Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Vua Gia Long

Gia Long (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎 hoặc 阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Về khí chất ,Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, 17 tuổi Gia Long đã cầm đầu binh tướng, nắm vững lòng dân, bốn phen vinh nhục Gia Định, nhiều tao siêu bạt, trôi dạt cả vào Tiêm La, nương nhờ người Thái, cólúc phải hy sinh cả tính mạng mà đánh dẹp giặc Miên, Mã Lai cho Tiêm để mua thiện cảm của người. Suốt 25 năm xông xáo khắp Đồng Nai, Thuận Hóa, vượt non trèo biển trong vòng khói lửa mịt mùng mà không bao giờ lui bước, con người ấy thật là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể không vỗ tay cho Thế Tổ nhà Nguyễn.
Về ngoại giao, thời của vua Gia Long, ông cũng không sinh ra chuyện cấm đạo. Giết hại người giáo sĩ, tàn sát giáo dân hay bế quan tỏa cảng như đời con cháu. Trái lại người Pháp vào buôn bán, ông cũng lấy làm rộng rãi, không bắt bẻ để tỏ cái lòng cảm ơn ông Bá Đa Lộc cùng chiến hữu 20 người với súng đạn, thuốc pháo trên chiến hạm Medusa đã từ Pháp quốc đến giúp sức dù không được vua Louis XVI chấp thuận.
Về chính trị, khi sức cùng lực tận, Gia Long đã cho giám mục Bá Đa Lộc đem con đi cầu cứu nước Pháp rồi luôn luôn giao thiệp khéo léo với các nước lân bang để lấy ngoại viện mà cả các nước Miên, Tiêm, Lào thường đem quân qua đánh Tây Sơn giúp mình. Tuy mang người ngoài về đánh người nhà nghe là không đẹp lắm. Nhưng khi sự nghiệp đã thành, ngôi quốc chủ đã vững, Gia Long thay đổi thái độ, kẻ cả với Tiêm, đặt Miên và Lào vào vòng lệ thuộc. Ngoại giao đến như thế thì thật là khéo léo, tiến thoái kinh quyền mau lẹ chắc cũng chỉ đến vậy mà thôi.
Hiềm một nỗi khi xong việc, ngài không bảo toàn cho công thần mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt mà bắt tội rồi đem giết hại. Thật là đáng tiếc mà không thể không nhớ lại việc vua Hán Cao Tổ năm xưa.
Và nữa là việc dời đô về Phú Xuân (Huế) cũng là một việc rất dở, đó là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít, lại bất lợi cả về thủy bộ nếu xét về thủy bộ. Trái lại Bắc Hà (Hà Nội) dân đông, ruộng lắm, anh hùng đời nào cũng sẵn sàng chống ngoại xâm như trúc chẻ ngói tan mà lại bỏ thật uổng.
Nhưng rộng lòng mà xét đoán, vua Gia Long là một ông vua tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời chống nhau với Tây Sơn, trải qua bao hoạn nạn mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm khôi phục. Ngài có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn là đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy mà không những thống nhất được nghiệp cũ mà còn sửa sang được mọi việc làm cho nước ta thành một nước cường đại, xưa nay chưa từng thấy vậy.

Tướng Trần Độ khuyên Tố Hữu phải xin lỗi anh em Nhân văn- Giai phẩm

Tướng Trần Độ khuyên Tố Hữu phải xin lỗi anh em Nhân văn- Giai phẩm, nhưng…không được.
Vào thập kỷ cuối 1950, khi đám Nhân văn Giai phẩm bị đánh tới tấp không còn một mảnh giáp che thân, thơ Tố Hữu bỗng nổi lên như một hiện tượng lạ trong nền văn hoá nước nhà. Sừng sững, xum xuê, tươi tốt, trường tồn – không tác giả nào bằng.
Thập kỷ 80 trôi nhanh. Sau vụ đổi tiền khiến bao gia đình khuynh gia bại sản, dở mếu dở cười, vì đồng tiền mất giá cả trăm lần, là lời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh hô hào “cởi trói” cho cánh Nhân văn Giai phẩm. Một loạt tác phẩm bị đánh được đăng tải lại, hầu như không ai còn đọc Tố Hữu nữa. Các đề thi của các trường đại học, các sách do các nhà xuất bản in cũng vắng dần đề tài Tố Hữu. Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, hễ nói đến Tố Hữu là độc giả nhún vai: Tố Hữu ư? Hết thời rồi, ông ta vốn chỉ giỏi tụng ca thôi, thời buổi này ai thèm tụng ca theo ông ấy nữa.
Không ít người bặm trợn, huỵch toẹt luôn : “Ôi giời ! Chẳng qua chỉ là một kẻ xu thời, nịnh bợ. Sợ cảnh trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng nên cố tình đánh đu với chính trị, triệt hạ anh em, tố cho họ cái tội “Nhân văn Giai phẩm”.
Nếu không, thứ hoa lòe loẹt, không hương sắc của ông ta có nở rộ giữa đời được không khi so với những bài “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán, “Nhất định thắng” của Trần Dần …? Còn tiếng tăm, dẫu không phải mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre cũng không thể là chuông đồng, chuông khánh mang đặt trong nhà thờ được, vậy thì đua làm sao với các nhà thơ cùng thời khác?
Tâm linh kẻ tiểu nhân đã mách bảo ông ta điều đó nên trong cơn sợ hãi, ông ta tung đòn đánh trước, đánh rất trúng đích bằng cây gậy chỉ huy của Đảng để vô hiệu hóa một loạt nhà thơ danh tiếng …, chỉ còn mình ông ta độc diễn, từ vi mô đến vĩ mô, gi gỉ gì gi cái gì cũng diễn … Các đảng viên trong trung ương Đảng và chính phủ bỗng dưng thấy có một anh khùng, sẵn sàng bỏ cuộc đời để theo mình, ca ngợi mình, liền ấn thành tượng luôn chứ thơ Tố Hữu nào có ấn tượng gì ?” .
Hỏi chuyện Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần – những tài hoa tinh anh của đất nước bị nhét chung vào rọ “nhân văn giai phẩm”, cho lên ô tô bịt bùng với còng số 8 thả khắp nơi, từ nhà tù, trại cải tạo, trang trại nơi đồng không mông quạnh, vùng thôn quê hẻo lánh, heo hút v.v … Ba mươi năm sau được thả ra, thì sức đã tàn, lực đã kiệt, tài năng hư hao, lụi tàn…Tất cả cùng chung nhận định: Tố Hữu chỉ là một nhà thơ trung bình, suốt đời chỉ nói có một ý, nghĩ có một chiều và chỉ làm một việc duy nhất là tôn vinh Đảng cộng sản Việt Nam để một cây bút tầm tầm như hắn còn được hít bã, ăn tàn dài dài. (…)
Khi ấy Tố Hữu vẫn sống nhăn, kiên quyết không nghe theo lời khuyên của tướng Trần Độ là xin lỗi anh em Nhân văn- Giai phẩm đã bị hàm oan bao năm trước đó, dù biết hổ chết để da, người ta chết để tiếng. Ngày Tố Hữu chết, so sánh với cái chết của lão tướng Trần Độ, cựu chiến binh Hoàng Giáp viết:
Người đời vẫn gọi ông
là tướng công Trần Độ
Người đời lại gọi hắn
là cho – thêm sắc vào*
Lễ tang ông không mời
dân vẫn ào ạt tới
Lễ tang hắn cử người
mà vắng ngơ vắng ngắt
Tài liệu ông, chúng bắt
Dân phát tận mây xanh
Tài liệu hắn, chúng đọc
Dân sửa lại chức danh…
Cay đắng nhất là bài thơ cuối cùng Tố Hữu gửi lại cho đời, bị cánh nhà thơ nhà báo sửa lại bằng cách thêm một dấu sắc vào hai chữ “cho” ở câu cuối rồi rỉ tai nhau lan khắp hội, ngoài phường:
Xin gửi bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro,
Thơ gởi cuộc đời, tro bón đất
Sống là CHO và chết cũng là CHO (!)
Quả là chẳng còn gì để nói về con người: sống như chết, anh hèn đốn mạt này, xác đáng bằng câu thơ đã được thêm dấu sắc trên.

Nguồn: http://www.greenspun.com

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

HÃY ĐỌC HẾT BÀI VIẾT NÀY TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN


HÃY ĐỌC HẾT BÀI VIẾT NÀY TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN

Ai trong chúng ta cũng mong muốn có một cuộc sống thành công và hạnh phúc, nhưng điều đó không phải tự nhiên mà có được. Bạn hãy luôn tâm niệm và làm theo 20 điều sau để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

1. Bạn sinh ra không phải để làm hài lòng tất cả mọi người. Vậy nên đừng quá bận tâm tới những gì người khác nói về bạn, hãy cứ là chính mình.

2. Nếu bạn muốn đạt được những thứ bạn chưa từng có, bạn phải làm những điều bạn chưa từng làm.

3. Nếu bạn tin rằng những đường chỉ tay nói lên số phận của bạn thì bạn cũng đừng quên rằng, chúng cũng chỉ nằm trong lòng bàn tay bạn mà thôi.

4. Cuộc sống luôn cho bạn cơ hội thứ hai. Nó được gọi là ngày mai.

5. Toàn bộ đại dương cũng không thể làm đắm được một con tàu trừ khi nước ngập vào trong. Tương tự, toàn bộ những gì tiêu cực trên đời cũng không thể nào hạ gục được bạn trừ khi bạn cho phép nó thấm vào người mình.

6. Hãy học cách trân trọng những gì bạn đang có trước khi thời gian dạy cho bạn biết trân trọng những gì bạn đã từng có.

7. Chính trải nghiệm chứ không phải thứ gì khác, là thứ làm nên con người bạn.

8. Hãy ở bên người làm cho bạn cười, ngay cả khi bạn mệt mỏi, không vui.

9. Đừng vội vàng từ bỏ người mà bạn yêu thương, bởi tình yêu đâu phải ai cũng may mắn tìm được nhau.

10. "Hãy đếm số tuổi của bạn bằng số bạn bè, chứ không phải số năm. Hãy đếm cuộc đời của bạn bằng nụ cười chứ không phải những giọt nước mắt." - John Lennon

11. Không có ai hoàn hảo cả. Đó là lý do tại sao bút chì có cục gôm.

12. Thứ đắt giá nhất trên đời này là lòng tin. Để có được có khi cần rất nhiều thời gian, nhưng để đánh mất thì chỉ cần vài giây ngắn ngủi.

13. Một cái đầu đầy nỗi sợ hãi sẽ không còn chỗ trống cho những ước mơ.

14. Tiền xu luôn gây ra tiếng động, nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Bởi vậy, khi giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình khiêm tốn và ít nói đi.

15. Đôi khi bạn phải tự mình đứng dậy và bước tiếp, bởi không ai làm điều đó thay bạn đâu.

16. "Tôi không biết chìa khóa của thành công là gì, nhưng tôi biết chìa khóa của thất bại là cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người." - Bill Cosby

17. "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng." - Trịnh Công Sơn [Để gió cuốn đi]

18. Mỗi ngày hãy sống như thể đó là ngày cuối cùng của bạn.

19. Khóc cũng sống, cười cũng sống. Tại sao ta không chọn nụ cười để sống?

20. Thứ quý giá nhất đối với mỗi người không phải là tiền bạc hay địa vị,... mà chính là sức khỏe. Bởi vậy, hãy quan tâm tới sức khỏe trước khi quá muộn bạn nhé!
___________________________________

Tại sao thể thao Việt Nam lại kém thành tích?Bởi vì thế giới không bao giờ tổ chức những môn thế mạnh của Việt Nam như: Cưỡi ngựa xem hoa, Qua cầu rút ván, Đè đầu cưỡi cổ, ném đá giấu tay, Ăn cháo đá bát, Thọc gậy bánh xe, Gắp lửa bỏ tay người , Ngậm máu phun người, Thừa gió bẻ măng, Thừa nước đục thả câu, Tát nước theo mưa, Theo đóm ăn tàn, Theo voi ăn bã mía, Bắt cá hai tay, Lên voi xuống chó...
St
____________________________________


Nhà triết học Heraclitus nói:

"Nếu thỏa mãn vật chất là hạnh phúc thì ta có thể xem con bò là hạnh phúc..."

Karl Marx:

"Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất..."

"Chỉ có cầm thú mới quay mặt trước nỗi đau của đồng loại, mà chăm lo cho hạnh phúc riêng của mình..."


“Nếu như mọi hạnh phúc trên đời đều đặt trên nền tảng của sự công bằng, thì cuộc sống chẳng còn gì là thú vị và để chúng ta phải cố gắng nữa!”

Bertrand Russell
"Nếu một người bắt đầu bằng một sự chắc chắn, anh ta sẽ kết thúc trong sự hoài nghi; nhưng nếu bắt đầu bằng nội dung nghi ngờ, anh ta sẽ kết thúc trong sự chắn chắn."

—Francis Bacon (1605) The Advancement of Learning, Book 1, v, 8

Nhà triết học vĩ đại Plato từng nói điều này: "Một trong những sự trừng phạt cho việc từ chối tham gia vào các vấn đề chính trị là quý vị sẽ đi tới một kết cục bị cai trị bởi những kẻ hạ đẳng hơn mình".

