chỉ thực sự xuất hiện từ thế kỷ 20, nhưng đó là sự hoàn thiện, phát triển của chế độ Dân chủ đã ra đời từ bước ngoặt là cuộc Cách Mạng Dân chủ trước đó, và sự phát triển đó vẫn tiếp diễn.

Với đặc điểm cơ bản của chế độ Dân chủ nêu trên, tôi khẳng định Việt Nam chưa có Dân chủ. Nhân Dân Việt Nam chưa có quyền chọn ra những người đứng đầu Đất nước, lực lượng lãnh đạo Đất nước. Chưa có quyền lựa chọn đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đất nước. Đảng Cộng sản có phải là lực lượng có đủ năng lực, liêm khiết, đức độ để lãnh đạo Đất nước hay không? Có nên để cho một đảng phái lãnh đạo Đất nước mãi mãi hay Nhân Dân sẽ bầu ra người lãnh đạo theo một nhiệm kỳ xác định? Có nên theo kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa hay theo kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường tập trung? Tất cả những điều đó (và còn nhiều điều nữa) chưa bao giờ Nhân Dân Việt Nam có quyền quyết định. Chế độ do đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước ta hiện nay mang hình bóng của một chế độ phong kiến [2]. Chính vì vậy, Cách Mạng Dân Chủ là tiến trình phát triển tất yếu của Đất nước Việt Nam, là nhiệm vụ tất yếu của Nhân Dân Việt Nam.

II. Đặc điểm của cuộc Cách Mạng Dân chủ và đối chiếu với tình hình của Việt Nam:

Các nhân vật lãnh đạo Cách Mạng Dân chủ Tư sản đã không đấu tranh giành quyền làm chủ cho cá nhân mình, nếu không thì họ đã chỉ làm nên một triều đại phong kiến mới. Mục đích của mọi cuộc Cách mạng Dân chủ là vì Nhân Dân, tính Cách mạng là ở đó. CMDC ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật trên, đó là việc giành quyền làm chủ Đất nước từ tay một chế độ độc tài đưa lại cho Nhân Dân. Nói cách khác, là đấu tranh chống chế độ một đảng lãnh đạo, giành quyền lựa chọn ra người đứng đầu Đất nước, chính đảng cùng với đường lối lãnh đạo của nó, về tay Nhân dân. Chúng ta cần lưu ý là cuộc CMDC "không nhằm xoá xổ hay tôn vinh bất cứ một đảng phái nào", trước Nhân dân, tất cả các đảng phái đều bình đẳng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải luôn luôn tâm niệm một lòng vì Dân, phải đưa chữ Dân lên làm mục đích, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Kẻ thù của Cách mạng là tất cả những cá nhân, tổ chức, đảng phái chống lại tiến trình Dân chủ, chống lại tiến trình giành quyền lực về tay Nhân dân. Cuộc CMDC cũng sẽ là một cuộc sàng lọc, lựa chọn ra những cá nhân, những tổ chức có tài, có đức, nhưng hơn hết là có tâm huyết đấu tranh vì quyền lợi của Nhân dân Việt Nam.

Sau khi xác định mục đích của cuộc CMDC là vì Nhân dân, thì lực lượng Cách mạng không ai khác cũng chính là Nhân Dân. Nhân Dân ở đây là toàn bộ hơn 80 triệu người dân Việt nam, từ Bắc tới Nam, từ đồng bằng lên miền núi, là dân tộc Kinh cùng hơn 50 dân tộc khác, là người Việt nam ở trong nước hay ở Hải ngoại, là tất cả con em chúng ta mang dòng máu Việt, nói tiếng nói Việt thân thương. Đây là một đặc điểm nổi bật và quyết định cho sự nghiệp Cách mạng Dân chủ Việt Nam. Trong lịch sử đã có những cuộc CMDC do một tổ chức, một đảng phái, một bộ phận xã hội lãnh đạo. Nhưng đối với tình hình của nước ta trong thời đại hiện nay, sự tham gia của toàn bộ (hay nói đúng hơn, đa số) Nhân dân là điều không thể thiếu được, bởi hai nguyên nhân chính sau:

- Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, vì việc nước, mỗi người có thể đấu tranh hết mình, thậm chí đánh đổi cả xương máu. Truyền thống yêu nước đó hàm chứa lòng yêu thương đồng bào, yêu thương những con người cùng chung huyết thống, cội nguồn. Nhiều khi chúng ta vẫn mang những tính xấu, vẫn tị hiềm giữa những cá nhân, những tập thể, nhưng nếu đó là việc nước, là vì toàn thể Nhân dân thì lòng yêu nước sẽ kết nối chúng ta thành một khối thống nhất, đấu tranh quên mình cho sự nghiệp chung. Cuộc CMDC không thể không tính đến khối Đại đoàn kết Dân tộc, vì mục đích sau cùng chính là Nhân dân.

- Chế độ Cộng sản là một chế độ độc đảng, và nó duy trì quyền lực bằng sự độc tài. Nhưng trong suốt lịch sử loài người, chưa có chế độ độc tài nào che giấu bản chất của nó trước Nhân dân được tốt như trong chế độ Cộng sản. Nó đã đưa quyền lợi của Nhân dân, của Dân tộc lên làm bình phong cho quyền lợi của mình, bằng một phương pháp tuyên truyền cực kỳ hiểu quả, càng hiệu quả hơn đối với một Dân tộc mang truyền thống Á Đông, có sự nhận thức Xã hội chưa cao như Dân tộc ta. Nó đã áp đặt lên Nhân dân sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, kèm theo những phương tiện trấn áp hùng mạnh tất cả những đối lập, dưới danh nghĩa "chuyên chính vô sản", "bạo lực cách mạng",.. để qua mắt Nhân dân. Do vậy, việc lật đổ chế độ "một đảng Cộng sản lãnh đạo" (không có nghĩa là lật đổ đảng Cộng sản) là một quá trình gian nan, khó khăn nhất mà chỉ có sức mạnh của toàn thể Nhân dân mới có thể thực hiện được.

Đặc điểm trên đây sẽ chi phối và quyết định thắng lợi của CMDC Việt nam. Tiền đề cho cuộc Cách mạng sẽ là sự đồng tình tham gia đông đảo của toàn thể đồng bào cả nước, đây cũng là điều kiện không thể thiếu. Lịch sử đã chứng minh trong sự sụp đổ của hệ thống các nước Xã hội Chủ Nghĩa, chúng ta thấy khởi nguồn chính là những đòi hỏi Dân chủ từ Nhân Dân (trường hợp Tiệp Khắc, Ba Lan,...). Tiêu biểu hơn, trường hợp Nam tư là một ví dụ điển hình. Sự trừng phạt quân sự của quốc tế năm 1999 không hề làm suy chuyển ghế Tổng thống của Milosevic. Thậm chí, ông ta còn nhận thêm sự ưu ái của dân chúng. Vì lòng tự hào Dân tộc, Nhân dân đã kết lại thành một khối, và chế độ Cộng sản luôn biết lợi dụng điều đó, đồng hoá lòng yêu nước của Đồng bào với lòng trung thành với chế độ. Nhưng chỉ một năm sau đó, khi cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra, sự gian lận trong kiểm phiếu vốn là truyền thống của các nước Cộng sản (bầu cử kiểu 99%) đã không lừa gạt được dân chúng. Cuộc biểu tình chống chính phủ diễn ra rộng khắp, toàn bộ hoạt động sản xuất của Đất nước tê liệt, và kéo dài... 1 tháng (một điều chưa từng có). Milosevic đã bị phế truất bởi Nhân dân, để rồi một năm sau nữa phải ra toà án Quốc tế (cũng là một điều chưa từng có) vì tội ác diệt chủng, lần này thì không có biểu tình, phản đối gì của dân chúng nữa. Sau chế độ cộng sản, người dân có quyền nói lên chính kiến của mình, những điều mà trước đó không bao giờ được biểu hiện. Hay mới gần đây, cuộc Cách mạng Nhung tại Grudia đã một lần nữa minh chứng cho sức mạnh của Nhân Dân, đảng cộng sản với quân đội và cảnh sát trong tay đã không thể chống lại sức mạnh toàn dân.

Những gì mà chế độ Cộng sản vẫn hay rêu rao như các thế lực thù địch, các nước đế quốc luôn rắp tâm gây mất ổn định nước ta bằng các chiêu bài Nhân quyền, tôn giáo, v.v.. chỉ nhằm để đánh vào tâm lý người dân. Họ đã đồng nghĩa việc chống Cộng sản với chống Quốc gia, chống lại Đất nước, để từ đó đánh vào lòng tự hào Dân tộc, tính độc lập tự cường của Nhân dân. Vô hình chung đã gieo vào lòng dân chúng mối ác cảm với tất cả những ai chống lại họ, đồng nghĩa với thiện cảm dành cho chế độ. Đáng buồn thay, điều đó đã mê hoặc không ít người dân. Nhưng cùng với sự phát triển của tri thức, của văn minh Xã hội, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Những chống đối trên không nhằm gây mất ổn định cho Đất nước, mà nhằm đưa Việt Nam ra khỏi một sự "ổn định chết", tiến lên phát triển đúng với tiềm năng sẵn có của con em Đất Viêt, kịp sánh vai cùng bè bạn khắp năm châu. Đúng là không một thế lực thù địch nào, một tổ chức nào, mà chính là toàn thể Nhân Dân Việt Nam sẽ kết thành một khối để lật đổ chế độ Cộng sản, xây dựng một xã hội Dân chủ mà quyền lực luôn nằm trong tay Nhân dân.