Khởi Nghiệp : "hãy phát triển với tư duy dài và thói quen sử dụng tài nguyên tối thiểu, hiệu qủa tối đa"! Nước trong quá thì không có cá. Người tốt quá thì chẳng có gì

Ai học về kinh tế và kinh doanh sản xuất chắc đều biết: Một sản phẩm đưa ra thị trường cấu thành giá thường có 3 yếu tố: Nguyên vật liệu; Nhân công; Vận chuyển.

Chuyên gia kinh tế Bùi Văn nói rằng thế hệ của ông đã hút dầu, khai thác hết than, đánh bắt hết cá và đã chặt rừng xuất khẩu sang Nhật nhưng tự hào về điều đó vì đã để lại cho thế hệ trẻ con đường duy nhất là sự học mà không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên.

Chỉ khi nào cái cây cuối cùng đã chết , dòng sông cuối cùng đã bị ô nhiễm và con cá cuối cùng bị bắt ,chúng ta mới nhận ra tiền không ăn được .
____________________________________

KHÔNG CÓ CÔNG VIỆC NÀO TẦM THƯỜNG, NHỎ BÉ. Trong công việc, không có việc gì là nhỏ bé. Mọi việc điều đáng để ta làm, học hỏi. Cho dù đó là công việc bình thường nhất, ta cũng không thể làm qua loa cho xong chuyện hay xem thường và lười nhác. Ẩn giấu đằng sau những công việc tầm thường, rất có thể là những cơ hội vô cùng đặc biệt.

Không có việc nào là việc nhỏ Một trong những lý do khiến những người khởi đầu tại cùng một vạch xuất phát, cùng làm những công việc bình thường nhỏ bé như ta dần được thăng tiến lên những vị trí cao hơn là bởi họ chưa bao giờ xem những việc mình làm là bình thường, vặt vãnh. Trái lại, họ luôn nhớ rằng: việc lớn được gộp thành từ vô số việc nhỏ. Trên thực tế không có công việc gì tầm thường, nhỏ bé. Nhiều người không muốn làm những việc cụ thể, không nhìn nhận công việc bình thường, nhỏ bé một cách nghiêm túc mà cứ nghĩ rằng: “Ông trời sẽ để ta lo việc lớn”. Họ đâu hay rằng làm tốt những công việc bình thường chẳng hề dễ dàng chút nào. Lúc mới khởi nghiệp, Tom Brand chỉ là nhân viên tạp vụ trong một xưởng chế tạo của Công ty xe hơi Ford của Mỹ. Chính nhờ làm tốt những công việc bình thường này, anh đã trưởng thành và cuối cùng trở thành người thợ trẻ lành nghề nhất trong số những trưởng kíp thợ của Công ty xe hơi Ford. Tom vào làm trong xưởng từ năm 20 tuổi. Ngay từ lúc mới bắt đầu, Tom đã tìm hiểu rất kỹ về tình hình sản xuất của xưởng. Anh biết để có được một chiếc xe hơi hoàn chỉnh, mọi bộ phận linh kiện xe rời rạc ban đầu cần phải trải qua các công đoạn lắp ráp khác nhau ở 13 bộ phận với những công việc đặc thù riêng. Khi đó, Tom đã nghĩ: Nếu quyết định theo nghề chế tạo xe hơi suốt đời, mình cần phải nắm được toàn bộ quy trình lắp ráp chế tạo. Vậy nên, anh đã chủ động đề nghị được vào làm ở vị trí nhân viên thấp nhất trong nhà xưởng: nhân viên tạp vụ. Sau nửa năm làm nhân viên tạp vụ, Tom xin chuyển đến làm việc ở bộ phận đệm ghế xe hơi và nhanh chóng nắm vững kỹ năng cũng như kiến thức của công việc này. Tiếp đó, Tom xin chuyển đến làm ở các bộ phận hàn điểm, thân xe, phun sơn rồi sang bộ phận tiện. Chưa đầy 5 năm, Tom gần như đã làm qua mọi công việc ở mọi bộ phận trong nhà xưởng. Cuối cùng, Tom quyết định xin chuyển đến làm ở bộ phận dây chuyền lắp ráp. Khi chắc chắn mình đã có đủ tố chất của người làm công tác quản lý, Tom quyết định thể hiện toàn bộ tài năng, anh đã chứng tỏ được khả năng của bản thân ở bộ phận dây chuyền lắp ráp. Nhờ từng làm việc qua các bộ phận, Tom không chỉ nắm được cách chế tạo từng loại linh kiện mà còn biết cái nào đạt chất lượng, cái nào chưa. Kiến thức quý giá đó giúp anh rất nhiều trong lúc làm việc ở bộ phận dây chuyền lắp ráp. Chẳng mấy chốc, Tom đã trở thành nhân viên xuất sắc nhất ở đây. Anh nhanh chóng được thăng chức lên làm trưởng kíp thợ, rồi dần dà trở thành người đứng đầu các trưởng kíp thợ. Nếu mọi việc thuận lợi, Tom sẽ được thăng chức lên làm giám đốc trong một hai năm tới. Cơ hội lớn đến từ những việc nhỏ Trong công việc, không việc gì tầm thường, nhỏ bé đến mức có thể bị gạt bỏ; không chi tiết nào vụn vặt đến mức có thể được phép bỏ qua. Cùng làm các công việc bình thường, nhỏ bé song sự thể hiện và thành tích mỗi người gặt hái được lại không hề giống nhau. Người xem nhẹ việc nhỏ thường là người tiêu cực, chỉ làm việc cho qua thời gian; còn người tích cực làm việc lại luôn chuyên tâm với công việc, xem đây là cơ hội rèn luyện bản thân, tìm hiểu sâu hơn về cách làm việc của công ty, củng cố bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ, làm quen với công việc, đồng thời tận dụng cơ hội làm việc vặt để trải nghiệm, phát triển năng lực tư duy và năng lực phán đoán của bản thân. Việc lớn được hợp thành từ vô số việc nhỏ, người xem nhẹ việc nhỏ khó có thể làm được việc lớn. Thái độ khi làm những việc nhỏ là chiếc gương phản chiếu cho ta thấy các tố chất tổng hợp, đặc điểm khác biệt của mỗi cá nhân. “Thấy ít hiểu nhiều”, “thấy rừng chứ không chỉ từng cái cây”, hãy chinh phục sự tín nhiệm, công nhận của mọi người bắt đầu từ việc nhỏ, rồi bạn sẽ có cơ hội làm việc lớn. Vậy nên, dù bạn đang trong giai đoạn thử việc hay công việc bạn làm chỉ là việc vặt, hãy đặt toàn bộ tâm trí vào đó, hoàn thành thật tốt công việc, như vậy bạn sẽ trưởng thành và giành được cơ hội tăng lương, thăng chức. Nếu một nhân viên bán hàng muốn trở thành giám đốc nghiệp vụ thì trước hết anh ta cần hoàn thành thật tốt công việc của mình trong vai trò là một nhân viên bán hàng, đạt được những thành tích xuất sắc nhất. Trong công việc, không có việc gì là việc nhỏ. Mọi việc đều đáng để ta làm, học hỏi. Cho dù đó là công việc bình thường nhất, ta cũng không thể làm qua loa cho xong chuyện hay xem thường và biếng nhác. Trái lại, ta cần làm việc một cách hăng hái, nhiệt tình. Hãy để ý xem làm cách nào ta mới có thể làm việc hiệu quả và chất lượng nhất, rồi toàn tâm toàn ý, nỗ lực cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, tạo cho mình thói quen làm việc tích cực. Một trong những lý do khiến những người khởi đầu tại cùng một vạch xuất phát, cùng làm những công việc bình thường nhỏ bé như ta dần được thăng tiến lên những vị trí cao hơn là bởi họ chưa bao giờ xem những việc mình làm là bình thường, vặt vãnh. Trái lại, họ luôn nhớ rằng: việc lớn được gộp thành từ vô số việc nhỏ.
_________________________

  Đánh giá theo khuynh hướng tính cách để chọn nghề nghiệp cho phù hợp, có nghĩa đánh giá ưu khuyết điểm của một người và xem tính cách của người đó có hợp với nghề nghiệp của anh ta không? Có một câu danh ngôn: Suy nghĩ quyết định hành vi, hành vi quyết định thói quen, thói quen quyết định tính cách, tính cách quyết định số phận. Cái gọi là số phận thực quyết định bằng tính cách của người đó.

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

Học,học nữa,học mãi

 "Học,học nữa,học mãi".
Trong cuộc sống này, tất cả mọi thứ đều phải thông qua sự ham mê, tìm hiểu, nhận thức thì nó mới trở thành một định lí, một khái niệm hay nói một cách khác là kiến thức. Từ xưa đến nay, con người qua lao động sản xuất đã tiếp nhận được bao nhiêu điều thú vị trên thế giới. Đó cũng là một cách tích luỹ kiến thức. Chẳng những vậy, những kiến thức được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng rất nhiều hình thức như truyền miệng hay sách vở v.v... Vai trò của việc học tập đã được khẳng định từ xa xưa. Chính vì vậy, Lê-nin, một vị lãnh tụ vĩ đại đã có một câu nói rất nổi tiếng. Đó chính là :”Học, học nữa, học mãi”.
Câu nói trên chính là một lời khuyên, một định hướng đúng đắn trong cuộc sống. Có học mới có được kiến thức, có được kiến thức mới có thể có hành trang để bước vào đời. Cái “học” ở đây không đơn thuần là tiếp nhận kiến thức khoa học mà nó còn là tiếp nhận kiến thức đạo đức, lí lẽ, biết phân biệt tốt xấu. Nó còn thể hiện cần học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi phương diện, từ thầy cô đến bạn bè, từ người lớn tới trẻ nhỏ, bất kì ai cũng đều có những ưu điểm. Chúng ta hãy biết tiếp nhận nó hoàn thiện nó để trở thành ưu điểm của riêng ta. Trong cuộc sống, đạo đức giúp ta có thể giao tiếp chan hoà với mọi người, biết sử dụng ngôn từ nhuần nhuyễn, thành thạo, đầy sức gợi cảm để chiếm được tình cảm mọi người xung quanh. Để đạt được điều đó chúng ta cũng cần sự hỗ trợ về kiến thức khoa học, xã hội. Kiến thức này giúp chúng ta có thể vận dụng trong cuộc sống, từ chữa bệnh đến tính toán, từ xây dựng đến làm mộc. Mỗi loại kiến thức đều giúp ta mở rộng hiểu biết về một lĩnh vực riêng. Như kiến thức toán học giúp chúng ta tính toán dễ dàng, kiến thức văn học giúp ta có thể bay bổng, lãng mạn trong những vần thơ câu văn hay uyển chuyển trong cách dùng từ, kiến thức địa lí giúp chúng ta biết thêm về những miền đất mới, con người mới. Còn rất nhiều lĩnh vực khác nữa với nhiều điều thú vị, hấp dẫn. Dường như hai loại kiến thức này đều bổ trợ tương xứng cho nhau. Chính vì vậy chúng ta cần tiếp nhận kiến thức trong mọi lúc. Trong mỗi một câu chuyện hay mỗi một lời nói đều ẩn chứa một phần của kiến thức, chúng ta chỉ cần biết hợp những điều mà mắt thấy tai nghe, sự hiểu biết của chúng ta lại thì sẽ có được một khái niệm, một chân lí, một định lí nào đó rồi hãy khắc ghi lại, sẽ có lúc chúng ta cần vận dụng đến. Chính những vốn kiến thức từ bé, tu luyện bồi dưỡng dần cùng thời gian, nó sẽ kết lại thành một khối kiến thức giúp ích cho ta về hiện tại và cả về sau, nó giúp chúng có thể thành đạt trong cuộc sống. Một người nổi tiếng có câu rằng: “Kẻ dốt nát không có nghĩa là kẻ kém trí thông minh mà là kẻ không biết học hỏi, tìm tòi, khám phá, và sẽ mãi là kẻ không có tự do vì trước mặt anh ta mãi luôn là một thế giới xa lạ”.Chính vì vậy, chúng ta cần phải hiểu rõ được thế nào là học, học nữa, và học mãi. Đó là những dẫn chứng khá rõ nét phần nào đã thấy được ích lợi, mục đích, giá trị của việc học. Trong thời đại khoa học bây giờ thì nhu cầu về học tập là rất cấp thiết. Và để theo kịp xã hội và cách thích nghi với đời sống văn minh thì lại càng cấp thiết hơn. Cứ mỗi giờ trôi qua, mỗi ngày trôi qua thì lượng kiến thức lại càng nhiều, do đó chúng ta cần phải luôn luôn học. Đó chính là ý nghĩa của ý thứ hai “học nữa”. Còn “học mãi”. Thế giới kiến thức là rất rộng lớn, để tiếp thu, tìm hiểu được hết mọi kiến thức thì chắc hẳn là không thể, thậm chí cả đời người cũng không xong. “Mãi” ở đây là mãi mãi, là liên tục, không dứt. Câu nói trên của Lê-nin-sử dụng cả biện pháp tăng cấp để thể hiện được giá trị việc học tập. Hơn thế nữa, con người đang sống trong kỉ nguyên mới, bên cạnh những quyền lợi khác thì “học tập” cũng là một quyền lợi, đồng thời cũng là nghĩa vụ của mỗi người dân, là mục tiêu, yêu cầu mà bất cứ chính quyền nào cũng đặt ra đầu tiên và quan tâm hàng đầu. Và nhiệm vụ của chúng ta là học tập để phục vụ đất nước, vì tương lai của mình gắn liền với tương lai toàn dân tộc nói chung. Một người bác sĩ muốn chữa bệnh cũng phải học tập, kể cả kinh nghiệm lẫn kiến thức. Một người nông dân muốn cày cấy cũng phải học hỏi cách thức từ những người đi trước, có thể là không qua sách vở. Nói cho cùng thì trình độ văn hoá của mỗi con người là rất quan trọng trong cuộc sống và học tập – một lí tưởng cao đẹp lại là nền tảng cho mục tiêu quan trọng ấy. Cuộc sống sẽ luôn thay đổi theo những chiều hướng tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn nếu mỗi con người biết học tập một cách đúng đắn. Như Bác Hồ, một con người gắn liền với nền độc lập nước ta và cũng là con người gần gũi với chúng ta nhất cũng khẳng định rằng học tập là nền tảng cho một đất nước hùng mạnh. Tuy vậy, hiện nay vẫn có một số người vẫn chưa thấm thía được ích lợi từ học tập, họ vẫn cho rằng học chỉ là phương tiện của nhiều mục đích khác nhau. Có người cho là vì tiền, có người lại cho là vì chức quyền. Nhưng không, mục đích của việc học tập là đổi mới con người, xã hội bởi kiến thức, khoác lên cho dân tộc, thế giới một bộ áo văn minh, hiện đại mà mỗi chúng ta chính la người được hưởng thành quả ấy.
Thấm hiểu những ý nghĩa sâu sắc trong câu nói nổi tiếng của Lê-nin ấy cũng chính là đã nhận ra được chân lí của học tập. Chúng ta cần biết học hỏi cho đúng, cho phải, biết chọn lựa mà học, hãy biết chắt lọc những gì tinh hoa nhất mà cảm nhận để những tiêu cực sẽ bị thay thế, tinh cầu này sẽ sống trong văn minh, và mỗi chúng ta sẽ là con người lịch sự, là con người có ích cho xã hội hay chính là tâm điểm sáng suốt trong mọi thời đại.
-------------------------------------------
Không có sách nào hay đối với người dốt, không có sách nào dở đối với người khôn.
-------------------------------------------
Đọc sách mà tin hết vào sách thì thà đừng đọc sách còn hơn.

SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VIỆT NAM (Phần 2)

SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VIỆT NAM (Phần 2): Hệ quả của Sở hữu chéo - Lợi bất cập hại

[Economic Corner - #WEGREEN

Wegreen xin dẫn lại một câu chuyện xảy ra cách đây hơn 1 năm, sự việc mà đã dẫn đến một trong những cơn chấn động khủng khiếp nhất trên thị trường tài chính Việt Nam nhiều năm trở lại đây. Một vị lãnh đạo Ngân hàng (NH) đã lợi dụng sự phát triển của thị trường tài chính và những kẽ hởtrong luật pháp để thực hiện thao túng nhiều nhà băng, trong đó có cả NH Á Châu ACB mà ông sáng lập và trục lợi trong một thời gian dài trước khi bị bắt. Ông ta chính là Nguyễn Đức Kiên, hay Bầu Kiên. Đây được xem là câu chuyện điển hình về sở hữu chéo và lợi ích cục bộ. Trước đó, Kiên đã thành lập một loạt các công ty đầu tư, và sử dụng các công ty này cùng vị trí lãnh đạo trong NH ACB để thực hiện một loạt các thương vụ mua bán cổ phiếu của nhiều NH, trong đó có nhiều thương vụ Kiên dùng tiền vay NH với tài sản thế chấp là cổ phiếu NH để mua thêm cổ phiếu các NH. Cứ như vậy, thế lực của bầu Kiên trong ngành NH ngày một lớn và ông ta thực hiện thêm nhiều hành vi sai trái khác gây thiệt hại lớn cho các NH và đem về cho nhóm lợi ích của Kiên những món tiền kếch xù. Tuy nhiên, theo cơ quan điều tra, Kiên sẽ không bị xử lý một số hành vi thao túng NH và sở hữu chéo cổ phiếu do những điều này “chưa được Pháp luật quy định”. Sau đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu những hệ quả có thể xảy đến trong một hệ thống NH tồn tại sở hữu chéo.

1. NHỮNG HỆ QUẢ TÍCH CỰC
Không thể phủ nhận 1 điều là Sở hữu chéo đem lại nhiều hệ quả tích cực cho NH và Doanh nghiệp (DN). Đó là:
- Sở hữu của Ngân hàng nhà nước (NHNN) trong các Ngân hàng thương mại (NHTM) giúp làm tăng sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với những NHTM này, giảm thiểu tính rủi ro trong các quyết định và ngăn ngừa hoạt động tiêu cực của các nhóm lợi ích khác trong NHTM.
- Sở hữu của các Tổ chức tài chính nước ngoài trong NHTM, đặc biệt là với tư cách cổ đông chiến lược sẽ giúp mở rộng quy mô, mở rộng thị trường của Ngân hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, chuyên nghiệp hơn trong quản trị.
- Sở hữu chéo giữa NHTM với DN góp phần làm tăng hiểu biết giữa Ngân hàng với DN, đồng thời hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các DN, qua đó nâng cao chất lượng của hoạt động kinh doanh thông qua sự hợp tác bổ trợ lẫn nhau.

Nhìn chung, NH có thể tạo ra giá trị gia tăng cao nếu như biết sử dụng sở hữu chéo một cách thích hợp trong chuỗi giá trị của mình. Tuy nhiên, những mặt tích cực của sở hữu chéo cũng chỉ như phần nổi của tảng băng.

2. NHỮNG HỆ LỤY TIÊU CỰC
Trong vài năm trở lại đây, dưới tác động của suy thoái kinh tế và sự yếu kém trong quản trị, hệ thống NH ngày càng bộc lộ ra nhiều trục trặc và bất cập, trong đó có nhiều vấn đề rất nghiêm trọng như sở hữu chéo, nợ xấu, nhóm lợi ích, rủi ro đạo đức,… Đặc biệt, sở hữu chéo, một trong những vấn đề khó nhận biết và kiểm soát nhất, lại chính là một phần căn nguyên của những hệ lụy tiêu cực khác. Thay vì mục tiêu nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ thì nhiều NHTM đã dùng sở hữu chéo như một công cụ để lách các quy định đảm bảo an toàn hoạt động do NHNN ban hành.
- Một là tình trạng TĂNG VỐN ẢO để vượt qua các quy định về vốn.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, các NHTM một mặt phải chịu áp lực tăng vốn từ Nghị định 141/2006/NĐ-CP của NHNN, một mặt phải đối diện với áp lực cạnh tranh giữa các NH với nhau khi mà ngành dịch vụ tài chính phát triển mạnh. Vì thế mà thông qua sở hữu chéo, các cổ đông NH A có thể vay tiền NH B để góp vốn vào chính NH của mình và ngược lại, việc này được thực hiện theo một thỏa thuận ngầm giữa hai bên. Và kết quả là, cả 2 NH A và B đều có đủ số vốn mình cần, nhưng phần vốn tăng đó chỉ là ảo. Thực tế là nhiều NH đã thực hiện tăng vốn với một tốc độ nhanh đáng ngạc nhiên, và để rồi sau khi hoàn thành được mức khoán 3000 tỉ của NHNN thì nhiều NHTM cỡ nhỏ đã rơi vào tình trạng khó khăn do năng lực quản lí nguồn vốn hạn chế.
- Hai là hoạt động cấp TÍN DỤNG DỄ DÃI, sai quy định cho DN sân sau.
Cụm từ “DN sân sau” ở đây được hiểu là các DN có sở hữu cổ phần của Ngân hàng, hoặc người chủ DN đó cũng đồng thời sở hữu Ngân hàng, trực tiếp hoặc gián tiếp. Chính vì sự “dây mơ rễ má” đó mà các quy định hiện hành về tín dụng đã bị vô hiệu hóa. Sở hữu chéo có thể giúp 1 cổ đông nắm giữ hoặc chi phối số cổ phần lớn có thể gây áp lực để NH cấp vốn cho các dự án của DN sân sau của mình, trong đó có nhiều dự án Bất động sản mà hiện giờ đã trở thành những gánh nặng của nền kinh tế. Các quy định về giới hạn tín dụng, thẩm định và kiểm soát tín dụng, về các đối tượng cấm cho vay và hạn chế cho vay đều có thể bị lách dễ dàng trong trường hợp này. Nếu nói các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước không dính dáng gì đến những hoạt động này thì thật khó có thể tin được, thực tế là các DN Nhà nước luôn đi đầu phong trào “tín dụng dễ dãi”, tất nhiên với điều kiện là sở hữu một lượng cổ phần “vừa đủ” ở các NH.
- Ba là hiện tượng ĐẦU TƯ chéo, đầu tư gián tiếp vào các hoạt động RỦI RO CAO giữa các NHTM.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã cho thấy những rủi ro vô cùng lớn trong hoạt động NH đầu tư. Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cũng như Thông tư 12/2010/TT-NHNN, hoạt động đầu tư phải được tách bạch khỏi hoạt động của NH thương mại, NH không được cấp tín dụng cho công ty có hoạt động kinh doanh chứng khoán trực thuộc mình. Tuy nhiên, nhờ có sở hữu chéo mà thay vì cấp tín dụng trực tiếp thì một NH A có thể tác động NH B (hoặc mua trái phiếu của B) mà A đang sở hữu để NH này cho vay hoặc mua trái phiếu của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ của NH A. Việc này được xem là một rủi ro đạo đức rất lớn khi các NHTM đem tiền gửi của khách hàng đi kinh doanh chứng khoán (một cách gián tiếp) và liệu nếu biết được thì người gửi tiền còn dám đưa tiền của mình cho những NH đó giữ hay không?
- Bốn là việc các NHTM làm sai lệch các quy định về QUẢN LÝ NỢ XẤU.
Các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của NHNN có thể không được các NHTM tuân thủ đúng. Khi một khách hàng mất khả năng thanh toán nợ, thay vì xếp khoản vay đó vào mục nợ xấu và tiến hành trích lập dự phòng rủi ro theo quy định, một biện pháp hi sinh lợi nhuận nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản và nguồn vốn. Tuy nhiên thông qua sở hữu chéo, NHTM có thể cho vay đảo nợ, hãy hình dung như sau, một DN X nợ NH A một khoản nợ tương đương với nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn), Ngân hàng A thông qua NH B (mà A sở hữu) cho vay gián tiếp DN X để họ có tiền để trả cho món nợ xấu trước đó, như thế thì NH A sẽ giảm được mức nợ xấu trên sổ sách và không phải trích lập dự phòng. Hành vi đảo nợ bị luật pháp nghiêm cấm triệt để nhưng với quy trình như trên thì thật khó để kiểm soát.

HỆ LỤY ĐỐI VỚI TOÀN HỆ THỐNG

Hoạt động lách luật của các NH thông qua sở hữu chéo đã làm nảy sinh nhiều trục trặc trong toàn ngành từ nhiều năm trở lại đây và để lại những hậu quả không mong muốn đối với hệ thống và nền kinh tế. Tín dụng có một giai đoạn bùng nổ nhưng không hiệu quả. Nợ xấu gia tăng nhanh một cách chóng mặt nhưng đã bị nhiều NH cố tình che giấu, thực tế là nợ xấu của hệ thống NH càng cao thì sở hữu chéo NH càng chằng bịt. Sở hữu chéo cũng làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống NH, vì rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có, trong khi đó lại là vốn ảo. Việc che giấu nợ xấu và tăng vốn ảo có thể khiến cho Đề án tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng của Chính phủ bị sai mục đích do không hướng tới đúng đối tượng cần tác động. Nhiều NH thuộc khu vực ngoài quốc doanh bị lũng đoạn bởi các thế lực tài chính. Hoạt động cho vay sân sau đầy rủi ro đã làm thất thoát một lượng lớn vốn đầu tư xã hội vào những dự án kém chất lượng.
Có thể thấy các rủi ro trong thị trường tài chính đến từ sở hữu chéo là rất nguy hiểm, vì chúng mang tính hệ thống nên một khi bùng phát thành khủng hoảng thì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến NH mà sẽ lây lan ra toàn hệ thống và nền kinh tế. Hậu quả khi đó sẽ vô cùng khủng khiếp.
3. NHỮNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT
Thật không dễ dàng để phát hiện và xử lý sở hữu chéo, kể cả đối với các cơ quan chuyên trách như Thanh tra của NHNN hay Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế - tài chính, có một số hướng giải pháp sau đây cho vấn đề sở hữu chéo:
- Cần phải luật hóa vấn đề sở hữu chéo, đồng thời tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan chức năng. Giám sát hệ thống NH cần phải được thực hiện đồng bộ, bảo đảm sự giám sát thông suốt là rất cần thiết để làm rõ tình trạng phức tạp và tìm cách ngăn chặn sự lặp lại sở hữu chéo trong tương lai.
- Cần khống chế tỷ lệ sở hữu tại các Tổ chức tín dụng của cá nhân, DN và cả những sở hữu giữa họ với các công ty con, quỹ trực thuộc. Đặc biệt là mối quan hệ sở hữu chéo giữa NH và các DN tư nhân vẫn chưa được NHNN lường hết mặc dù tiềm ẩn rủi ro trong đó rất cao. Yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước phải thoái vốn tại Tổ chức tín dụng.
- Cần có cơ chế để các cổ đông có thể giám sát hoạt động của Hội đồng Quản trị và đảm bảo tính độc lập của kiểm toán để đảm bảo tính minh bạch cần thiết trong các hoạt động của NH.
- Cần đưa nguồn vốn mới, đặc biệt là vốn ngoại vào các NHTM để khắc phục tình trạng yếu kém và thay thế cho những khoản đầu tư chéo sẽ bị bắt buộc phải rút ra.Việc này nên được thực hiện cẩn thận để tránh các thế lực tài chính nhăm nhe muốn sở hữu chéo trong NH.

Sở hữu chéo có mặt ở nhiều nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam sở hữu chéo có những đặc thù riêng khiến cho nó trở nên phức tạp và nghiêm trọng. Sở hữu chéo thực sự đã làm cho nhiều người hạnh phúc khi có những NH nhỏ hào phóng cho cổ đông của mình vay đến 50% tổng số tín dụng huy động của NH. Tình trạng sở hữu chéo trong NHTM hiện nay ở Việt Nam được nhận định là có nhiều điểm chung so với Hàn Quốc những năm 90, nhưng là giữa các tập đoàn lớn. Và cuối cùng thì kinh tế Hàn Quốc cũng đã bị trừng phạt nặng nề trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, mà một trong những căn nguyên là sở hữu chéo, điều đã khiến cho con rồng của châu Á thiếu một nền tảng bền vững. Sau đó Hàn Quốc đã phải giám sát một cách rất chặt chẽ sở hữu chéo và khiến nó không còn hoành hành được nữa. Nền kinh tế Việt Nam đang chứng kiến một sự hồi phục chậm chạp sau giai đoạn suy thoái kéo dài và tốn kém. Tuy nhiên, những vấn đề cơ bản của nền kinh tế như sở hữu chéo, nợ xấu, bất động sản, nợ công… vẫn chưa được giải quyết. Không biết được mối hiểm họa từ chúng lớn đến mức nào, và Việt Nam sẽ phải trả cái giá là bao nhiêu nếu như những quả bom đó nổ tung?
____________________________
Nguồn:
http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/12/tu-so-huu-cheo-tai-chaebol-den-thuc-te-nhtm-viet-nam.html
http://www.baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/ong-bui-kien-thanhma-tran-so-huu-cheo-rat-nghiem-trong-2354918/index.htm
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/manh-khoe-thao-tung-cac-ngan-hang-cua-bau-kien-765659.htm
http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2013/07/21/thuc-trang-so-huu-cho-trong-he-thong-ngn-hng-viet-nam-hien-nay-v-mot-so-khuyen-nghi/
____________________________
https://www.facebook.com/WegreenVietnam/photos/a.295680247197455.63320.246214618810685/475688412529970/?type=1

SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM (Phần 1)

SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM (Phần 1)

[Economic Corner - #WEGREEN]

Ngày 31/7/2013 vừa qua, Hội thảo “Rủi ro sở hữu chéo và đầu tư chéo: Thực trạng và giải pháp cho thị trường tài chính Việt Nam” đã được Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia phối hợp với UNDP (Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc) tổ chức với sự quy tụ của hầu hết các chuyên gia tài chính-kinh tế đầu ngành.

“Sở hữu chéo” được xem là một vấn đề lớn và nan giải đối với hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt khi những năm gần đây, với sự phát triển của ngành tài chính-ngân hàng, thì tình trạng sở hữu chéo ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp, khó kiểm soát và đã nảy sinh nhiều hệ quả xấu đối với nền kinh tế.

Trong đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Chính phủ có một nội dung quan trọng: Tái cấu trúc đồng thời phải giảm thiểu và đi tới loại bỏ sở hữu chéo không đúng quy định của pháp luật đối với hệ thống tài chính.

Vì thế, Wegreen xin được chia sẻ với các bạn đọc một hiểu biết chung và thực trạng của vấn đề “Sở hữu chéo” này.

1. ĐỊNH NGHĨA SỞ HỮU CHÉO
Sở hữu chéo được hiểu là việc 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau, ví dụ như công ty A đầu tư vào Cty B, sau đó B lại đầu tư vào A.

Thông thường, sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp (DN) có tính trực tiếp. Ví dụ, DN X sở hữu DN Y và ngược lại DN Y sở hữu DN X. Tuy nhiên, sở hữu chéo có thể tồn tại một cách gián tiếp. Chẳng hạn, khi một nhà đầu tư, hoặc một nhóm nhà đầu tư, hay một DN sở hữu cả Ngân hàng A và Ngân hàng B, thì thực chất Ngân hàng A và Ngân hàng B là sở hữu chéo của nhau. Hình thức này thiếu minh bạch và rất khó kiểm soát.

2. NGUYÊN NHÂN CỦA SỞ HỮU CHÉO
Tình trạng sở hữu chéo xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau:

- Từ nhu cầu tăng vốn của Ngân hàng: Thời kỳ kinh tế tăng trưởng nóng, yêu cầu vốn của các ngân hàng trở nên lớn hơn, theo quy định thì đến năm 2010 vốn điều lệ thực góp của các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt 3000 tỉ đồng, điều này đã gây nên áp lực đối với nhiều Ngân hàng khiến họ phải thông qua sở hữu chéo để tăng vốn ảo.

- Từ niềm tin vào đối tác: Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển thì hệ thống giám sát, quản lí ở cấp cao chưa tốt, nên cần có sự tin cậy giữa các DN với nhau và với DN thì sự tin tưởng này chỉ có thể thông qua mối quan hệ gia đình, người quen, hay còn được gọi là nhóm lợi ích.

- Từ những khó khăn trong hệ thống: Hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam hiện nay nổi lên nhiều rủi ro, yếu kém, cả trong hoạt động kinh doanh lẫn trong sự quản lí thiếu đạo đức, năng lực.

- Các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng muốn thâu tóm lẫn nhau với mục đích tăng quy mô hay cho vay “doanh nghiệp sân sau” của mình.

3. TÌNH TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM
Sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam đã có từ khá lâu. Thời gian đầu chủ yếu do các ngân hàng quốc doanh góp vốn với tư cách cổ đông Nhà nước với mục đích giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động của các ngân hàng cổ phần. Về sau, cùng với sự phát triển, các hình thức sở hữu chéo càng ngày càng đa dạng và đến nay, sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam có thể chia thành 6 nhóm (Nguồn: Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội):

Ba nhóm tích cực:

(1) Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên doanh
(2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM
(3) Cổ đông tại các NHTM là các Cty quản lý quỹ

Ba nhóm đáng lo ngại:

(4) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
(5) Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
(6) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng Cty Nhà nước và tư nhân


3.1 NGÂN HÀNG NÀO ĐANG CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA SỞ HỮU CHÉO?
Hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đều sở hữu ngân hàng. Điển hình là Tập đoàn Điện lực Việt Nam sở hữu Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) An Bình, Tập đoàn Viễn thông Quân đội sở hữu Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và Tập đoàn Cao su sở hữu Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sở hữu Ngân hàng TMCP Đại Dương…

Nhóm Big 4 ngành Ngân hàng của Việt Nam là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng TMCP Công thương (VietinBank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) đều đang sở hữu các ngân hàng khác.

Trong khu vực ngoài quốc doanh, sở hữu chéo phổ biến dưới hai hình thức là ngân hàng sở hữu lẫn nhau và doanh nghiệp sở hữu ngân hàng.

Trong hình minh họa, các bạn có thể thấy sự sở hữu lẫn nhau của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam chằng chịt như thế nào, đến nỗi các chuyên gia phải đặt cho nó cái tên “Ma trận Sở hữu chéo”.

Theo quy định, một cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ, một cổ đông là tổ chức không được sở hữu quá 15% vốn điều lệ của một Tổ chức tín dụng (TCTD). Thêm vào đó, cổ đông cá nhân và những người có liên quan với cổ đông đó như là ông bà, cha mẹ, vợ chồng... thì không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của một TCTD. Thế nhưng, nếu chỉ cần nhìn vào thực trạng hội đồng quản trị của các ngân hàng, thì các quy định hiện hành đã bị làm ngơ.

Lấy ví dụ tại ngân hàng An Bình, Tập đoàn Điện lực EVN chiếm tỷ lệ sở hữu 21.3%; Geleximco chiếm 7.7%, May bank chiếm 20.0%, IFC chiếm 10% cổ phần sở hữu, ông Vũ Văn Tiền và gia đình chiếm tỷ lệ sở hữu 8% , …

3.2 SỰ PHỨC TẠP CỦA SỞ HỮU CHÉO

Thực tế mà nói, Khái niệm Sở hữu chéo hiện nay bao trùm rất nhiều vấn đề phức tạp trong ngành ngân hàng, đó là:

- Nhiều trường hợp quyền lực kiểm soát ngân hàng không nằm trong tay cổ đông Nhà nước với cổ phần nắm giữ lớn nhất mà thuộc về nhóm các nhà đầu tư có tỷ lệ sở hữu thấp hơn. Ngân hàng SHB là một ví dụ điển hình, hai Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là Tập đoàn Than Khoáng Sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VNR) đều nắm 4,09% vốn điều lệ, là hai cổ đông lớn nhất. Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) Đỗ Quang Hiển chỉ nắm 3,01% vốn điều lệ nhưng nếu tính cả những người có liên quan tới ông Hiển thì ông đang kiểm soát 13,94% cổ phần của SHB.

- Các NH sở hữu lẫn nhau thông qua các Công ty chứng khoán (CTCK), quỹ đầu tư hoặc CTCP Đầu tư Tài chính (những tổ chức mà Ngân hàng đang nắm quyền kiểm soát hoặc là cổ đông của Ngân hàng). Đặc biệt, loại hình doanh nghiệp CTCP Đầu tư Tài chính thường đứng đằng sau việc sở hữu ngân hàng, giúp các ngân hàng sở hữu ngân hàng và giúp các nhà đầu tư sở hữu ngân hàng, thì lại không bị điều tiết, không phải công bố thông tin, báo cáo mặc dù hoạt động không khác gì hoạt động đầu tư tài chính của quỹ đầu tư và CTCK. Việc thông tin không minh bạch như vậy khiến cho các cơ quan giám sát rất khó để truy ra được những ông lớn đứng sau. Vụ việc “Bầu Kiên” trong năm 2012 là một trường hợp tiêu biểu mà hoạt động này bị phát giác mà Wegreen sẽ đề cập đến trong phần II của bài.

- Nhà đầu tư, nhóm nhà đầu tư vừa sở hữu các doanh nghiệp phi tài chính, vừa sở hữu các ngân hàng thương mại. Trong một báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội năm 2012, ông Đặng Văn Thành, người nắm quyền kiểm soát trong CTCP Viễn thông Sài Gòn và TCT Phát triển nhà Kinh Bắc với số cổ phần chi phối, bị cho là kiểm soát gián tiếp hai ngân hàng là Navibank và Westernbank mặc dù ông chỉ nắm 2,97% cổ phần tại Navibank và không có cổ phần trong Westernbank. Đó là do 2 công ty của ông đã sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp 2 ngân hàng kia với lượng cổ phần lớn.


Tình trạng sở hữu chéo đã trở nên rộng rãi, phổ biến và vô cùng phức tạp. Nó đã dẫn đến nhiều hệ quả trọng hệ thống tài chính-ngân hàng ở Việt Nam, cả tốt lẫn xấu, trong đó không ít mê lộ dẫn đến sự đổ vỡ Domino các ngân hàng. Vậy thì hướng giải quyết của Nhà nước và các chuyên gia tài chính là gì? Những hệ quả và giải pháp này sẽ được Wegreen đem đến các bạn trong phần 2 của bài viết.

Xin cảm ơn quý độc giả.