III. Thực trạng tình hình Việt Nam trong tiến trình Dân chủ hoá:

Để có thể huy động sức mạnh quần chúng cho tham gia Cách mạng, trước hết phải làm cho Nhân dân hiểu được quyền làm chủ của mình. Quyền đó được thực hiện (hay được chia đều cho mỗi người dân) bằng cách Nhân dân cùng lựa chọn ra người đứng đầu Đất nước, lãnh đạo Đất nước trong một nhiệm kỳ nhất định. Hết khoảng thời gian đó, Nhân dân sẽ bầu lại một chính quyền mới. Trong mỗi thời điểm, người đứng đầu Đất nước sẽ là người có năng lực nhất trong tình hình đó. Đường lối phát triển đất nước luôn năng động, chuyển biến và bám sát thời cuộc nhằm đưa lại một sự tối ưu hoá cho sự phát triển. Những khái niệm trên có thể rất giản đơn, mặc định đối với nhiều người được sống trong một xã hội Dân chủ, nhưng lại là những điều hết sức mới mẻ đối với phần đông Nhân dân Việt nam. Người dân chưa quen với việc mình được bầu ra (và bãi nhiễm)người làm chủ Đất nước, họ chưa hiểu được Nhà nước không phải là một lực lượng đứng trên họ, mà là do chính Nhân dân tạo nên. Vì vậy quyền bổ nhiệm và giám sát của Nhân dân với nhưng người lãnh đạo Đất nước phải là đương nhiên. Để làm cho Nhân dân hiểu được điều đó, thoạt nhìn rất đơn giản, nhưng lại là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Nếu nhìn lại những gì đang diễn ra quanh ta, chúng ta phải chấp nhận một thực tế là chúng ta còn đang đứng rất xa tiền đề của một cuộc Cách mạng Dân chủ.

Chúng ta hãy thử làm một cuộc điều tra nhắm vào những người trẻ tuổi lớn lên trong chế độ Cộng sản. Hãy bắt đầu trước hết bằng những người đang được sống và học tập trong các nước Dân chủ tiến bộ, những sinh viên dụ học đang ngày một tăng cao. Hãy hỏi họ: "chế độ Cộng sản hiện nay có phù hợp với tình hình Việt nam không, có mang lại sự phát triển tốt nhất cho Nhân dân Việt nam không"? Theo tôi sẽ có khoảng 70% trả lời là có. Nếu bạn cố hỏi thêm là: "có cần thiết xây dựng một chế độ Dân chủ cho Việt nam hay không?", thì 70% đó sẽ nhận ngay ra ý của bạn và trả lời thẳng thừng: "Tôi không thích nói chuyện chính trị, tôi không thích giao du với những người chống Cộng". Nếu đưa ra câu hỏi trên với những sinh viên học tập trong nước, chưa một lần tiếp xúc với bên ngoài, con số trên sẽ là 90% hoặc cao hơn. Chúng ta có thể thấy sự tuyên truyền của Cộng sản đã thẩm thấu suy nghĩ và quan điểm của tuổi trẻ thế nào, cho dù có được sống trong xã hội Dân chủ tiến bộ cũng không phải ai cũng nhận ra sự thực. Đối với họ, khái niệm Dân chủ đã là hiện thân của một cái gì đó rất xấu, rất không hợp với Việt nam, chỉ mang lại những rắc rối, phiền toái, mất ổn định,... Rõ ràng, họ đã được tiếp xúc với khái niệm Dân chủ, Dân chủ cho Việt nam rất không đúng cách, và kết cục đã mang lại một phản ứng tiêu cực. Đó là suy nghĩ của giới trẻ Việt nam, những người chủ tương lai của Đất nước. Và thật trớ trêu, tình hình lại có vẻ bớt bi quan hơn nếu ta hỏi những người dân thuộc các lứa tuổi khác, theo tôi những người đồng tình với chế độ sẽ chỉ khoảng 50%. Có lẽ là do những nhìn nhận xuyên qua các cuộc chiến tranh và "thành tích" lãnh đạo của đảng Cộng sản trong nhiều năm, Nhân dân đã nhìn ra được sự thật. Nhưng điều đáng buồn là trong số 50% còn lại thấy được chế độ Cộng sản là yếu kém, đa phần lại không quan tâm tới việc thay đổi nó. Tức là đối với họ chế độ nào cũng thế thôi, sẽ chẳng thay đổi được gì, và khái niệm Dân chủ thì càng không có chỗ ở đây. Đó là một thực trạng khách quan mà chúng ta cần phải thấy rõ, để từ đó tìm ra phương hướng và đường lối đấu tranh cho con đường Dân chủ lâu dài và đầy chông gai sắp tới.

Trên con đường đó, chúng ta mới chỉ ở đoạn đầu, giai đoạn đấu tranh về tư tưởng, nhận thức, nhằm mang lại những kiến thức cơ bản về Dân chủ, về sự phát triển Xã hội cũng như quyền Con người cho đại bộ phận quần chúng. Nhân dân là người ở giữa, và ta phải giành bằng được Nhân dân về phía ta, phía tiến bộ, phía mang lại quyền làm chủ Đất nước một cách bình đẳng cho mỗi người trong đó. Mặt trận ở đây là mặt trận tư tưởng, khoa học Xã hội, kinh tế Xã hội. Cuộc chiến ở đây là của những người mang tri thức (những chiến sĩ Dân chủ) chống lại sự độc tài. Cùng với đà phát triển của sản xuất, sự tiếp thu tri thức sẽ tăng lên (nhất là nhờ internet), quá trình nhận thức của Nhân dân Việt nam về sự bất hợp lý của việc một đảng duy nhất cầm quyền sẽ diễn ra một cách tất yếu. Và một khi đã nắm bắt được những tri thức tiến bộ, nhận thức của Nhân dân sẽ chuyển dịch về một Xã hội Dân chủ. Cuộc đấu tranh cho một Xã hội Dân chủ sẽ thôi thúc và thống nhất tất cả những người Việt Nam yêu nước hoà thành một khối, xây dựng lực lượng nòng cốt cho tiến trình Cách mạng. Tuy vậy, trên thực tế đa phần Dân chúng vẫn đang đồng tình với chế độ Cộng sản (ít nhất là không phản đối), bởi người dân chưa có những hiểu biết, quan sát, so sánh với các Xã hội Dân chủ khác. Nhân dân chưa một lần được bầu ra người đứng đầu nhất nước, giám sát hoạt động của chính quyền, đánh giá xem có nên bầu tiếp lần sau không. Chính vì chưa tiếp xúc với những hình thức tổ chức Xã hội Dân chủ, Nhân dân chưa nhìn ra hết những quyền lợi mà mỗi công dân trong Xã hội được hưởng, và đó cũng là phương tiện để mọi người cùng góp sức phát triển một xã hội phồn vinh. Người dân chưa hiểu Dân chủ là gì, sẽ mang lại cho họ những gì, vì vậy chúng ta chưa thể để cập ngay đến việc đòi hỏi một chế độ Dân chủ cho họ, không thể đưa vào tay người khác những gì mà họ không cần, điều đó rất dễ bị lợi dụng để biến thành một hành vi xấu. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt là mang đến cho Nhân dân những kiến thức về Dân chủ dưới hình thức dễ hiểu nhất. Chỉ khi nào Dân hiểu, Dân cần, Dân đấu tranh (theo nghĩa đa số Nhân dân) thì mới có thể đứng lên phát động cuộc Cách mạng. Đây là một việc làm lâu dài, phải kiên trì, không nóng vội thì mới có thể đẩy nhanh được tiến độ. Chuyển biến nhận thức một khối đông không phải là một việc đơn giản, bởi không chỉ đơn thuần là vì Dân không thể hiểu, không thể tiếp thu, mà đằng sau đó là một thế lực Cộng sản hùng mạnh luôn trấn áp và bao phủ tầm nhận thức của Nhân dân (đặc biệt về kiến thức Xã hội). Những cách tác động trực tiếp, đẩy mạnh đòi hỏi về Nhân quyền, Tôn Giáo, v.v.. đã rất ít được người dân trong nước quan tâm. Thậm chí, dưới cách xoay vần man trá của Nhà nước Cộng sản, những hành động đòi Nhân quyền đó lại trở thành những âm mưu phá hoại sự ổn định của nước nhà. Nhân dân vì thế mà thờ ơ, xa lánh, cách biệt với những người đấu tranh Dân chủ, lực lượng của ta vốn đã mỏng lại bị chia cách hơn nữa. Chính vì vậy, đây sẽ là một cuộc đấu tranh rất vất vả, khó khăn, nhưng nhất định sẽ thắng lợi bởi tri thức luôn là niềm tin, là chân lý. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng này là một tiến trình không thể thiếu để đi lên Dân chủ từ một Xã hội với xuất phát điểm còn thấp (một cả kinh tế, chính trị, Xã hội, tư tưởng), là quá trình trang bị lý luận trước khi phát động đấu tranh lật đổ chế độ độc tài. Nói cách khác, cuộc đấu tranh tư tưởng chính là cuộc đấu tranh giành lực lượng, là tiền đề không thể thiếu của cuộc Cách mạng Dân chủ Việt Nam.

III. Phương pháp đấu tranh của cuộc Cách mạng Dân chủ Việt nam:
Việc có dễ trăm lần không Dân cũng chịu
Việc có khó vạn lần Dân liệu cũng xong [4]

Câu nói đó, muôn đời vẫn đúng. Nhưng nói là một chuyện, làm được mới khó. Và để làm cho được, chúng ta phải luôn luôn tâm niệm trong đầu rằng sự nghiệp Cách mạng Dân chủ là của Dân, do Dân và vì Dân. Đó là mục đích, và cũng chính là lực lượng, là phương pháp của cuộc CMDC. Sức mạnh của Nhân Dân là vô địch, một khi Dân đã đồng lòng nhất trí, không một chế độ độc tài nào có thể ngăn cản nổi, kể cả chế độ Cộng sản. Cuộc Cách Mạng Dân Chủ chỉ có thể tiến hành một cách triệt để khi nó huy động được toàn thể sức mạnh của Nhân Dân, bao gồm mọi tầng lớp, kể cả những người trong hàng ngũ Cộng sản. Hãy nhìn những dòng người biểu tình Grudia xông vào toà nhà Quốc hội, trong khi Bộ đội và Cảnh sát đứng nhìn, thậm chí mỉm cười, để thấy rằng một khi mặt trận tư tưởng đã thông thì không có gì có thể ngăn nổi sức mạnh của Nhân Dân. Đó là thành quả trái ngọt mà chúng ta cùng hướng tới.