----------------------
Nguồn tham khảo:
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/hoa-mat-voi-ma-tran-so-huu-cheo-ngan-hang-viet-nam-761840.htm
http://vietstock.vn/2012/09/ong-dang-thanh-tam-la-tieu-bieu-so-huu-cheo-ngan-hang-757-238020.htm
http://www.baomoi.com/Ma-tran-so-huu-cheo/126/11604011.epi
http://vneconomy.vn/2013080904077822P0C6/man-kich-moi-cua-so-huu-cheo.htm

---------------------
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=466033663495445&set=pb.246214618810685.-2207520000.1380301007.&type=3&theater 

BÀN VỀ TỰ DO

BÀN VỀ TỰ DO của John Stuart Mill
… “Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn”…
(Khảng khái bi ca, lưỡi hãy còn…)
Phan Châu Trinh
1.Một tác phẩm kinh điển trong kho tàng của triết học chính trị thế giới lần đầu tiên được dịch ra tiếng Việt, và, thật đáng ngạc nhiên một cách thích thú, chỉ vài tháng sau khi được in (12.2005) – như là một trong các dịch phẩm “đầu tay” của NXB Tri thức thuộc Tủ sách Tinh hoa Tri thức thế giới –, bản dịch đã được tái bản (03.2006) và chắc hẳn sẽ không phải là lần tái bản duy nhất! Tác phẩm tương đối ngắn (260 trang), được dịch chính xác, rõ ràng, lại được giới thiệu, phân tích và đánh giá qua “Lời Nhà xuất bản”, “Lời Giới thiệu” của GSTS Nguyễn Trọng Chuẩn và “Lời Bạt” (“Về tác giả và tác phẩm”) của dịch giả Nguyễn Văn Trọng đã giúp ích rất nhiều cho người đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm. Bài viết sau đây của chúng tôi chỉ là phần “nối điêu”, thử đặt tác phẩm nói trên trong toàn cảnh tư tưởng của tác giả, nhất là trong các tác phẩm về chính trị và xã hội của ông như một cố gắng để tự học thêm, đồng thời để góp vui vào tập Kỷ Yếu kính mừng GSTS Đặng Đình Áng thượng thọ 80 xuân.
2. Là một “thần đồng” có học vấn rất cao và có nhiều thành tựu trong nhiều ngành khoa học khác nhau (lôgíc học, khoa học luận, luật học, kinh tế chính trị…), J.S.Mill là tác giả được học giới đặc biệt quan tâm và ngưỡng mộ. Vào thế kỷ 19, Thủ tướng Anh Gladstone đã gọi ông là “vị Thánh của thuyết duy lý”. J. S. Shapiro, năm 1943, gọi ông là “người phát ngôn hàng đầu của chủ nghĩa tự do trong thế kỷ 19”. Mười năm sau, Karl Britton, người viết tiểu sử của Mill, viết: “Mill tạo nên một ảnh hưởng đến tư duy triết học trong và ngoài nước mà ít có nhà tư tưởng hàng đầu nào khác có thể vượt qua được”. Leopold von Wiese, nhà xã hội học Đức, gần đây lại cho rằng: “Trong lịch sử tư tưởng Âu Châu hiện đại, chỉ có một số ít các học giả được nhiều ngành khoa học xem trọng như trường hợp của Mill”.
Thế nhưng, công bằng mà nói, suốt một thời gian dài, công cuộc nghiên cứu về Mill chưa đánh giá hết tầm quan trọng của ông, nhất là đối với các tác phẩm chính trị và xã hội đang còn nóng bỏng tính thời sự. Phải chờ đến Thế chiến II khi cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít trở nên gay gắt, người ta mới thực sự tái phát hiện “vị Thánh tông đồ này của tự do”. Nghiên cứu về Mill được “phục hưng” từ sau khi Thế chiến II kết thúc: các tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhiều công trình nghiên cứu chuyên đề về ông được công bố dồn dập; “Toronto University Press” ấn hành toàn tập khảo chứng đầu tiên về ông năm 1963, và, từ 1965, được bổ sung bằng ấn bản định kỳ: “Mill News Letters”. Có thể nói, về nhiều phương diện, công cuộc nghiên cứu về Mill thật sự được bắt đầu lại, đặc biệt là đánh giá, phân tích và suy ngẫm về cống hiến của Mill trong việc phê phán Nhà nước và xã hội trong thời đại Victoria cùng với những bài học có thể rút ra từ đó và không chỉ cho thế giới Tây phương.
Bản thân sự kiện trên đây nói lên điều gì? Thứ nhất, các khái niệm nền tảng của triết học chính trị - xã hội, mà nổi bật hàng đầu là khái niệm “tự do”, đều là các khái niệm trừu tượng, nhưng người ta chỉ thường đề cập đến chúng và thực sự quan tâm trở lại với chúng trong những hoàn cảnh cụ thể, khi chúng – với tư cách là các giá trị – đang bị thách thức và có nguy cơ bị xâm phạm. Thứ hai, các khái niệm ấy vừa kêu đòi hành động thực tiễn, vừa đồng thời tiền giả định một sự “thức tỉnh” về lý thuyết. Trong chừng mực đó, “bàn về Tự do” bao giờ cũng là một “thực tiễn lý luận”, một “vấn đề sinh tử” (tr. 17)3 chứ không phải là “lý thuyết” hay “tư biện” suông. Trong cảnh gông xiềng bị đưa đi đày ở Côn Lôn, cụ Phan vẫn tin vào “cái lưỡi hãy còn” của mình, tức tin vào nó như là vũ khí hành động để kêu đòi tự do và thức tỉnh quốc dân!
Trong lịch sử tư tưởng về “Tự do”, ở phương Tây, ta bắt gặp ba “mô hình” lý luận tiêu biểu làm cơ sở cho hành động thực tiễn:
- cứu vãn sự Tự do trước sự tất yếu của Tự nhiên để đặt nền tảng cho hành động thực hành (luân lý) và khẳng định “phẩm giá bất khả xâm phạm” của con người (Kant)4.
- hiện thực hóa Tự do như là tiến trình lịch sử tất yếu (Hegel)5, và,
- minh định phạm vi và ranh giới của Tự do dân sự trong mối quan hệ cá nhân - xã hội vì sự tiến bộ và phát triển của đời sống cộng đồng (Mill).
Hai “mô hình” trước dựa trên một “lý tính” (rationality) mang màu sắc triết học và siêu hình học (“siêu nghiệm” nơi Kant; “siêu hình học tư biện” nơi Hegel). “Mô hình” thứ ba của Mill – để mượn một thuật ngữ của J. Habermas – dựa trên một “lý tính phương pháp”6, tức tìm cách giải quyết vấn đề “trong cộng đồng những người công dân của một nhà nước dân chủ và trong một hệ thống pháp quyền”5.
Đặt tác phẩm Bàn về Tự dotrong tổng thể các tác phẩm triết học của Mill, ta thấy tư tưởng chính trị và xã hội của ông xoay quanh các khái niệm trung tâm sau đây: a) tính công lợi (utility); b) tự do; c) giáo dục; d) dân chủ; e) chủ nghĩa xã hội; và f) chủ nghĩa đế quốc. Do khuôn khổ của bài viết, chúng ta sẽ không đi sâu vào nội dung từng khái niệm mà chủ yếu tìm hiểu cơ sở lập luận của chúng.
3.Tính công lợi:
- Học thuyết xã hội của Mill dựa trên hai nguyên tắc nền tảng: nguyên tắc công lợi và nguyên tắc tự do. Nguyên tắc tự do lại đặt cơ sở trên nguyên tắc công lợi, và nguyên tắc công lợi, đến lượt nó, lại lấy quan niệm về “hạnh phúc” làm tiền đề, với luận điểm chủ yếu: giá trị luân lý của hành vi và quy tắc hành vi phải được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn: chúng mang lại ích lợi gì cho hạnh phúc của những cá nhân có liên quan. Trong chừng mực đó, tác phẩm Bàn về Tự do cần được tìm hiểu trong quan hệ chặt chẽ với đạo đức học của Mill. Luận điểm ấy mang lại bốn hệ luận:
- hành vi và quy tắc hành vi được đánh giá không phải từ bản thân chúng mà từ các kết quả do chúng mang lại.
- các kết quả được đánh giá từ ích lợi của chúng.
- đánh giá về ích lợi dựa trên hạnh phúc của con người.
- hạnh phúc này không chỉ liên quan đến cá nhân mà đến toàn thể mọi người.
Do đó, nguyên tắc công lợi – như là tiêu chuẩn cho giá trị luân lý của hành vi và quy tắc hành vi – có hai chức năng:
- chức năng của một tiêu chuẩn để quyết định và chọn lựa những hành vi và quy tắc hành vi nào tối đa hóa sự ích lợi cho hạnh phúc tập thể.
- không chỉ là tiêu chuẩn để quyết định và chọn lựa mà còn là “quy phạm” của luân lý: luân lý là tổng thể những quy tắc hành vi mà việc tuân thủ chúng có thể mang lại ích lợi tối đa cho hạnh phúc tập thể.
Như thế, trong chức năng này, nguyên tắc công lợi là điều kiện cần và đủ để xét một quy tắc hành vi có thuộc về lãnh vực luân lý hay không. Nói khác đi, các quan niệm luân lý nào không thoả ứng được tiêu chuẩn này thì không được xem là “luân lý”7. Đi vào cụ thể, cần phải xác định thế nào là “ích lợi cần tối đa hoá” cho hạnh phúc tập thể. Sidgwick (1874), trong Các phương pháp của Đạo đức học8, phân biệt giữa “thuyết công lợi về tổng số những ích lợi” (gọi tắt: TS) với “thuyết công lợi về ích lợi bình quân theo đầu người” (TB). Trong “TS”, tổng số ích lợi cho hạnh phúc của mọi cá nhân là đại lượng cần phải được tối đa hoá, ngược lại với việc tối đa hoá ích lợi bình quân đầu người trong “TB”. Bao lâu số lượng người không thay đổi, hai thuyết ấy không có sự khác nhau, tức không có sự dị biệt về lượng giữa hai nỗ lực tối đa hoá. Nhưng, khi số lượng người là một biến số, thì, về nguyên tắc, trong “TS”, hạnh phúc tập thể có thể được tăng lên mà vẫn giữ nguyên mức ích lợi bình quân. Ngược lại, trong “TB”, ích lợi bình quân chỉ tăng lên bằng cách gia tăng ích lợi cho từng cá nhân riêng lẻ. Bentham – chủ trương thực hiện “hạnh phúc lớn nhất cho số lượng người lớn nhất” mặc nhiên chủ trương thuyết “TS”. Ngược lại, thuyết công lợi của Mill có thể xem là thuộc “TB”, vì ông xem trọng việc sinh đẻ có kế hoạch. Như thế, Mill chủ trương rằng: dựa vào nguyên tắc công lợi, giá trị luân lý của hành vi và quy tắc hành vi phải được xem xét trong quan hệ với ích lợi bình quân đầu người cho hạnh phúc tập thể.
- Vì lẽ nguyên tắc công lợi tiền giả định rằng hạnh phúc tập thể là tiêu chuẩn duy nhất cho việc đánh giá luân lý về hành vi và quy tắc hành vi, nên Mill cần nỗ lực chứng minh rằng hạnh phúc tập thể là điều đáng phấn đấu như là mục đích tối cao của hành động. Để giải quyết vấn đề này, ông phân biệt hai loại mục tiêu của hành vi: * những mục tiêu không có giá trị tự thân mà chỉ là phương tiện để đạt được hạnh phúc, chẳng hạn: tiền bạc hay sự giàu có; * những mục tiêu có giá trị tự thân, như là những bộ phận cấu thành của hạnh phúc: chẳng hạn, đức hạnh và sức khoẻ, tức những gì không thể được quy giảm thành phương tiện. Tất nhiên, khái niệm “hạnh phúc” của Mill gặp không ít vấn đề. Một mặt, Mill cố ý sử dụng khái niệm này trong một nghĩa rất rộng nhằm mô tả được mọi mục đích của hành động. Nhưng, trong trường hợp ấy, rất khó nhận diện hay phân biệt được những hành vi và quy tắc hành vi nào có lợi hay có hại đối với hạnh phúc tập thể. Mặt khác, như Skorupski phê phán9, khái niệm của Mill về hạnh phúc không thích hợp để mô tả trọn vẹn mọi mục đích được dự kiến trong mọi hành vi. Vì thế Skorupski xem chủ trương của Mill ít nhiều rơi vào thuyết quy giảm và cho rằng bên cạnh hạnh phúc, cần tính tới những mục đích khác nữa trong việc mô tả những mục tiêu hành động.