Như đã nói trên, chúng ta đang ở bước đầu của con đường đấu tranh cho Dân chủ, cuộc đấu tranh về tư tưởng và lý luận, hay cuộc đấu tranh đưa Nhân dân thoát khỏi màn kềm toả bởi chủ thuyết Cộng sản. Nói một cách chính xác, đây không phải là quá trình lý luận để chọn ra chế độ phù hợp cho Đất nước, mà đơn giản chỉ là quá trình phổ cập tri thức tiến bộ tới toàn thể Đồng bào. Tuy vậy, đây lại là một quá trình rất chông gai, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, nhẫn nại, lựa vào chỗ yếu của đối phương mà đánh, tránh đưa ra những lập luận thiếu rõ ràng dễ bị đối phương dựa vào sự độc quyền sẵn có về tuyên truyền đánh lạc hướng Nhân dân. Mục đích của cuộc đấu tranh tư tưởng này là trang bị cho Nhân dân kiến thức về Dân chủ, vì vậy chưa nên đưa ra những luận điểm đả kích trực tiếp đảng cộng sản mà thiếu chứng cứ rõ ràng, hay những hành động tiến hành việc lật đổ chính quyền (thực tế là chưa thể làm được). Những sự phản đối này trước hết sẽ thất bại vì nó chưa có tiền đề là sự tham gia của toàn thể Nhân dân, hơn nữa lại dễ bị chính quyền phản tuyên truyền, tăng thêm sự xa lánh của quần chúng. Chúng ta nên tập trung nêu rõ sự khác biệt của Xã hội Việt Nam hiện tại với các Xã hội Dân chủ trên thế giới. Hãy đưa ra những câu hỏi như: "Nhân dân các nước được đi bầu cử Tổng thống, tại sao ở nước ta lại không?" "Nếu người đứng đầu Nhà nước Việt nam cũng do dân bầu ra trực tiếp qua các cuộc bỏ phiếu thì Đất nước có phát triển tốt hơn bây giờ không?"; "Tại sao chúng ta không biết ngân sách quốc gia chi tiêu bao nhiêu vào những việc gì, trong khi đó là tiền thuế của Dân?"; "Vì sao những bộ trưởng các nước lại từ chức khi có một sự việc xấu xảy ra, trong khi những vụ tương tự ở nước ta xảy ra hàng ngày mà không có ai làm như vậy?"; "Tại sao ta không chống được tham nhũng, nếu bây giờ Nhân dân trực tiếp bầu ra các chủ tịch tỉnh, thành phố cứ 4 năm một lần thì tham nhũng có bớt không?"; Hay những việc nhỏ như : "Tôi muốn biết ông chủ tịch thành phố tại sao lại có nhà to như vậy, tôi phải hỏi ai?"; "Tại sao sinh viên không được chọn môn, chọn thầy giáo, không được tự tổ chức các hoạt động tập thể mà luôn phải thông qua Đoàn?". Những câu hỏi đó bám sát vào thực tế, hướng người được hỏi tới một sự đổi mới về một xã hội mà Nhân dân nắm quyền lựa chọn, giám sát toàn bộ Nhà nước, để hình thành một cách tự nhiên khái niệm Xã hội Dân chủ trong mỗi người dân. Hãy diễn giải khái niệm Dân chủ một cách gần gũi, nêu bật giá trị của nó làm cho đời sống phát triển, xã hội công bằng, con người được tôn trọng. Ngược lại, nhấn mạnh những vấn đề tham nhũng, bất công chỉ có thể phát triển trên mảnh đất độc tài, bởi nếu có Dân chủ thì nó đã được quét sạch qua những cuộc bầu cử. Nói tóm lại, cần phải xoá suy nghĩ Dân chủ là một khái niệm chính trị (mà Nhân dân vốn quen không nói chuyện chính trị) đơn thuần, mà chính là chìa khoá của sự phát triển Xã hội, mang lại quyền làm chủ cho mỗi người dân.

Sự kiện về sự sụp đổ của hệ thống các nước cộng sản cũ là một minh chứng cho tiến trình tất yếu đi lên xã hội Dân chủ. Chúng ta cần khai thác triệt để nhằm chứng minh tính đúng đắng của việc kết thúc chế độ một đảng lãnh đạo trong thời đại văn minh, nâng cao lý luận Dân chủ thành chân lý. Đó là sự lựa chọn tiến bộ, hoà chung vào nhịp phát triển của Nhân loại. Sự sụp đổ của chế độ Cộng sản (tại các nước Đông Âu) đó cần được lý giải rõ ràng, bởi nguyên nhân sâu xa là sự lựa chọn Dân chủ của Nhân dân các nước đó chứ không phải sự sụp đổ đơn thuần của các đảng Cộng sản. Đảng cộng sản vẫn tồn tại chứ không hề mất đi, cái mất chỉ là sự ủng hộ của quần chúng, biểu hiện bởi tỷ lệ phiếu luôn thấp cho đảng cộng sản trong những cuộc bầu cử tự do. Nhưng thực ra, chưa thể nói là mất, bởi quyền lực họ giành được trước đó không hẳn là do nguyện vọng của Nhân dân. Đây là một minh chứng hiển nhiên, vừa mang tích khách quan lịch sử, vừa mang tính thời đại sâu sắc. Ở Việt nam, sự thực đã bị che giấu bằng lý do là sự yếu kém của các đảng cộng sản các nước cùng sự phá hoại của bên ngoài. Nhưng thực tế đó là một sự nguỵ biện kín đáo, làm lu mờ vai trò của Nhân dân, sự lựa chọn Xã hội Dân chủ của Nhân dân. Bởi rất đơn giản, nếu lý luận cộng sản là đúng, mang lại đời sống tốt đẹp cho Nhân dân thì Nhân dân hoàn toàn có thể lựa chọn đảng cộng sản trở lại nắm quyền qua một cuộc bầu cử. Trong những biến cố đó không ai phá bỏ đảng cộng sản, chỉ có Nhân dân không còn tin dùng nó nữa thôi. Đảng cộng sản chỉ mất quyền áp đặt quyền lực lên Dân chúng một cách độc đoán, đó là điều không thể khác, nhưng vẫn hoàn toàn có khả năng trở lại nắm quyền nếu được Nhân dân tin tưởng bầu ra. Vâng, đó là nếu về mặt lý thuyết, còn khi đã trải nghiệm qua chế độ cộng sản, khó có một Dân tộc nào lựa chọn thêm lần thứ hai.

Những suy nghĩ cũ sẽ dần dần chuyển biến khi tiếp xúc với tri thức, tuy vậy quá trình này không diễn ra nhanh chóng một cách tự nhiên. Trước hết mỗi người dân Việt nam không hay quan tâm đến những vấn đề mang tính quốc gia, họ luôn tự cho mình không có quyền tham gia quyết định vận mệnh đất nước. Đó là một suy nghĩ sai lầm, bởi đã là một thành viên trong xã hội, là một công dân anh phải nắm một phần quyền làm chủ của Xã hội đó. Thứ hai, sự tuyên truyền của đảng cộng sản quả thực đã ngấm rất sâu trong nhận thức của mỗi người. Nhiều khi sự thật khách quan không thắng nổi tính ỳ của nhân sinh quan. Người ta vẫn theo những cái gì họ vẫn theo từ trước, tự coi đó là của mình, không cần học hỏi ai khác. Thay đổi có thể tốt hơn đấy, nhưng mọi việc vẫn đang ổn định đang đi lên thì tội gì phải đảo lộn tất cả. Lường trước những khó khăn trên, chúng ta cần phải kiên trì hơn nữa. Mỗi người phải là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng, hãy đền gần, không xa lánh những người theo cộng sản. Bằng những lý luận rõ ràng, bằng thực tế cụ thể, bằng tình hình trong nước và quốc tế cùng làm sáng tỏ vấn đề. Chúng ta buộc phải thắng trong cuộc chiến này mới có thể nghĩ đến sự phát động cho cuộc Cách mạng. Theo tôi, quá trình này khó có thể hoàn thành trước năm 2012, bởi một phần đông dân chúng vẫn đang ở tình trạng nghèo nàn, đặc biệt là nghèo về thông tin, tri thức. Chỉ có thể huy động được quần chúng khi họ đã có một mức sống được coi là tạm đủ và ổn định, sự phổ cập kiến thức tự nhiên, xã hội một cách sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. Theo tôi, trong khoảng thời gian này sẽ có những chuyển biến mới tại Cuba, khi mà nhà độc tài Fidel Castro không còn nắm quyền. Sự kính trọng của dân chúng sẽ hết, nhường chỗ cho sự mưu cầu một Xã hội phát triển đúng hướng. Sự kiện này sẽ khởi đầu một giai đoạn lung lay tột độ của 4 nước mà đảng cộng sản độc giữ chính quyền còn sót lại (Trung Quốc, Bắn Hàn, Việt Nam, Lào). Từ thời điểm này cho đến năm 2015, cuộc đấu tranh sẽ được nâng lên một tầm cao mới, đấu tranh đòi hỏi Dân chủ. Những cuộc thảo luận mang tính đại chúng có thể diễn ra vào thời điểm này, những bức xúc về sự cần thiết của xã hội Dân chủ, đa đảng được đề cập xuyên qua sự bưng bít, giám sát và bắt bớ của chế độ. Dư luận Xã hội dao động ở một mức cao, đủ sức bung vỡ qua một biến cố lớn lao. Đó sẽ là những viên đạn bắn vào bức màn kiểm duyệt của cộng sản, đến chừng nào nó không thể che chắn được nữa. Chúng ta hãy cùng hy vọng cuộc Cách mạng sẽ diễn ra sau năm 2015 và không muộn hơn năm 2020.

Đời người thật ngắn ngủi, đã bao nhiêu năm đất nước chìm đắm trong sự cai quản của chế độ độc tài. Phải chờ thêm bao nhiêu năm nữa để đến ngày phồn vinh, lòng chúng ta không khỏi quặn đau. Nhưng từ nỗi đau đó phải biến thành hành động, và để hành động đúng phải có cái nhìn khách quan và đường lối đúng đắn. Chúng ta đã thiếu thống nhất, thiếu lý luận và phương pháp đấu tranh, bằng chứng là chế độ Cộng sản đã tồn tại suốt gần 30 năm qua trên đất nước thanh bình. So với quãng thời gian đó, những dự định trên không hề dài, mà thậm chí để đạt được những gì đề ra đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh không ngừng nghỉ. Hãy cùng nhau bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trước mắt, cuộc đấu tranh chuẩn bị lực lượng cho cuộc Cách mạng. Hãy cùng phổ biến tri thức tiến bộ tới tất cả những người Việt nam quanh ta, không phân biệt quá khứ, nguồn gốc. Quá trình gian nan này sẽ được giúp sức bởi những thành tựu khoa học, Xã hội, bởi sự phổ biến thông tin, bởi bạn bè quốc tế, ... Chúng ta hãy tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng cho Đất nước và Nhân dân Việt Nam!

-----------------------
[1] Ví dụ như trong bài "Dân chủ là gì" đăng trên trang web của bộ Ngoại giao Hoa kỳ mà anh Nguyễn Hồng Sơn đã dịch
[2] Khái niệm Phong kiến biến tướng mà Hà Sĩ Phu đã nêu trong bài "Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường trí tuệ"
[3] Sự kiện lịch sử này cần nghiên cứu kỹ để rút ra những bài học cụ thể và thực tiễn cho tiến trình Dân chủ của Việt nam
[4] Hồ Chí Minh

http://www.vdlc.org/node/166
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache%3AZrRmfvVFFt8J%3Awww.vdlc.org%2Fnode%2F166+&cd=6&hl=vi&ct=clnk&gl=vn
____________________________________

Nước Anh là Quân Chủ Lập Hiến Nghị Viện theo mô thức Dân Chủ Đại Nghị (Representative democracy)

Các thể chế Cộng Hòa Tổng Thống (như nước Mỹ), Quân Chủ Lập Hiến (như nước Anh) và Cộng Hòa Bán Tổng Thống (như nước Pháp) cũng đều nằm trong mô thức Dân Chủ Đại Nghị này. Tức là cả 3 quốc gia trên đều là Dân Chủ Đại Nghị. Nghị Viện (Parliament) bao gồm hệ Độc Viện hay Lưỡng Viện, hay trong tiếng Việt còn gọi là Quốc Hội, là cơ quan lập pháp (qua hệ thống đại nghị). Hầu hết các thể chế nhà nước trên thế giới đều có cơ quan này với nhiều tên gọi khác nhau. Nước Anh gọi Parliament, Đức gọi Bundestag, Thụy Điển gọi Riksdag, Pháp và Ý cũng như Thụy Sĩ gọi Assembly, Na Uy gọi Stortinget, Do Thái gọi Knesset. Và còn nhiều những tên gọi khác nữa. Nhiều quốc gia thay đổi tên gọi qua nhiều thời kỳ khác nhau mặc dù hệ thống nhà nước vẫn trong mô thức Đại Nghị. Người đứng đầu đại diện nhà nước có thể là Chủ Tịch, Tổng Thống, Vua hay Nữ Hoàng. Những đại diện này có quyền nhiều hay ít tùy theo từng quốc gia. Một số quốc gia hạn chết đến mức tước luôn một số quyền trong các quyền công dân của những vị này ví dụ như Nauy, Thụy Điển, Đan Mạch. Cụ thể là nghiêm cấm quyền chính trị của vua.
Đại Nghị là mô thức tổ chức, Nghị Viện hay Quốc Hội chỉ là tên gọi.
Ngay cả giáo hội La Mã cũng có Nghị Viện bao gồm các vị Hồng Y được bàu làm đại diện theo mô thức Đại Nghị. Những tiểu bang của Mỹ hay Đức và nhiều thành phố trong các nước Tây Phương cũng có Nghị Viện để có những quyết định (gọi là Nghị Quyết) trong phạm vi tiểu bang hay thành phố.
Các MÔ THỨC, THỂ CHẾ, CẤU TRÚC chính trị tây phương đề có trong tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý.
Quý vị nên thận trọng khi sử dụng Wikipedia nhất là những phạm trù liên quan đến chính trị Tây Phương được viết bằng tiếng Việt mà lại không có tiếng Anh, Pháp, Đức hay Ý.
Không có cái gọi là thể chế Dân Chủ Nghị Viện nào cả! Đó chỉ là ông hay bà nào đó tự viết ra và giải thích vòng vo rối rắm với mục đích méo mó chính trị mà thôi.
____________________________________

Xã hội cấu thành là để phục vụ cho lợi ích của từng cá nhân. Chủ Nghĩa Cá Nhân (Individualism) không có nghĩa là vì quyền lợi của 1 cá nhân mà là vì quyền lợi của mỗi cá nhân. Không có tổ chức xã hội nào vì quyền lợi của 1 cá nhân cả nếu không nói là Quân Chủ, chỉ vì một ông vua. Chủ Nghĩa Cá Nhân vì lợi ích cho mọi cá nhân thay vì cho một nhóm cầm quyền hay một giới chức là tốt tốt anh ạ. Không có gì nghịch lý cả. Mỗi con người nhân tố của xã hội, và cũng nhân tố để cấu thành xã hội. Chúng ta đổ lỗi cho xã hội nhưng chính chúng ta là xã hội. Người người đều muốn thay đổi thế giới nhưng lại không muốn thay đổi chính mình.
_______________________________________

Các nhà dịch thuật VN có vật lộn thế nào đi nữa thì cũng không bao giờ dịch chính xác được vì một lý do rất đơn giản là trong tiếng Việt không có từ ngữ tương đương để mà dịch. Hầu hết các khải niệm về các học thuyết Âu-Mỹ được hiểu rất mờ mờ ào ảo trong Việt ngữ và trong xã hội VN.
_______________________________________
QUYỀN CON NGƯỜI



Kinh doanh kiểu Việt Nam


Kinh doanh kiểu Việt Nam
Một người bạn, người thầy Thụy Sĩ nhiều năm gắn bó với Việt Nam đã kể cho tôi nghe câu chuyện về sự khác biệt trong cách khởi nghiệp của người Việt với người Thụy Sĩ như sau:
Ban đầu, một gia đình Việt Nam sản xuất bánh kẹo. Nhà bên cạnh nhìn sang, thấy người hàng xóm của mình đang làm ăn tốt, họ cũng bắt đầu sản xuất bánh kẹo. Các gia đình khác thấy vậy cũng tiếp tục sản xuất bánh kẹo. Kết quả là, từ một gia đình, chúng ta có cả một làng, một xã sản xuất bánh kẹo. Quy mô của họ nhỏ lẻ như nhau, các sản phẩm giống nhau, giá bán bằng nhau... Câu chuyện đó cũng giống như nhiều mặt hàng khác, tạo nên rất nhiều làng nghề sản xuất thủ công nghiệp trên khắp Việt Nam.
Còn ở Thụy Sĩ, ban đầu cũng có một gia đình làm bánh kẹo. Nhà bên cạnh nhìn sang, thấy vậy bèn nghĩ mình có thể sản xuất nguyên liệu làm bánh. Các gia đình khác nhìn vào hai gia đình kia, lại tiếp tục nghĩ đến việc cung cấp máy móc làm bánh kẹo, sản xuất vỏ hộp bánh kẹo, dịch vụ vận chuyển bánh kẹo... Kết quả là, từ một gia đình, họ có một tổ hợp khép kín hỗ trợ cho nhau, tận dụng lợi thế của nhau. Nhờ tính chuyên môn hóa cao, người Thụy Sĩ đã đưa nền kinh tế quốc gia phát triển, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các quốc gia láng giềng và tạo ra những sản phẩm công nghiệp có chất lượng hàng đầu trên thế giới.
Câu chuyện trên đã khiến tôi suy ngẫm rất nhiều về một phong cách kinh doanh kiểu Việt Nam. Đó là các quán ăn với cách bài trí và món ăn tương tự, những bộ trang phục không nhãn mác trên sạp hàng, các khách sạn cùng một tiêu chuẩn làng nhàng, những bãi biển không để lại ấn tượng, các trường đại học, cao đẳng mọi người không thể nhớ tên, những website thương mại điện tử na ná nhau... và còn biết bao nhiêu mô hình khác nữa, tất cả đều giống nhau một cách đáng kinh ngạc. Thậm chí cả những gói mỳ tôm, giờ cũng đang trở nên giống nhau, theo một cách không hiểu vô tình hay cố ý.
Khi bắt chước lẫn nhau, chúng ta không chỉ làm thị trường hẹp đi, kìm hãm nền kinh tế mà còn khiến những người anh em trong một nhà, những người hàng xóm cùng một làng và những doanh nghiệp cùng một ngành trở nên xa cách, hay nói theo cách thông thường là “khó nhìn mặt nhau”. Thật vậy, khi các doanh nghiệp trở thành đối đầu trực tiếp thay vì bổ trợ cho nhau, họ chẳng có gì để nói với nhau cả.
Đây có lẽ chính là nguyên nhân các hiệp hội ngành nghề ở Việt Nam không phát huy được hết vai trò của mình. Chẳng hạn câu chuyện của các hiệp hội vận tải, các thành viên của hội cũng chính là các doanh nghiệp đối thủ của nhau, nên không có nhiều điều để thỏa hiệp. Một quyết định giảm giá là có lợi cho doanh nghiệp này nhưng sẽ không có lợi cho doanh nghiệp khác.
Vì vậy, trong một hiệp hội, sẽ luôn tồn tại hai nhóm lợi ích trái chiều với mọi nghị quyết. Khi một quyết định được thông qua, nó có thể chỉ đang phục vụ cho một nhóm đa số doanh nghiệp hưởng lợi, chứ chưa thực sự dựa trên nền tảng của lợi ích chung của ngành.
Không chỉ cạnh tranh thiếu lành mạnh theo chiều ngang bằng cách bắt chước sản phẩm, dịch vụ của nhau, chúng ta còn ứng xử không đẹp theo chiều dọc của chuỗi cung ứng. Đó là khi một doanh nghiệp chuyên sản xuất muốn kiêm khâu phân phối, bán lẻ, còn doanh nghiệp phân phối lại muốn kiêm nốt cả khâu sản xuất. Chúng ta có xu hướng “cắt cầu” đối tác của mình để được “làm tất ăn cả”. Sự thiếu trung thành, trung thực đã làm giảm uy tín của người Việt trên thương trường, và các doanh nghiệp luôn phải hợp tác trong hoàn cảnh “vừa bắt tay, vừa thủ thế” với nhau.
Trở lại câu chuyện về người bạn Thụy Sĩ của tôi, ông đã dành nhiều thời gian ở Việt Nam để thuyết phục các doanh nghiệp “sản xuất bánh kẹo”, với mong muốn họ có thể chưa phối hợp với nhau ở đầu ra, thì hãy cộng tác ở đầu vào. Ông khuyên các hộ kinh doanh cùng hợp lại mua nguyên vật liệu để được giá rẻ hơn, như vậy lợi nhuận của tất cả đều tăng. Nhưng công việc này không hề dễ dàng, vì chỉ có một số ít nhận ra được lợi ích từ sự cộng tác đó, còn đa phần vẫn không muốn “chung đụng” với bất cứ ai, mà chỉ muốn làm theo cách của riêng mình. Đó dường như là một nếp tư duy ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, không dễ để thay đổi trong một sớm một chiều.
Trong một trật tự kinh tế mới, doanh nghiệp của chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài sự hội nhập. Một thế giới văn minh sẽ là nơi các quốc gia, các doanh nghiệp không còn đối đầu, mà cần phải hợp tác với nhau cùng có lợi.
Nếu chúng ta vẫn tin chắc rằng, lợi ích của mình chỉ đạt được dựa trên sự thua thiệt của người khác, thì nền kinh tế Việt Nam sẽ mãi lạc loài trong dòng chảy chung toàn cầu.
_St