Dù các luận cứ phản bác này là chính đáng, ta cũng không nên “vơ đũa cả nắm” để phản đối thuyết công lợi như là một thứ “triết học con lợn” (“pig philosophy”) như cách kết án nặng nề của Carlyle10. Sự kết án này xuất phát từ chỗ hiểu khái niệm “sự sung sướng” – qua đó định nghĩa khái niệm hạnh phúc – đơn thuần là khoái lạc cảm tính. Ta đồng ý với Carlyle và nhiều nhà phê phán khác rằng loại hạnh phúc ấy không phù hợp để được xem như là tiêu chuẩn cho việc đánh giá luân lý về hành vi và quy tắc hành vi, bởi nó không khác mấy với sự thoả mãn thú tính, do đó, là thấp hèn về mặt chất lượng và giản lược luân lý thành một công cụ để thoả mãn các nhu cầu sinh vật. Thật ra, sự phê phán này chủ yếu nhắm vào loại hình thuyết công lợi sơ kỳ với đại diện tiêu biểu là Jeremy Bentham trong tác phẩm Dẫn nhập vào các Nguyên tắc của luân lý và ban bố quy luật(1780)11. Trong tác phẩm này, Bentham phát triển quan niệm về “bài toán hạnh phúc” – có vai trò như nguyên tắc công lợi của Mill – như là tiêu chuẩn để đánh giá luân lý về hành vi và quy tắc hành vi, trong đó chủ yếu xem trọng phương diện “lượng” hơn là phương diện “chất” của sự sung sướng. Vì thế, Bentham cho rằng: giả định rằng hai hành vi cùng tạo ra một lượng sung sướng hay khoái lạc như nhau thì hành vi trí tuệ, tinh thần cũng được xét ngang hàng với hành vi đơn thuần cảm tính. Ở đây, nhất thiết phải nhận rõ sự dị biệt và chuyển hoá rất cơ bản về thuyết công lợi giữa Bentham và Mill. Mill cũng sử dụng công thức của Bentham về “hạnh phúc lớn nhất cho số lượng người lớn nhất”. Ông cũng hiểu hạnh phúc là sự sung sướng (pleasure) và sự vắng mặt của đau khổ (pain). Hành vi là đúng khi nó có mục đích hỗ trợ cho hạnh phúc và là sai khi tạo ra cái đối lập với hạnh phúc. Nhưng, trái ngược với khái niệm hạnh phúc – có thể đo lường được về lượng và hướng đến tri giác cảm tính đơn thuần – của Bentham, Mill chủ trương một khái niệm hạnh phúc được dị biệt hoá về chất. Ông dành cho “niềm vui của trí tuệ, của tình cảm và của sự tưởng tượng cũng như của những cảm nhận luân lý” một chất lượng cao hơn hẳn khoái lạc đơn thuần cảm tính. Với Bentham, bản thân con người cùng lắm chỉ có khả năng nhận định điều gì là có lợi cho hạnh phúc của bản thân mình. Thuyết công lợi của Bentham dễ dàng biến thành một thứ chủ nghĩa cá nhân thô thiển. Chính ở đây, Mill xa rời Bentham (và cả với cha của ông, một môn đệ trung thành và nhà diễn giải Bentham). Mill áp dụng khái niệm hạnh phúc không chỉ cho những cá nhân riêng lẻ mà còn luôn nghĩ đến hạnh phúc của những người khác, thậm chí cho “toàn bộ nhân loại”. Trong Tự truyện, ông viết: “Chỉ có hạnh phúc những ai hướng ý nghĩa cuộc sống vào một đối tượng khác hơn là hạnh phúc của cá nhân mình: đó là hướng đến hạnh phúc của những người khác, hướng đến việc cải thiện nhân loại” (improvement of mankind). Xét trong bối cảnh lịch sử cụ thể, học thuyết của Bentham giới hạn rõ rệt trong phạm vi tầng lớp trung lưu tư sản, trong khi thuyết công lợi của Mill bao hàm cả giai cấp công nhân, lao động đang hình thành trong lòng cuộc cách mạng công nghiệp đương thời. Học thuyết ấy mang kích thước xã hội rộng lớn hơn nhiều. Trong lãnh vực chính trị, như ta sẽ đề cập trong tiểu mục “Dân chủ” ở sau, Mill không chỉ vận động – giống như Bentham – cho một sự cải cách hiến pháp và quyền bầu cử để tăng cường sức mạnh của tầng lớp trung lưu tư sản. Các đề nghị của ông còn nhắm đến một sự cải cách xã hội bao gồm cả tầng lớp lao động đông đảo. Khác với Bentham, Mill đã có sự nhạy cảm trước những biến đổi của xã hội và thời cuộc mà cuộc cách mạng công nghiệp đã báo hiệu.
Về mặt lý luận, việc áp dụng nguyên tắc công lợi nơi Mill không tiền giả định một nhận thức tiên nghiệm nào cả như nơi Kant, trái lại, tiền giả định một nhận thức thường nghiệm ở cả hai phương diện: a) một mặt, sự dị biệt về chất giữa các loại hình “sung sướng” chỉ có thể được xác định một cách thường nghiệm; b) mặt khác, trong những trường hợp cụ thể khi áp dụng nguyên tắc công lợi, cần có đầy đủ “thông tin” về sự sung sướng và đau khổ của những cá nhân có liên quan thông qua các khảo sát thường nghiệm. Ở đây, lại nảy sinh hai khó khăn : * khó khăn trong việc so sánh ích lợi ở “bên trong con người” (intrapersonal) để xác định chính xác đâu là các trạng thái sướng khổ về chất và lượng; * khó khăn trong việc thông báo và so sánh ích lợi giữa những con người với nhau (interpersonal). Hai khó khăn này cho thấy nguyên tắc công lợi khó có thể được sử dụng để xác định chính xác sự ích lợi của những hành vi hay những quy tắc hành vi khác nhau. Tuy thế, nó vẫn có thể được sử dụng như một trợ thủ để định hướng cho việc lựa chọn và quyết định.
- Sau khi xác định nội dung và chức năng của nguyên tắc công lợi cũng như đặt cơ sở cho nguyên tắc này bằng học thuyết về “hạnh phúc”, Mill tiếp tục bàn về mối quan hệ, – hay đúng hơn về sự xung đột và nghịch lý có thể có –, giữa khái niệm công lợi và khái niệm công bằng theo cách hiểu thông thường12. Vì công bằng và tự do là hai khái niệm đồng đẳng, nên vấn đề đặt ra ở đây cũng sẽ có giá trị trong việc tìm hiểu khái niệm “tự do” ở sau. Khi bàn về mối quan hệ giữa công bằng và công lợi, Mill tìm cách biện giải trước chất vấn: không phải mọi hành vi và quy tắc hành vi được đánh giá tích cực về luân lý dựa theo nguyên tắc công lợi đều nhất thiết là công bằng theo các quan niệm thông thường. Đó là trường hợp giả định khi hạnh phúc tập thể có thể được tăng lên nhưng lại vi phạm các quan niệm thông thường về sự công bằng vì các hành vi giới hạn hay thậm chí triệt tiêu quyền hạn của những người khác. Liệu hạnh phúc tập thể có thể được tối đa hóa khi những người vô tội bị hy sinh? David Lyons13 nêu một ví dụ: cả một đoàn người thì không được phép đạp lên bãi cỏ vì sẽ làm hỏng nó, nhưng nếu một số ít người thì không sao. Vậy, xét về mặt hạnh phúc tập thể và giá trị luân lý của nguyên tắc công lợi, việc cho phép một số ít người đạp lên bãi cỏ là tốt hơn so với việc không cho phép ai cả? Nhưng, sự ưu đãi ấy lại là “đặc quyền đặc lợi” cho một số ít người và khó được gọi là công bằng! Trong các trường hợp ấy, nguyên tắc công lợi – như là “tiêu chuẩn cho sự công bằng và không công bằng” – trở nên khả nghi về hai phương diện: * nội hàm của khái niệm “công bằng” và “công lợi” có chỗ dị biệt: có những hành vi và quy tắc hành vi có lợi đối với hạnh phúc tập thể nhưng lại không công bằng theo các quan niệm luân lý thông thường; * thuyết công lợi không thể mang lại giá trị tuyệt đối, vô-điều kiện cho các nguyên tắc luân lý vì giá trị của chúng phụ thuộc vào sự hữu ích đối với hạnh phúc tập thể tùy lúc, tùy nơi, trong khi yêu sách của các nguyên tắc luân lý là phải được tuân thủ trong mọi tình huống.
Mill ý thức rõ rằng vấn đề trên đây – như sẽ tái diễn đối với khái niệm tự do – là “khó khăn duy nhất và thực sự của triết học luân lý công lợi” (Sđd, tr. 111). Ông chưa tìm ra được giải pháp thật thoả đáng cho vấn đề này ngoại trừ cách viện dẫn đến “lương tri thông thường” (common sense) của con người trong khuôn khổ một “thuyết vị kỷ ôn hoà”. Theo Mill, dựa vào lý trí, ai ai cũng có thể nhận ra được “lợi ích riêng hợp tình hợp lý” của chính mình. Nhận thức này giả định rằng mỗi cá nhân – như là một phần tử của xã hội – nhất thiết phải quan tâm đến việc vun bồi hạnh phúc tập thể cho xã hội mình đang sống, vì chỉ có như thế, lợi ích cá nhân mình mới được bảo đảm. Nói cách khác, nhận thức về lợi ích riêng “hợp tình hợp lý” nằm trong nhận thức về điểm chung, tương đồng giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, trái ngược lại với một thuyết “vị kỷ cực đoan”14. Vì thế, Mill chủ trương: các nghĩa vụ về sự công bằng chỉ có giá trị ràng buộc khi căn cứ vào tính hữu ích đối với đời sống xã hội hài hoà và đối với hạnh phúc cộng đồng, và: “Mọi người đều có quyền được đối xử bình đẳng, trừ khi một lợi ích tập thể được thừa nhận đòi hỏi điều ngược lại” (tr. 109 và tiếp). Một “lợi ích tập thể được thừa nhận” không phải là cái gì “tiên nghiệm” mà là thường nghiệm và dựa vào sự đồng thuận nào đó. Sự đồng thuận ấy, nếu có, là tuỳ thuộc vào các yêu cầu khác nhau của các quan hệ xã hội. Như thế, tuy Mill không thể đảm bảo được tính giá trị vô-điều kiện của các nghĩa vụ luân lý và không hoàn toàn chứng minh được tính “vạn năng” của nguyên tắc công lợi, nhưng quan niệm của ông cũng tỏ ra ít “không tưởng” nhất và mang đậm màu sắc thực tiễn, “duy thực” trong tinh thần của đạo đức học Aristotle.
Một vấn đề khác trong quan hệ giữa công lợi và công bằng là vấn đề phân phối công bằng ích lợi tập thể cho những cá nhân có liên quan. Dù Mill luôn nhấn mạnh rằng khi xét đến ích lợi tập thể của những hành vi và quy tắc hành vi, cần đồng thời quan tâm đến hạnh phúc của mọi người có liên quan, nhưng ông không đề ra phương thức và thể thức phân phối ích lợi tập thể này. Nếu chỉ xuất phát từ ích lợi tập thể thì việc phân phối bình quân hoặc phân phối ưu đãi không được đặt ra một cách nghiêm chỉnh. Trong chừng mực đó, thuyết công lợi của Mill còn thiếu sự chính xác và cần được bổ sung bằng các nguyên tắc phụ trợ để đảm bảo sự phân phối công bằng15.
Tóm lại, thuyết công lợi của Mill là “thuyết tự nhiên về đạo đức học” (ethical naturalism) vì trong cách tiếp cận ấy, các khái niệm giá trị và các mệnh đề quy phạm về luân lý được định nghĩa và đặt cơ sở bằng các khái niệm và mệnh đề mang tính mô tả: giá trị luân lý của hành vi và quy tắc hành vi được xác định phụ thuộc vào ích lợi của chúng đối với hạnh phúc tập thể. Và vì Mill xem đạo đức học công lợi của mình như là một khoa học thường nghiệm, không có yêu sách nào về nhận thức tiên nghiệm cả, nên nó nhất trí với thuyết tự nhiên về nhận thức luận của ông16 (nằm ngoài phạm vi của bài viết này).
Mặt khác, các khó khăn nan giải được đề cập sơ lược trên đây không làm lu mờ tầm quan trọng về triết học của thuyết công lợi nói chung. Tuy cần phải bổ sung hay điều chỉnh về nội dung cho nguyên tắc công lợi, nguyên tắc ấy – do tính duy thực và ít không tưởng của nó – vẫn có thể được sử dụng với chức năng giới hạn như là nguyên tắc trợ giúp nghiên cứu (heuristic): trong những trường hợp phức tạp về luân lý và xã hội, nó giúp ta triển khai các đề nghị và các chọn lựa khác nhau trong mục tiêu hợp lý là tối đa hóa “hạnh phúc của những cá nhân có liên quan”.
4. Tự do:
Ngay trong khói lửa của Thế chiến II, J. S. Shapiro, năm 1943, đã nhận định: “Thậm chí đến ngày nay, tác phẩm Bàn về Tự do vẫn giữ nguyên giá trị như là biểu hiện tốt nhất và hoàn chỉnh nhất về niềm tin vào sự tiến bộ của nhân loại bằng sự tự do tư tưởng. Trong mọi nước và mọi thời, chưa có quyển sách nào trình bày rõ ràng và bảo vệ kiên quyết cho học thuyết về tự do cá nhân đến như thế”17. Để tìm hiểu cơ sở lập luận của “học thuyết về tự do cá nhân này”, bên cạnh tác phẩm Bàn về Tự do, ta nên tham khảo thêm chương cuối tác phẩm: Principles of Political Economy / Các nguyên tắc của kinh tế chính trị học của ông ra đời mười năm trước đó.
4.1 Tự do là những quyền tự do:
Trung tâm điểm của Bàn về Tự do là mối quan hệ của cá nhân đối với xã hội. Luận điểm xuất phát: tự do chính trị lẫn xã hội của cá nhân đang bị đe doạ vì ngày càng bị xã hội giới hạn. Theo Mill, sở dĩ tự do này cần phải được bảo vệ trước sự can thiệp của xã hội vì nó là điều kiện cơ bản cho sự tiến bộ xã hội và, do đó, cho hạnh phúc của cộng đồng chứ không vì một mục đích nào khác. Vì thế, Mill đề ra một nguyên tắc – tạm gọi là “nguyên tắc tự do” – để xác định ranh giới của quyền lực hợp pháp và hợp lý của xã hội, theo đó, tự do cá nhân chỉ được phép bị giới hạn với điều kiện giúp cho xã hội tự bảo vệ và bảo vệ những người khác. Một sự xác định ranh giới rất lôgíc nhưng thật không dễ dàng và đơn giản để thực hiện!