https://www.facebook.com/441987659264345/photos/a.451181015011676.1073741828.441987659264345/795906080539166/?type=3

Thời buổi này, chưa cưới thì cũng ở với nhau như đã cưới rồi. Còn cưới rồi thì nằm chia giường như chưa từng đưa nhau ra phường đăng ký. Gái thì nam tính hùng hổ ko khác gì đàn ông , còn trai thì lại ẻo lả chẳng khác gì đàn bà. Con trẻ thì già đời triết lý như ông cụ , trong khi người lớn thì lại suy nghĩ ấu trĩ như trẻ con. Người ko có của thì tiêu tiền như rác, tỏ ra ko khác gì đại gia, còn kẻ giàu thật thì giả nghèo giả khổ. Người dùng iPhone thì quần có túi cũng như ko , còn kẻ chạy SH tỏ ra giàu có mà ko có tiền mua mũ bảo hiểm. Vật nuôi thì cũng áo quần mũ mão như người, còn người thì nude ko hở trc hở sau..
Lâu dần, chợt hiểu ra ...
Dùng cáp đồng hay cáp quang cá mập nó cắn phát thì cũng ôm máy tính mà ngậm ngùi. Thời gian của kẻ đeo đồng hồ 500k, với kẻ đeo đồng hồ 10 triệu cũng đều 24h . Uống chai rượu 50k , với chai rượu chục triệu đến lúc say, cũng đều nhớ đến một người . Ở nhà 30m2 hay nhà 300m2, thì Nỗi Cô Đơn cũng chỉ có cùng tên gọi. Hút bao thuốc 20k, hay 100k, thì rồi cũng đều mắc lao phổi. Ngồi ghế thương gia , hay ghế siêu tiết kiệm, máy bay nó mất tích, thì cũng đều ko còn đường mà quay về ...
Rồi bạn sẽ có ngày hiểu ra, hạnh phúc tại tâm, mới chính là thứ mà bao nhiêu của cải vật chất cũng ko thể tạo ra được.
Hiểu ra được những điều này, biết hài lòng với cuộc sống thì sẽ bình yên cả thôi .
-st-

_______________________________

Đánh giá theo khuynh hướng tính cách để chọn nghề nghiệp cho phù hợp, có nghĩa đánh giá ưu khuyết điểm của một người và xem tính cách của người đó có hợp với nghề nghiệp của anh ta không? Có một câu danh ngôn: Suy nghĩ quyết định hành vi, hành vi quyết định thói quen, thói quen quyết định tính cách, tính cách quyết định số phận. Cái gọi là số phận thực quyết định bằng tính cách của người đó

Tại sao cần phải học cách kiềm chế cảm xúc của bản thân?

Tại sao cần phải học cách kiềm chế cảm xúc của bản thân?
1. Bố tôi vừa mua một cái smartphone, hỏi tôi cách mở wifi, tôi nói mà ông mãi không hiểu, tôi nhắc lại ông vẫn nói là ông không biết. Lúc ấy tôi ức chế, gào lên: “Thôi, bố đừng hỏi nữa, con không biết đâu!” Không biết khi ấy bố tôi đau lòng như thế nào. Ngày nhỏ, khi tôi chưa biết thứ gì, bố tôi đã kiên nhẫn dạy tôi bước đi, dạy tôi học nói, dạy tôi ăn cơm... Giờ mỗi lần nghĩ lại đều thấy hối hận...
2. Cái gì cũng nói toạc ra, cái gì cũng bộc phát hết không phải là thẳng tính, mà là thiếu giáo dục.
3. Không thể vừa xấu, vừa lùn lại còn xấu tính đúng không?
4. IQ đã thấp thì không thể khiến EQ cũng thấp theo được.
5. Nổi giận là bản năng, khống chế cảm xúc là bản lĩnh.
6. Vì bố tôi không phải tỷ phú, người yêu tôi không phải đại gia, tôi không giỏi, không đẹp, không có khả năng muốn làm gì thì làm. Vậy nên phải học được cách kiềm chế bản thân, để trở thành một người bình thường không tầm thường.
7. Tất cả những cảm xúc không tốt, đơn giản đều đến từ kì thị, mập lên, thiếu tiên và không có người yêu.
8. Tính tốt là do cọ xát nhiều mà thành, tính xấu là do bị chiều mà ra. Người sửa được tính cách của bạn là người bạn yêu, người chịu được tính cách của bạn là người yêu bạn.
9. Nếu bạn đúng, bạn không cần phải nổi giận. Nếu bạn sai, bạn không có tư cách nổi giận.
10. Sai lầm lớn nhất của chúng ta chính là lưu lại tất cả những tật xấu, những cảm xúc tiêu cực nhất cho những người thân yêu nhất.
11. Nếu ngay cả cảm xúc của bản thân mà còn không khống chế được thì dù cho bạn cả thế giới, sớm hay muộn bạn cũng sẽ phá hủy tất cả.
12. Một lời hay có thể sưởi ấm cả mùa đông, một câu không hay làm rét lạnh cả tháng Sáu. Bạn sẽ không biết được một lời buột miệng lúc nóng giận của bạn có thể tổn thương người khác như thế nào, kể cả đó là những người thân thiết nhất. Càng trưởng thành càng phải học được cách bao dung, học được cách khống chế cảm xúc. Đừng để những xúc động nhất thời khiến bạn vuột mất người bạn yêu thương nhất.

Hiểu về kinh tế - Không khó như bạn nghĩ

Kiến thức tài chính tín dụng bạn cần biết

THẬN TRỌNG KHI VAY NÓNG
Hết sức thận trọng khi vay nóng, vay tiền nhanh…
Do nhu cầu cuộc sống, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau, đôi khi gặp phải những khó khăn hoặc sai lầm nhất định, người ta cần có một khoản tiền đột xuất để xử lý công việc, giải quyết vấn đề của họ như: kinh doanh, đầu tư, trả nợ, xây nhà, sản xuất…. và giải pháp tốt nhất là đi vay
Nhưng nhiều người khi cần tiền, vì nhiều lý do đã không đến ngân hàng vay mà chọn cách vay nóng của những người thân quen hoặc thậm chí tìm đến những người cho vay nặng lãi bên ngoài. Có người cho rằng đến ngân hàng thủ tục rườm rà, lâu nhận tiền và vay không được nhiều so với giá trị tài sản thế chấp. Vậy là họ chấp nhận vay bên ngoài bất chấp lãi suất cao và đôi khi có những điều bất chắc có thể xảy ra mà họ không thể lường trước được.
Ông chú tôi cần tiền sản xuất nông nghiệp nên cầm bằng khoán đi vay nóng 30 triệu đồng, lãi suất 10% trên tháng. Sau một thời gian không có tiền đóng lãi nên ông đành vay nóng tiếp để đóng lãi. Đến khi ông không có khả năng trả nợ, chủ nợ cho xã hội đen đến vây nhà đòi lấy đất xiết nợ thì số tiền nợ đã lên đến 120 triệu đồng.
Chị H. ở xóm tôi cần tiền trị bệnh cho chồng nên cầm bằng khoán đi vay nóng 40 triệu đồng (lãi suất 5%/tháng). Sau một thời gian trị bệnh, không có tiền đóng lãi, chị vay thêm chỗ khác 10 triệu lãi suất 10%/tháng), sau đó chị vay tiếp chỗ khác 10 triệu (lãi suất 10%/tháng). Vậy là mỗi tháng chị phải đóng lãi cho các khoản nợ là 4 triệu đồng, cuối cùng chị đành bán nhà để trả nợ.
Có nhiều trường hợp bị mất đất oan uổng vì khi vay nóng chủ nợ không chịu làm hợp đồng cầm cố đất mà làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên khi không trả được nợ thì chủ nợ lấy đất (với giá rẻ) rất dễ dàng.
Qua những câu chuyện trên, mong mọi người hãy cẩn thận khi chọn phương án vay tiền nóng, nếu không cân nhắc kỹ sẽ dễ mất khả năng chi trả và lâm cảnh vỡ nợ là điều không tránh khỏi. Và lưu ý vay luôn luôn phải có hợp đồng ký kết, đảm bảo bạn hiểu rõ các điều khoản trong hợp đồng để tránh các trường hợp xấu xảy ra. Tốt hơn hết là chúng ta nên vay những nơi đã có uy tín như: anh em, bạn bè thân thiết hoặc có thể đến các ngân hàng.
Hoặc gọi để được tư vấn và giải đáp :0915334417
________________________________________

3 ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI ĐI VAY NGÂN HÀNG:
Nhiều khách hàng khi đi vay vốn ngân hàng chỉ chú ý đến khoản vay và lãi suất ngân hàng thông báo mà không chú ý đến những chi tiết có trong hợp đồng. Từ đó mới nảy sinh những tình huống như: “bị sốc với phạt phí khi tất toán trước hạn”, “bất ngờ với lãi suất thả nổi của ngân hàng”, “phạt phí khi đóng trễ hạn quá cao”….
Do đó, khi đi vay vốn, khách hàng cần chú ý những vấn đề sau.
Tìm hiểu kỹ về các loại phí trước khi đặt bút ký hợp đồng
Mức phạt phí khi tất toán khoản vay trước hạn ở mỗi ngân hàng mỗi khác nhau tùy theo quy định của ngân hàng đó. Do đó, để tránh những rắc rối phát sinh khi tất toán khoản vay, khách hàng cần phải nắm rõ về các mức phí quy định của ngân hàng đó. Thông thường, mức phạt phí dao động từ 1%-3% trên số tiền gốc còn lại khi khách hàng tất toán.
Nắm vững các thông tin về lãi suất
Hiện nay, các ngân hàng đều sử dụng những chương trình giảm lãi suất hấp dẫn để thu hút thêm nhiều khách hàng. Tuy nhiên, hầu hết các chương trình ngân hàng đưa ra đều có giới hạn thời gian hưởng lãi suất ưu đãi, sau thời gian đó, lãi suất sẽ được thả nổi theo thị trường, cao hơn nhiều so với mức lãi suất ưu đãi trước đó.
Bên cạnh đó, nhiều khách hàng thường xuyên nhầm lẫn giữa lãi suất cố định và lãi suất giảm dần. Thực tề, khi tư vấn lãi suất cho khách hàng, nhân viên tín dụng của ngân hàng thường tư vấn theo lãi suất cố định – thấp hơn 1,75 – 2 lần so với mức lãi suất giảm dần tương đương. Điều này làm cho khách hàng có cảm giác lãi suất rất thấp khi nộp hồ sơ, nhưng đến khi ra giải ngân thì mới tá hỏa rằng “đời không như là mơ”. Để trảnh tình trạng này, khách hàng cần yêu cầu nhân viên tín dụng nói rõ là lãi suất giảm dần hay lãi suất cố định và chính xác con số hàng tháng phải trả là bao nhiêu…
Chọn thời hạn vay thích hợp với khả năng tài chính
Tùy vào điều kiện cá nhân của mỗi khách hàng (thu nhập cố định, chi tiêu trong nhà…) để chọn cho mình thời hạn vay vốn thích hợp. Thông thường, khách hàng thích vay trong thời gian ngắn để giảm số tiền lãi phải trả. Tuy nhiên, nế tính toán không hợp lý, khách hàng sẽ phải gánh những khoản phải trả hàng tháng lớn, dẫn đến mất cân đối chi tiêu trong gia đình. Ví dụ, đối với khoảng vay tín chấp Prudential, trường hợp khách hàng vay 50 triệu trả trong 4 năm thì trung bình hàng tháng phải trả khoảng 1,8triệu gốc lẫn lãi, nhưng nếu khách muốn trả trong 3 năm thì mỗi tháng phải trả đến gần 2,2 triệu tiền gốc lẫn lãi.
______________________________
MỘT QUY TRÌNH HOẠCH ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA BẠN ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC MỤC TIÊU
Bước 1: Đặt mục tiêu
Mục tiêu đề ra phải được phân tích cẩn thận từ các nguồn lợi hiện tại và tương lai của bạn để đạt được chúng.
Bước 2: Đánh giá tình trạng hiện tại của bạn
Tất cả nguồn lợi của bạn cần phải được xem xét khi lập kế hoạch tài chính, kể cả một số các chi tiết quan trọng không thuộc tình huống tài chính. Bạn cũng phải nghĩ về mức rủi ro bạn sẽ chấp nhận để đạt được mục tiêu của mình.
Bước 3: Duyệt lại thông tin
Một khi bạn đã có tất cả thông tin cần thiết để hoạch định tài chính, các nguồn lợi nên được dùng theo cách có thể giúp đạt được mục tiêu của bạn. Nguồn lợi cần thiết phải được xác định và đặt ra thời biểu, đồng thời bạn cũng nên tìm hiểu các chi phí cần thiết, chi phí phụ trội và chi xài xa xỉ trong năm tới.
Bước 4: Thực hiện kế hoạch tài chính
Mục tiêu bạn đặt ra và các nguồn lợi bạn có phải được tiến hành theo một chiến lược để đạt được các mục tiêu đó. Dù theo cách nào đi nữa thì kế hoạch tài chính phải hướng đến lâu dài và không có giải pháp nào để làm giàu nhanh chóng. Nếu bạn muốn đạt được các mục tiêu tài chính, bạn phải dành nhiều thời gian và nỗ lực để tìm hiểu các lựa chọn của mình, lựa chọn một cách thông minh và xác quyết trên những gì bạn muốn làm.
Bước 5: Tiến hành các chiến lược đã đặt ra
Như thường nói, “Lời nói đi đôi với việc làm”. Chỉ lập kế hoạch tài chính của bạn thôi thì không đủ, bạn cũng phải theo dõi xuyên suốt và thực hiện nó. Nếu bạn muốn đạt được các mục tiêu tài chính của mình, bạn phải tiến hành các chiến lược tài chính song hành với kế hoạch tài chính của bạn. Xây dựng tương lai của bạn qua thời gian và bắt đầu ngày hôm nay (hoặc hôm qua) luôn luôn là một ý tưởng tuyệt vời.
Bước 6: Theo dõi và xem lại thường xuyên
Việc tiến hành kế hoạch tài chính được theo dõi để biết hiệu quả và sự phù hợp của nó đối với mục tiêu của bạn. Khi có những biến động lớn đối với tình huống của bạn (phát sinh việc bệnh hoạn nghiêm trọng của gia đình, tăng lương), các chiến lược và mục tiêu trong kế hoạch tài chính phải được điều chỉnh để đạt mục tiêu tốt hơn.
(Theo Sách Hoạch Định Tài Chính Cơ Bản của Nhà Xuất Bản Thông Tấn)
______________________________
10 TRIỆU ĐỒNG - và kế hoạch chi tiêu cho gia đình một tháng !!!!
“Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” là câu tục ngữ mà ông bà ta vẫn thường nhắc con cháu để biết cách xoay sở để có cuộc sống tốt hơn. Trong thời đại của những “cơn bão giá” như hiện nay, chi tiêu sao cho khéo đối với một gia đình trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý chi tiêu và mức thu nhập trung bình thì vấn đề ấy thực sự không phải là bài toán dễ!
Chìa khóa cho vấn đề chi tiêu hợp lý trong gia đình không phải nằm ở việc thu nhập cao hay thấp mà nằm ở sự khéo léo sắp xếp chi tiêu một cách hợp lý. Tiết kiệm những khoản chi không cần thiết, lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch chi tiêu, viết nhật ký chi tiêu gia đình hàng ngày để tiện theo dõi cũng là những cách giúp bạn phần nào vượt qua được những khó khăn về tài chính để cuộc sống được thoải mái hơn.
Những chi phí cơ bản cho 1 tháng cho gia đình thu nhập 10 triệu/ tháng
1. Nhà ở: 1.800.000
2. Điện, nước, điện thoại, net: 500.000
3. Ăn uống hàng tháng: 3.200.000
4. Hoá mỹ phẩm: 500.000
5. Giải trí: 500.000
6. Chữa bệnh, sửa xe: 500.000
7. Sắm sửa áo quần: 1.000.000
8. Biếu cha mẹ, đám cưới: 1.000.000
9. Nuôi heo đất: 1.000.000
Tổng cộng: 10.000.000
Chúc bạn thành công !
------------------------------------------------------
Hoặc đơn giản hơn để có phương pháp tài chính hiệu quả
Hãy gặp chuyên viên tài chính của chúng tôi:
0915334417 (HOTLINE)



QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH

Những từ ngữ như "quần chúng" , "toàn dân", "người dân", "nhân dân", v.v... thường được dùng với một ý nghĩa trừu tượng, không diễn tả được một cái gì có thật
Một anh bạn hỏi tôi về "động cơ" đấu tranh của quần chúng tại Việt Nam, nhân một bài viết của Hà Sĩ Phu mà tôi chưa được đọc.
QUẦN CHÚNG NÀO ?
Những từ ngữ như "quần chúng" , "toàn dân", "người dân", "nhân dân", v.v... thường được dùng với một ý nghĩa trừu tượng, không diễn tả được một cái gì có thật trong cuộc sống . Nói đến "quần chúng" một cách chung chung là chẳng nói đến cái gì cụ thể cả. Ở trên cõi ta bà này không có thực thể nào gọi là "quần chúng", hay "nhân dân", mà chỉ có những quần chúng, với những ưu tư, bất mãn, đòi hỏi, khác nhau mà thôi. Những khẩu hiệu, tuyên bố, tuyên ngôn... nếu nhắm vào "quần chúng" hay "toàn dân", thì trong thực chấtø chẳng nhắm vào đâu hết, và sẽ chìm vào quên lãng, hay giỏi lằm thì cũng chỉ khích động được người đã làm ra chúng. Vì thế, bất cứ hành động hay lời nói nào muốn có ảnh hưởng chính trị thực sự, đều phải hướng vào một quần chúng cụ thể, tức là phải trả lời câu hỏi : quần chúng nào ?
QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH
Thay vì đặt câu hỏi : đâu là động cơ đấu tranh của "quần chúng", người ta có thể đặt vấn đề cách khác : đâu là quần chúng sẵn sàng đấu tranh, trong một xã hội nhất định, ở một thời điểm nhất định ?
Nói cách khác : trong xã hội, đâu là những quần chúng bất mãn ? Quần chúng bất mãn nào có nhiều điều kiện nhất để phát động đấu tranh ? Và đâu là những điều kiện ấy ?
Tôi chỉ xin được nêu lên ở đây vài điều kiện thông thường :
- thứ nhất : cần có một bộ phận trong quần chúng ấy sẵn sàng đứng lên đấu tranh. Thật vậy, cho dù sự bất mãn có ở mức độ cao, đại đa số thành viên của một "quần chúng bất mãn" vẫn không tự họ sẵn sàng đấu tranh. Chỉ một số nhỏ người trong quần chúng ấy sẵn sàng đứng dậy, dấn thân nhập cuộc. Ta tạm gọi họ là nhóm tiên phong. Khi nhóm tiên phong đạt được mốt số thành quả nào đó, thì dần dần càng có thêm người trong quần chúng bất mãn tham gia công cuộc đấu tranh.
- thứ hai : cần có những người có khả năng làm cho nhóm tiên phong khởi phát đấu tranh. Khả năng ấy đến từ cá tính, từ địa vị, từ quá khứ v.v... của những người này. Đối phương thường cố gắng nhận diện những người này và dùng nhiều phương pháp để "hóa giải" họ. Ta gọi họ là người khởi phát.
- thứ ba : cần có một sự lãnh đạo, về nhân sự cũng như kế hoạch, đủ để cho người khởi phát, cũng như nhóm tiên phong tin tưởng rằng hành động đấu tranh của họ có nhiều hy vọng thành công, tức là bảo đảm được thế tất thắng của một công trình trong bản chất nặng tính phiêu lưu. Lãnh đạo cũng là yếu tố cần thiết để phong trào đấu tranh lan rộng ra tới những quần chúng khác, khi chứng minh được rằng việc làm của mình có lợi cho đất nước dân tộc nói chung, và mình có khả năng đưa công việc đến nơi đến chốn, để lãnh đạo quốc gia đến một tương lai tốt đẹp.
Tức là đặt vấn đề sự tiếp theo của cuộc đấu tranh, vấn đề chính quyền, vấn đề quản lý đất nước trong điều kiện mới.


____________________________

TỰ DO?
Theo Montesquieu: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà pháp luật cho phép. Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh ta không còn được tự do nữa; vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả”.
Đây cũng là cái nền
 tảng tự do mà chính trị học phương Tây đề cao. Theo cách hiểu này chúng ta cần phải nhấn mạnh rất rõ ràng rằng - tự do không phải là tự do làm gì thì làm. Đó là một thứ "tự do được cho phép" - hay hiểu rõ hơn là "tự do trong một cái lồng [pháp luật]". Vấn đề còn lại là ai làm luật?
Trả lời được câu hỏi đó đúng đắn về bản chất kiểu như "ai chi phối giới lập pháp [Quốc hội] ?", chúng ta sẽ hiểu được bản chất của thế giới vận hành như thế nào.
Thế nên, hỡi ôi, những con người kêu gào cho tự do dân chủ, nên cố gắng hiểu đúng hơn bản chất của những gì họ đang kêu gào.
________________________________

KHÁI NIỆM 1: Hiểu như thế nào là nền kinh tế thế giới?
Theo nhiều cách, chúng ta, tất cả đều là một phần của nền kinh tế thế giới. Khi chúng ta uống cà phê được nhập khẩu vào buổi sáng, khi chúng ta sử dụng một đĩa CD được sản xuất ở nước ngoài, hay kh
i chúng ta đi ra nước ngoài để du lịch, chúng ta đang tham gia vào sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới về thương mại và tài chính quốc tế.
Và không chỉ như là một người tiêu dùng những hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài mà chúng ta là một phần của nền kinh tế thế giới. Tiền từ các quỹ hưu trí của chúng ta hay tiền hiến tặng cho đại học có được từ các khoản đầu tư toàn cầu có thể thực sự trả cho tiền hưu trí của chúng ta hay xây dựng một khu trường học mới. Đầu tư nước ngoài vào bất động sản địa phương và các công ty địa phương cũng có có thể cung cấp các công việc cần thiết cho những người bạn và gia đình của chúng ta. Thậm chí một vận động viên địa phương ký một hợp đồng chơi cho nước ngoài cũng là một phần của nền kinh tế toàn cầu mở rộng.
Nền kinh tế thế giới bao gồm tất cả những tương tác giữa những con người, các hoạt động kinh doanh, các chính phủ vượt qua các đường biên giới quốc tế, thậm chí cả những đường biên bất hợp pháp. Nếu chúng ta mua ma túy – hay chúng ta tham gia vào cuộc chiến chống lại ma túy bằng cách trợ giúp những người nông dân Mỹ Latinh bằng việc thay các cây trồng lương thực thế cho cocain – chúng ta trở thành một phần của nền kinh tế thế giới. Chúng ta cũng sử dụng nền kinh tế thế giới để đạt được những mục tiêu chính trị cụ thể hay môi trường khi chúng ta sử dụng những biện pháp trừng phạt kinh tế để chống lại những ngược đãi về nhân quyền hay ngăn chặn việc giết bất hợp pháp của những loài vật đang bị nguy hiểm trong các quốc gia khác.
Về căn bản, bất cứ thứ gì vượt qua đường biên quốc tế - cho dù là hàng hóa, dịch vụ, hay chuyển khoản các quỹ - là một phần của nền kinh tế thế giới. Nhập khẩu lương thực, xuất khẩu ôtô, đầu tư toàn cầu, thậm chí là thương mại trong dịch vụ như phim ảnh hay du lịch, đều góp phần cho mỗi hoạt động kinh tế quốc tế của quốc gia.
(77 khái niệm cơ bản về nền kinh tế thế giới [world economy])

__________________________________

Trạng chết thì Chúa băng hà - một nền kinh tế toàn cầu hóa có sự gắn bó mật thiết với nhau, bất kể thằng nào hắt hơi sổ mũi đều ảnh hưởng ngay đến thằng khác. Do vậy, trên thế giói này, cách thức tốt nhất để có thể phát triển được là phải luôn hướng tới sự ổn định của tổng thể và bất kỳ ở đâu gặp sự cố, nơi đó cả thế giới phải chung tay vào và cùng lo lắng.

___________________________________

VỀ TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TẠI BIỂN ĐÔNG
Biển Đông hay còn gọi là biển Nam Trung Hoa, hiện tình các cuộc tranh chấp lãnh thổ và trên biển này xoay quanh 3 vấn đề chủ yếu: (1) các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cạnh tranh nhau giữa các bên tuyên bố chủ quyền,
 (2) các tuyên bố chủ quyền trên biển cạnh tranh nhau giữa các bên tuyên bố chủ quyền, và (3) các tuyên bố chủ quyền quá mức trên biển được khẳng định bởi một số bên tuyên bố chủ quyền. Đối với các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cạnh tranh nhau, có 6 bên tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình ở biển Nam Trung Hoa: Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Có 3 tranh chấp chủ yếu về chủ quyền lãnh thổ. Thứ nhất là tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, quần đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng kể từ năm 1974. Thứ hai là tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Philippines về bãi cạn Scarborough. Thứ ba là tranh chấp giữa nhiều bên tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, quần đảo gồm hơn 200 cấu trúc địa lý. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các cấu trúc địa hình của quần đảo Trường Sa, trong khi đó Brunei, Malaysia và Philippines chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình nhất định trong nhóm đảo này. Việt Nam và Malaysia vẫn chưa phân định hoàn toàn các tuyên bố chủ quyền trên biển ở biển Nam Trung Hoa.

____________________________________

 SUY NGHĨ
Nhân những đề tài về tự do ngôn luận, dưới những cái lý do rất mỹ miều "văn minh", "đạo đức", "tôn trọng quyền con người", mình có vài suy nghĩ lăn tăn.
Đúng là chúng ta có quyền phê phán người khác hay một vấn đề nào đó. Hành động đó thể hiện một sự "văn minh" trong lối sống; nó là hành vi "có đạo đức" trước việc chúng ta phản biện để không tồn tại những điều "phi đạo đức"; đồng thời cũng thể hiện "quyền con người" của mình.
Tuy nhiên, trong một xã hội "văn minh", cái hình vi lôi người khác ra chửi bới, miệt thị, xúc phạm họ - dù dưới bất kỳ hình thức nào thì sao gọi là "văn minh" được nhỉ?
Tại sao ta có thể nói đến "đạo đức" khi chính cái hình thức chửi bới, miệt thị, xúc phạm người khác nó lại chính là một thứ mà có lẽ ở bất kỳ nền văn hóa nào hẳn sẽ là một thứ "không thể coi là đạo đức", còn nếu ở đâu coi điều đó là đạo đức thì có lẽ vì tri thức hạn hẹp của mình, tôi chưa biết!
Tại sao chúng ta nói đến quyền của mình một cách rất thản nhiên bằng việc "xâm phạm đến quyền của người khác"? Vậy thì đâu là những giới hạn của xã hội và "luật pháp" để làm gì? Bởi theo cái cách hiểu tự do và quyền công dân kiểu này thì "luật pháp" chính là thứ xâm phạm quyền tự do và quyền công dân nhiều nhất, cần phải đập bỏ đầu tiên.
Tôi thiết nghĩ, trước khi nói đến bất kỳ điều gì, đụng chạm đến người khác, chúng ta nên lựa chọn một cách nói làm sao cho có thể diễn ra sự đối thoại chứ không phải diễn ra sự đối đầu. Làm sao cho mục đích được thực hiện hiệu quả không phải bằng việc làm tổn thương một ai đó một cách không cần thiết. Vài suy nghĩ chủ quan cá nhân!