Mill hiểu thế nào là “tự do”? Ông không bàn một cách trừu tượng về “khái niệm” tự do như nhiều triết gia khác mà bàn về “những quyền tự do cụ thể” như ông khẳng định ngay từ đầu tác phẩm: “đề tài của luận văn này không phải là điều được gọi là Tự do của Ý chí (…) mà là Tự do Dân sự hay là Tự do xã hội”… (tr. 17). Theo Mill, ba quyền tự do sau đây của cá nhân nhất thiết phải được bảo vệ: 1. tự do lương tâm và tự do ngôn luận; 2. tự do trong việc chọn lựa lối sống; 3. tự do lập hội.
Tự do lương tâm (thật ra không khác mấy với “tự do ý chí”!) là điều kiện tiên quyết nhưng không đủ. Tư tưởng phải được tự do bộc lộ và diễn đạt ra bên ngoài, tức phải có tự do ngôn luận. Như Mill sẽ luận giải (xem: 4.3.1), ông xem tự do ngôn luận (và tự do thảo luận, tranh luận) là sự tự vệ hiệu quả chống lại sự độc đoán của “công luận” do nhà nước hay một nhóm xã hội lèo lái. Ông không sợ gì hơn là “sự chuyên chế của xã hội đối với cá nhân” (ám chỉ “bộ máy áp bức tinh thần” của giai cấp trung lưu thời đại Victoria). Tự do khỏi “sự khủng bố của xã hội” cũng quan trọng không kém tự do thoát khỏi sự áp đặt của nhà nước. Tự do ngôn luận – bao gồm sự khoan dung đối với những ý kiến dị biệt và tự do đi tìm chân lý – là điều kiện tiên quyết cho sự tiến bộ xã hội.
Nhưng, tự do không chỉ giới hạn trong phạm vi “tinh thần”. Khi Mill nói về tự do, ông luôn nghĩ tới sự tự do phát huy nhân cách và tính cách – được ông gọi chung là “cá tính” (individuality) trong môi trường xã hội và tự nhiên, thể hiện trong lối sống của mỗi người. Đồng thời tự do ấy không chỉ hướng đến cá nhân mà gắn liền với cộng đồng xã hội. Vì thế, ông chủ trương sự tự do lập hội và kết đoàn – không chỉ cho tầng lớp trung lưu tư sản mà cả cho nhân dân lao động. Ông ủng hộ tích cực phong trào hợp tác xã và công đoàn đương thời. Trước khi bàn về chức năng và cơ sở lý luận của “nguyên tắc tự do” nơi Mill, ta nên lưu ý đến tư tưởng của ông về các ranh giới tất yếu của tự do:
- tự do chỉ có thể trở thành hiện thực trong một cộng đồng văn minh.
- nó cũng chỉ áp dụng được cho những con người “đã trưởng thành về các năng lực”, tức không áp dụng một cách máy móc cho trẻ em và những người bị thiểu năng về trí tuệ. Nhưng, khác với nhiều nhà tư tưởng đương thời, Mill hoàn toàn ủng hộ quyền tự do toàn vẹn cho phụ nữ và các tầng lớp thấp trong xã hội. (Bàn về Tự do: tr. 34-35 và tiếp).
Sự e ngại của ông trước “sự độc tài của đa số” ngày càng đe doạ tự do xã hội và chính trị của cá nhân xuất phát từ các yếu tố và nhận định sau đây:
- tư tưởng (Thanh giáo) chính thống của thời đại Victoria đối với vấn đề luân lý yêu sách sự tuân thủ nghiêm ngặt và triệt để: “trong thời đại chúng ta, từ giai cấp cao nhất cho đến thấp nhất của xã hội, ai ai cũng phải sống dưới con mắt của một sự kiểm duyệt thù địch và đáng sợ”.
- trong tiến trình công nghiệp hoá, các điều kiện sống ngày càng tương đồng khiến cho không chỉ lối sống mà cả lối suy nghĩ cũng trở nên rập khuôn: “…đọc, nghe, nhìn cùng những thứ giống nhau, đi đến cùng một nơi, hy vọng và lo âu về cùng một thứ…”.
Mill tỏ ra lo ngại trước sự phát triển này, vì một mặt, ông đồng ý với Wilhelm von Humboldt rằng “tự do và tính đa dạng của những hoàn cảnh bên ngoài” là hai điều kiện cơ bản cho sự phát triển của con người và sự tiến bộ của xã hội. Mặt khác, theo Mill, sự phát triển này gây tổn hại đến tự do của cá nhân vì nó dẫn đến chỗ “cá tính” không còn được xem như là giá trị nữa, không còn sự ủng hộ nào của xã hội đối với tính độc đáo và tính không xu thời.
Vì thế, Mill cũng là một trong số rất ít các nhà tư tưởng sớm nhìn ra mặt trái và nhược điểm của thể chế dân chủ thường có xu hướng đè nén các nhóm thiểu số về mặt chính trị lẫn xã hội. Ở điểm này, ông chia sẻ tầm nhìn xa với Alexis de Tocqueville (khi điểm sách Về nền dân trị ở Mỹ (1835/40) của Tocqueville)18 và không tin tưởng mấy vào học thuyết tự do kinh tế (“laisser faire”) của Adam Smith và David Ricardo trong truyền thống chủ nghĩa tự do (sơ kỳ) của Hobbes và Locke. Với Mill, dân chủ quả là hình thức chính thể duy nhất hợp lý vì nó dựa trên sự tự do và bình đẳng của người công dân. Nhưng, theo ông, nó cũng chứa đựng nguy cơ tiềm tàng vì nền dân chủ khó điều hoà giữa tự do và bình đẳng. Ông đưa ra hai suy nghĩ:
+ người ta thường xem nhẹ nguy cơ đè nén các nhóm thiểu số bởi các thể chế dân chủ, vì thế không thấy sự bức thiết phải bảo vệ thiểu số. Nguyên do là ở quan niệm cố hữu và đơn giản của chủ nghĩa tự do sơ kỳ, xem chế độ dân chủ là “của dân, do dân và vì dân”, theo đó dân chủ là thể chế chính trị ít nguy hiểm hơn cả bởi một nhân dân tự cai trị thì không thể hành động chống lại các lợi ích của chính mình. Mill nhận ra rằng, dân chủ – cũng như mọi hình thức cai trị khác – đều có khả năng đè nén thiểu số bởi đa số thống trị: “nhân dân cai trị không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhân dân bị cai trị, và sự tự cai trị không phải là sự cai trị của mỗi người đối với chính mình mà là sự cai trị mỗi người bởi mọi người khác”.
+ khác với các hình thức cai trị khác, nền dân chủ không chỉ có quyền lực chính trị mà có cả quyền lực xã hội. Do đó, “công luận” do nhóm cầm quyền chi phối có thể thực thi một sự “chuyên chế của đa số”: … “một sự chuyên chế xã hội còn đáng sợ hơn so với nhiều hình thức áp bức chính trị khác”.
Vì thế, trong Các nghiên cứu về chính thể đại diện / On representative Government (1861, hai năm sau quyển Bàn về Tự do), ông chủ trương thiết lập một nền dân chủ đại diện nhằm tăng cường ảnh hưởng chính trị của các nhóm thiểu số bằng các định chế ổn định cũng như bảo vệ chúng bằng chính “nguyên tắc tự do” trước đây nhằm minh định các ranh giới can thiệp của xã hội.
Vậy, theo Mill, đâu là các chức năng của nhà nước dân chủ? Dù hết sức e ngại sự lạm dụng quyền lực của nó, ông không tán thành quan niệm “nhà nước tối thiểu” của chủ nghĩa tự do sơ kỳ. Song song với việc hạn định ranh giới cho nó như sẽ bàn kỹ hơn ở sau, Mill dành cho nhà nước nhiều chức năng – thậm chí có cả quyền hạn chế tự do cá nhân – để thực thi nhiệm vụ tăng cường “hạnh phúc” của nhân dân. Trong Chương V quyển Các nguyên tắc của kinh tế chính trị học, ông dành cho nhà nước các quyền hạn chế tự do của công dân như sau:
1. Nhà nước có quyền cưỡng bách phụ huynh phải cho con cái đến trường. Giáo dục và đào tạo – như sẽ còn bàn ở mục 5 – là các điều kiện quan trọng nhất cho việc thực thi thể chế dân chủ. Khai sáng bằng giáo dục là điều kiện tiên quyết cho sự tự giải phóng của con người trong tự do. Tuy nhiên, trong giáo dục, nhà nước chỉ nên có vai trò hỗ trợ. Nhà nước không tự mình nắm lấy giáo dục mà chỉ đảm bảo cơ sở tài chính và định chế để cho mọi công dân – không kể nguồn gốc xuất thân – đều được hưởng nền giáo dục tự do. Ngoài ra, nhà nước còn có nhiệm vụ hỗ trợ văn hoá, khoa học và nghiên cứu, nhất là sự phát triển các trường đại học.
2. Nhà nước có quyền định thời gian lao động của công dân để ngăn ngừa sự bóc lột và bảo vệ sức khoẻ của người lao động.
3. Nhà nước khuyến khích việc di dân tự do để giảm bớt áp lực dân số và các nguy cơ của nạn nhân mãn (ông chịu ảnh hưởng ít nhiều của người đồng thời là Malthus).
4. Nhà nước có quyền giám sát mối quan hệ của công dân với môi trường và với thế giới động vật, chống lại việc lạm sát và đối xử tàn bạo với thú vật. Ông đứng trong truyền thống pháp định về các “hội bảo vệ thú vật” ở Anh từ 1821.
Danh sách các biện pháp hạn chế tự do cá nhân được liên tục bổ sung theo các lần tái bản quyển Các nguyên tắc của kinh tế chính trị học. Như thế, Mill không chủ trương một khái niệm tự do cá nhân vô hạn độ, trái lại, gắn chặt nó với các yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Tuy nhiên, băn khoăn lớn nhất của ông trước sau vẫn là nguy cơ hạn chế và kiềm toả sự phát huy “cá tính” bởi các cấm kỵ, quy ước, bộ máy quan liêu và “công luận”. Quyển Bàn về Tự do tập trung vào vấn đề này bằng cách xác định và biện minh chức năng của “nguyên tắc tự do”.
4.2 Chức năng của “nguyên tắc tự do”:
Với nguyên tắc tự do (xã hội chỉ được phép giới hạn tự do của cá nhân nhằm mục đích tự bảo vệ và bảo vệ những thành viên khác), Mill không đề ra một điều kiện đủ, hay cần và đủ mà chỉ đề ra điều kiện cần, cho phép xã hội có quyền hạn chế tự do của con người. Ông chỉ muốn nói: xã hội chỉ được giới hạn tự do cá nhân khi phải bảo vệ những người khác. Ông không nói: trong mọi trường hợp liên quan đến việc bảo vệ những người khác, xã hội có thể hạn chế tự do cá nhân. Vì thế, chức năng của nguyên tắc tự do không phải ở chỗ xác định những hành vi nào phải được xã hội kiểm soát (bằng các quy định luân lý hay pháp luật), mà là ở chỗ định nghĩa rõ lãnh vực các quyền tự do cá nhân mà xã hội tuyệt nhiên không được giới hạn dưới bất kỳ tình huống nào. Việc hiện thực hoá ba quyền tự do cơ bản nói ở trên của cá nhân – trong điều kiện giới hạn ở những con người trưởng thành và trong các xã hội văn minh – không tổn hại đến người khác, nên, dựa theo nguyên tắc tự do, xã hội không có lý do nào để hạn chế chúng cả. Vấn đề đặt ra là Mill phải chứng minh ba quyền tự do nói trên không tổn hại đến người khác. Phần biện minh ấy ta dành cho tiểu mục 4.3 ở sau.
Trong ba quyền tự do ấy, lãnh vực thuộc lối sống riêng tư – dù người khác thích hay không thích – là lãnh vực không thể đánh giá về luân lý nếu lối sống ấy chỉ liên quan đến bản thân cá nhân và không làm liên luỵ đến người khác. Mill nêu ví dụ: lối sống hoang phí là đáng trách nếu vì thế mà bỏ bê trách nhiệm với gia đình; còn sẽ không đáng trách nếu nó không làm ảnh hưởng đến ai cả! Ông dùng khái niệm “lợi ích” (Interest) để phân biệt19. Cá nhân không chịu trách nhiệm trước xã hội về lãnh vực những hành vi thuộc lợi ích trực tiếp của cá nhân. Còn lãnh vực nào có liên quan trực tiếp đến lợi ích của người khác, xã hội có quyền can thiệp. (Bàn về Tự do, Chương V).
Ông hiểu “lợi ích” theo nghĩa “lợi ích chính đáng” của cá nhân lẫn của xã hội. Nhưng, thế nào là “lợi ích chính đáng” và làm sao xác định được nó? Ông bảo: đó là “những lợi ích nhất định được pháp luật quy định rõ rệt hoặc do sự đồng thuận mặc nhiên”. Chính ở đây, Mill gặp trở lại “khó khăn duy nhất và thực sự”. Thật thế, phạm vi của nguyên tắc tự do phụ thuộc trực tiếp vào việc xác định “lợi ích chính đáng”. Nếu khái niệm này được định nghĩa quá rộng về phía cá nhân hay về phía xã hội, nguyên tắc tự do sẽ mất tính chặt chẽ. Thật vậy, theo định nghĩa rộng, thái độ chính trị hay tôn giáo không phù hợp với xã hội có thể bị xem là tổn hại đến lợi ích của những người khác, do đó, phải bị hạn chế, và ngược lại.