_____________________________________

Có nhiều bi kịch xảy ra trong một cuộc đời. Trong đó có một bi kịch ít ai để ý, đó là ta sinh ra trong một gia đình nhận nhầm giai cấp của bản thân. Thời Hiện đại có một căn bệnh về văn hóa, đó là poorphobia [tạm dịch là bệnh sợ bị coi là người thuộc tầng lớp nghèo]. Mặc cảm này rất lớn, đặc biệt lớn đối với những ai từng thuộc giai cấp công nhân sau một thế hệ vươn lên giai cấp trung lưu. Hoặc họ "tưởng" rằng mình đã thuộc thành phần trung lưu trí thức.

1. Ít ai để ý xem thứ ngôn ngữ mà ngày xưa thời mình còn nhỏ hay nghe, có những từ vốn thuộc thành phần nghèo mới hiểu. Cũng như nhiều người sau khi ra đời đi làm công, mới nghe các từ ngữ mới của giới nhà giàu dùng, mới biết. Mà ta hay lộn là "lăn lộn ra đời", "kiến thức xã hội"...
2. Sự lẫn lộn giữa căn tính "nghèo" cũng ko có gì dễ chịu lắm. Khi bạn đã bị nhận diện [identify] là nghèo. Thì trong lớp học, bạn là một thằng chó, con điếm tất yếu sẽ đi vào con đường tội phạm, hoặc bị lây các tệ nạn xã hội.
3. Về cơ bản, bọn nhà nghèo đã ko có tiền thì khó mà hiểu cảm giác bóc lột, lừa đảo về mặt tiền bạc ức chế như bọn tầng lớp trung lưu. Nơi mà chuyện bị lừa, làm việc cực với mức lương ko đủ chi trả cho lối sống trung lưu là chuyện bình thường. Người Trung Lưu mất chục chai cũng chả lên báo chí, người nghèo ít ra còn được báo chí chăm sóc để kiếm điểm tin.

https://feministsunknown.wordpress.com/2014/08/17/i-am-uberpoor/
______________________________________

Khi con người bắt đầu sống trong xã hội thì họ đã trở thành một con người chính trị rồi, vì mối quan hệ giữa người với người là mối quan hệ chính trị. Không phải là khi có nhà nước thì mới có chính trị. Thế nên, nhìn nhà nước như nhân tố chi phối chính trị là không chính xác. Trong lịch sử, bao vương triều sụp đổi, bao chế độ chính trị bị thay thế, đấy không phải là ý muốn của nhà nước mà là do ý muốn của nhân dân. Ngạn ngữ pháp có câu, người dân ra sao, chính quyền như vậy. Nhà nước, không phải từ trên trời rơi xuống mà thực sự hình thành từ ý nguyện của nhân dân. Khi không thực hiện được ý nguyện của nhân dân, sớm hay muộn thì nó cũng sụp đổ.
Nói người dân xa rời chính trị là không chính xác. Như đã nói, chính trị là bản chất của con người. Vấn đề cốt lõi vẫn là lợi ích. Họ có thể không quan tâm tới lợi ích mà bạn quan tâm, không có nghĩa là họ không có lợi ích để họ quan tâm. Họ không đấu tranh đòi cái mà bạn muốn, không có nghĩa là họ không đấu tranh. Tất cả mọi người đều có thái độ chính trị. Điều đấy là không thể chối cãi.

_____________________________________________

Cách mạng xã hội chỉ thành công khi nó bắt đầu từ mỗi cá nhân trong xã hội đó
Cách mạng đời sống chỉ thành công khi nó bắt đầu trong từng cách nhìn về các sự kiện
Thay đổi kiến trúc thượng tầng chẳng có giá trị gì khi cơ sơ hạ tầng vẫn còn nguyên gốc rễ
Thay đổi đội ngũ lãnh đạo chẳng ảnh hưởng được bao nhiêu khi nhận thức công dân vẫn dậm chân tại chỗ
...
Một xã hội dân chủ không phải là đa nguyên đa đảng mà là từng người dân ý thức được quyền làm chủ của mình.
Một công dân tự do không phải là thích làm gì thì làm mà là biết làm chủ ngôn ngữ, hành vi, và ý thức của mình trước vận mệnh đất nước.
Ý thức được quyền làm chủ của mình không phải là đứng trên pháp luật mà là ý thức được sự tự quyết của bản thân trước những luận điệu mỵ dân của những kẻ tự phong là người lãnh đạo.
Làm chủ ngôn ngữ, hành vi và ý thức của mình không phải là chạy theo lối sống tự do buông thả hoặc cảm xúc nhất thời mà là biết thoát khỏi những cái bóng của truyền thống, tập quán, giáo điều tôn giáo và quyền lực chính trị.
...
Một con người tự do thực sự là một con người không cần đến sự thừa nhận những quyền đó trong Hiến pháp hay pháp luật mà là một con người biết tạo ra những quyền đó dưới sự dẫn đường của lý trí.
Một con người trưởng thành thực sự là một con người không bị quyền lực hù dọa, không bị đám đông chi phối, không bị thói quen dẫn đường, không bị dục vọng lôi kéo, không bị sợ hãi cản trở niềm tin, không bị thành tựu quá khứ làm che mờ sự thật của thực tại.
....
Nhà tù, cảnh sát, quân đội, luận điệu mỵ dân, luật pháp, thói quen, dư luận, truyền thống, giáo điều tôn giáo... không bao giờ là những dây cương hoàn hảo. Chỉ có lương tâm mới thực sự là tòa án tối cao.
Lịch sử, công trạng, những thành tựu đã đạt được, những đóng góp trong quá khứ... không bao giờ được coi là những luận cứ khoa học cho việc chiếm hữu quyền lực. Chỉ có khả năng ứng biến trước những thay đổi của đời sống mới xứng đáng ngồi ở chiếc ghế tối cao.
...
Mỗi cá nhân, hãy tự cách mạng chính mình, đó mới là tiền đề cho cách mạng xã hội.
Mỗi con người, hãy tự giác ngộ năng lực bản thân, đó mới là tiền đề cho sự trưởng thành xã hội
Thay vì mài gươm đao giáo mác súng ống, hãy mài sắc tư duy của mình
Thay vì đòi hỏi tự do dân chủ bên ngoài, hãy học cách sống tự do dân chủ tự bên trong
Thay vì hô hào đa nguyên đa đảng, hãy học cách chấp nhận sự khác biệt giữa người với người
Điều gì đến sẽ đến, như nước đến 100 độ thì tự khắc sẽ sôi
Đừng cứ nhao nhao theo những kích động nhất thời khi mỗi chúng ta chẳng chịu dưỡng nuôi ngọn lửa từng ngày trong tim.

_________________-______________________

Chẳng biết dựa vào phương pháp khoa học nào, hay phương diện xã hội, kinh tế, văn hóa hay là gì mà đánh giá xã hội nào văn minh hơn xã hội nào? Nghe trừu tượng mà chả hình dung ra được cái gì.

Mà giờ mới hiểu được cái tư duy bọn đi rao giảng dân chủ, nhân quyền. Thực ra cũng chỉ là tư duy tiểu nông nhưng muốn hóa rồng, phượng thì làm sao không chuốc lấy thất bại được. Không thích đọc sách, thích lên facebook add nhiều friends bàn chính trị chém gió , cách mạng với họ là cảm hứng nhất thời chứ không phải là sự chuẩn bị cặn kẽ có cương lĩnh. Tư duy bọn này bị lên đồng cả lũ nên chả làm nên cơm chào, trò trống gì sất. Để ý thì cũng chẳng có bài viết nào phân tích chính trị hay cả, ngoài là đi rao giảng dân chủ, nhân quyền bằng một mớ lý thuyết suông thế thì làm sao mà làm được gì đây, chỉ khoe khoang ở bên Mỹ có dân chủ nhân quyền ra thì chả có tư duy chính trị cách mạng gì cả.

Chẳng qua do bất mãn xã hội đương thời mà kích động nên học đòi làm cách mạng, cứ phải phá hủy hết mọi thứ hiện thời trước rồi sẽ bàn, ngay từ đầu đã không muốn mở to mắt mà chỉ muốn nhắm mắt manh động trong mù quáng thì làm sao mà thất bại,các bạn bấy lâu đâu luôn như con ''Qụa'' trong tác phẩm Trại Súc Vật luôn ra rả về miền đất hứa trong mơ trong lại không có nhìn nhận khách quan về đương thời, lại không có ý niệm gì về một xã hội, nhà nước lý tưởng đang hướng tới ngoài luôn miệng nói dân chủ, nhân quyền, khi dân Nam còn đang bận độn trước bữa cơm hàng ngày thi lại toàn nói thứ đâu đâu.Sở  dĩ dẫn đến sự thất bại là do người lãnh đạo bất học, vô thuật, không có cái nhìn khách quan thời thế, chỉ biết sử dụng yêu thuật, giả thần, giả quỷ mê hoặc dân chúng đi theo nhưng lại không biết hướng một nhà nước lý tưởng, một xã hội lý tưởng.

_________________________________

Truyền thống toàn dân đánh giặc có từ thời nhà Trần, toàn dân vi binh, toàn tài vi dụng, toàn địa vi phòng, toàn cuốc vi chính là cái tư tưởng chiến tranh nhân dân xuyên suốt, đầu tiên của đất nước ta. Mỗi người dân là một chiến sĩ. Mỗi ngôi nhà là một pháo đài. Mỗi mảnh ruộng, cánh rừng là một chiến trường. Mỗi chiến thắng là một vết son chói lọi viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc 4000 năm kiêu hãnh dáng rồng đất. Bọn phản động đừng có mơ