Vì lẽ Mill phải bảo vệ các quyền tự do cơ bản đã nêu (tự do lương tâm, tự do ngôn luận, tự do trong lối sống và tự do lập hội) trước sự can thiệp của nhà nước, lẽ ra ông phải cần có một học thuyết về những quyền của cá nhân, độc lập với những quy ước của các xã hội riêng lẻ, cho phép ông nhân danh nguyên tắc tự do để ngăn cấm sự vi phạm. Học thuyết ấy phải đề ra được tiêu chuẩn để quyết định lợi ích nào là lợi ích chính đáng của cá nhân và của xã hội. Ông không mang lại một tiêu chuẩn như thế! Trái lại, còn có vẻ ông nhường cho từng xã hội xác định lợi ích chính đáng bằng các quy ước. Nhưng, nếu nhớ đến mục tiêu của ông là bảo vệ tự do của cá nhân trước “sự chuyên chế của đa số”, thì làm sao ông lại có thể nhường việc định nghĩa về lợi ích chính đáng cho từng xã hội riêng lẻ được?
Mill ý thức rõ về nan đề ấy, nhưng ông vẫn thấy không cần thiết phải đề ra một tiêu chuẩn để xác định lợi ích chính đáng của cá nhân và xã hội và tin rằng vẫn có cơ sở để bảo vệ được ba quyền tự do cơ bản nói trên. Để làm rõ điều này, ta thấy ông có thể lựa chọn một trong hai “phương án lập luận” sau đây:
1. Phát xuất từ định nghĩa về các lợi ích chính đáng của cá nhân và của xã hội. Lấy định nghĩa ấy làm tiền đề rồi dựa vào nguyên tắc tự do để xác định các quyền tự do nào là “bất khả xâm phạm”.
2. Phát xuất từ khẳng định rằng một số quyền tự do nhất định được tính vào cho các quyền tự do của cá nhân, và xã hội không được phép giới hạn. Sau đó đề ra nguyên tắc tự do để chứng minh rằng trong khuôn khổ của thuyết công lợi, các quyền tự do – được thuyết công lợi biện minh – là có lợi cho hạnh phúc tập thể và vì thế, không được phép giới hạn.
Phương án thứ nhất dựa trên quan niệm về pháp quyền tự nhiên như chủ trương của J. Locke trong Hai nghiên cứu về chính quyền (1690), cho rằng ngay trong trạng thái tự nhiên, khi chưa có sự điều tiết pháp lý giữa những cá nhân (“trạng thái chiến tranh của tất cả chống lại tất cả” của Hobbes), cá nhân đã có những quyền tự do không thể xuất nhượng và vẫn phải được tôn trọng trong “khế ước xã hội” khi kết thúc trạng thái ấy. Ngay trong luận văn Tự nhiên (giữa 1850-1858) cũng như trong Bàn về Tự do (tr. 37 và tiếp), Mill đã phản đối quan niệm pháp quyền tự nhiên và lý luận về khế ước xã hội. Vì không thừa nhận “pháp quyền trừu tượng” (tr. 37) nên ông chỉ có thể lựa chọn phương án thứ hai. Nói cách khác, Mill không có công cụ lý luận nào để đặt cơ sở cho tự do và lợi ích chính đáng ngoài quan niệm về công lợi. Vì thế, ông thấy không cần thiết phải đề ra một tiêu chuẩn nhằm xác định các lợi ích chính đáng của cá nhân. Ông đòi hỏi phải tôn trọng ba quyền tự do căn bản nói trên không xuất phát từ giả định về quyền tự nhiên mà từ khẳng định rằng: việc tôn trọng và bảo vệ các quyền ấy không những không có hại mà có lợi cho xã hội và hạnh phúc của cộng đồng. Vấn đề còn lại chỉ là phải biện giải cho quan niệm ấy.
4.3 Biện giải và đặt cơ sở cho nguyên tắc tự do trong khuôn khổ đạo đức học công lợi
Mill dành Chương II của Bàn về Tự do để biện minh sự hữu ích của tự do lương tâm và tự do ngôn luận; dành Chương III cho sự hữu ích của tự do trong lối sống riêng. Ông không bàn nhiều về tự do lập hội vì cho rằng nó là hệ quả lôgíc của hai phần trên và đã được chứng minh đủ vững chắc. Luận điểm bao trùm của ông về sự hữu ích của tự do cá nhân là tiền đề có tính mục đích luận rằng nhân loại có một mục tiêu phát triển cần phải được hiện thực hoá. Ông không bàn nhiều về mục đích này trong Bàn về Tự do, nhưng trong tác phẩm Thuyết Công lợi, ta biết mục đích ấy là sự tối đa hoá hạnh phúc tập thể. Gắn liền với tiền đề này là quan niệm cho rằng con người, về nguyên tắc, có thể trở nên tốt hơn thông qua giáo dục và đào luyện. Với Mill, mục tiêu của tiến bộ xã hội không phải là một ảo tưởng đơn thuần mà là một lý tưởng có thể thực hiện được.
Về tính hữu ích của tự do lương tâm và tự do ngôn luận đối với hạnh phúc tập thể, Mill đưa ra hai lý do tại sao không nên hạn chế nó:
1. Nhất quán với phần triết học lý thuyết, ở đây Mill chủ trương rằng con người là có thể sai lầm. Về nguyên tắc, bất kỳ lý thuyết nào, dù được xem là vững chắc, vẫn có thể là sai. Ta không thể biết một lý thuyết là đúng mà chỉ biết rằng nó chưa được chứng minh là sai. Là bậc tiền bối của Karl Popper, Mill bác bỏ khả năng “kiểm đúng” (tức xác nhận tích cực về chân lý của lý thuyết) và tán thành khả năng “kiểm sai” (xác nhận tiêu cực về chân lý của lý thuyết rằng nó còn đứng vững trước mọi nỗ lực phê phán). Hệ luận: mọi lý thuyết đều cần được liên tục phê phán để có thể thay thế chúng bằng lý thuyết có cơ sở tốt hơn. Do đó, mọi lý thuyết phải để ngỏ cho sự phê phán, tất nhiên kể cả các lý thuyết và quan điểm chính trị. Ông cho rằng “chân lý của một tư tưởng là bộ phận của sự hữu ích của nó”, tức không cho rằng quan điểm sai, trong những hoàn cảnh nhất định, là có lợi cho xã hội hơn là quan điểm đúng. Vì lẽ chỉ có tri thức đúng đắn mới có thể có lợi cho xã hội, nên tự do lương tâm và ngôn luận là không thể bị hạn chế.
2. Trong mọi trường hợp, xã hội chỉ được hưởng lợi khi quan điểm hiện hành bị phê phán: a) nếu nó không đứng vững, ta có cơ hội thay thế nó bằng quan điểm tốt hơn; b) nếu nó đứng vững, thì sự phê phán giúp củng cố lòng xác tín sống động của ta về nó. Sự xác tín luôn bao hàm việc hiểu biết về mọi phản bác có thể có về nó; c) nếu không quyết định được đúng sai thì sự phê phán có lợi ở chỗ hai phía có thể bổ sung và điều chỉnh cho nhau. Tóm lại, “trong tình trạng không hoàn hảo của trí tuệ con người thì sự đa dạng ý kiến phục vụ cho các lợi ích của chân lý”.
Ông cũng đưa ra hai lý do biện minh cho tính hữu ích của sự tự do chọn lựa lối sống riêng đối với hạnh phúc tập thể:
1. Một mặt, quan niệm về tính có thể sai lầm của con người lẫn quan niệm về hạnh phúc cho thấy xã hội không thể giới hạn sự tự do trong việc chọn lựa lối sống và can thiệp vào lãnh vực riêng tư của cá nhân, – chẳng hạn với lý do nhằm giúp cho cá nhân có cuộc sống tốt hơn –, vì, về nguyên tắc, xã hội vẫn có thể sai lầm. Tất nhiên, cá nhân có thể sai lầm trong lựa chọn của mình, nhưng theo Mill, xác suất ấy nhỏ hơn so với xã hội. Vì thế, cá nhân phải được quyền theo đuổi quan niệm hạnh phúc của riêng mình mà không có sự can thiệp của xã hội, miễn là không làm liên luỵ đến người khác.
2. Mặt khác, tự do ấy cho lợi cho sự tiến bộ xã hội. Tiến bộ chỉ có thể có được khi mọi người đều có cơ hội thử nghiệm và trải nghiệm các hình thức khác nhau trong việc tổ chức cuộc sống. Thêm nữa, tự do chọn lựa lối sống là điều kiện cần để những cá nhân xuất sắc thực hiện các dự phóng của mình và qua đó, có thể đóng góp lớn cho tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội sẽ bị ngưng trệ khi bị tước đi quyền tự do ấy, mà hình mẫu tiêu cực của nó, theo Mill, chính là sự trì trệ của xã hội Trung quốc truyền thống.
Khuôn khổ bài viết không cho phép đi sâu vào cuộc thảo luận rất phong phú chung quanh mối quan hệ giữa “nguyên tắc tự do” và “nguyên tắc công lợi” với các ý kiến khác nhau giữa I. Berlin, G. Himmelfarb và J. Gray20. Trong khi Himmelfarb cho rằng nguyên tắc tự do là đồng đẳng với nguyên tắc công lợi nên không thể lấy nguyên tắc sau làm cơ sở cho nguyên tắc trước, thì I. Berlin nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tự do không chỉ có một giá trị công cụ cho việc thực hiện hạnh phúc tập thể mà có giá trị riêng, độc lập với mục đích này, do đó lập luận của Mill chưa đủ vững chắc. Do tính bất định và mơ hồ của khái niệm “hạnh phúc tập thể”, nên có thể diễn ra sự xung đột giữa hai nguyên tắc (tự do và công lợi), và trong trường hợp đó, lấy gì đảm bảo rằng nguyên tắc công lợi không chiếm ưu thế và quyền tự do cá nhân lại không bị giới hạn một cách tùy tiện. Xin gác lại cuộc thảo luận này để dành chỗ tìm hiểu vài khía cạnh khác không kém lý thú và bổ ích trong tư tưởng chính trị xã hội của Mill.
5. Giáo dục
Giải phóng con người ra khỏi những “quy ước” giáo điều của xã hội – vì chúng có thể thoái hoá thành sự chuyên chế tàn bạo nhất – là nguyện vọng của Mill. Cùng với Kant, J. Dewey, ông tin rằng sự giải phóng này, về lâu dài, chỉ có thể đạt được bằng một nền giáo dục sâu rộng (universal education). Nó là đảm bảo duy nhất cho thể chế dân chủ bền vững. Vì thế, như đã nói, nhà nước có trách vụ phải đặc biệt chăm lo cho giáo dục, nhưng không phải bằng cách trực tiếp can thiệp vào tiến trình giáo dục mà bằng sự “khai sáng toàn diện” cho phụ huynh và tạo điều kiện vật chất cho “nền giáo dục toàn dân” đến tận các tầng lớp khó khăn nhất trong xã hội.
Một mặt, ta có thể nói về một nỗ lực dân chủ hoá toàn diện nền giáo dục, nhưng mặt khác, nơi ông, còn có nỗ lực xây dựng một tầng lớp trí thức ưu tú như là thành quả lôgíc của tiến trình phổ thông giáo dục. Ông gọi đó là “clerisy”, tức như một tầng lớp “giáo sĩ thế tục”, hay dễ hiểu hơn, như giới “sĩ phu” ở ta. Đây không phải là tầng lớp trí thức được ưu đãi mà là những người có học vấn vững chắc, làm đối trọng với xu hướng “cào bằng” của xã hội công nghiệp đại trà. Nhưng, cơ hội để tham gia vào tầng lớp này phải được rộng mở cho mọi người và không gắn liền với một giai cấp nhất định nào. Mill tin rằng, trong bối cảnh dân trí đương thời của nước Anh, tầng lớp “trí thức ưu tú” phải có trách nhiệm lãnh đạo xã hội mới thực hiện được yêu cầu canh tân và phát triển. Ông muốn thay thế loại “gentleman in politics” của Bentham bằng loại “scholar in politics” để đáp ứng tình thế. Ông đòi phải loại bỏ tầng lớp cai trị quý tộc dựa vào thừa kế huyết thống bằng tầng lớp trí thức độc lập, được bầu cử một cách dân chủ. Ông khiến ta nhớ đến phong trào Đông Du và Duy Tân trước đây ở nước ta!
6. Dân chủ
Theo Mill, trong bất kỳ nền dân chủ nào, giáo dục và đào tạo đều giữ vai trò quyết định. Vào thời ông, ông biết rằng quyền phổ thông đầu phiếu sớm muộn cũng trở thành hiện thực. Tất cả vấn đề là ở chỗ chuẩn bị như thế nào cho ngày đó để quyền này được sử dụng một cách thực sự hiệu quả. Khẩu hiệu của ông: “Phổ thông giáo dục phải đi trước phổ thông đầu phiếu!” (universal teaching must precede universal enfranchisement!).
Ông vững tin vào khả năng cải thiện của con người (improvability) và khả năng cải tạo thực tại bằng “lý tính tự chủ”. Đồng thời ông cũng biết rằng con đường “cải thiện và thăng tiến” là lâu dài. Vì thế, ông thấy cần tìm ra các giải pháp lâm thời cho tình hình trước mắt. Ông thấm thía rằng, về mặt giáo dục và dân trí, nhân dân lao động nước ông, xét chung, chưa đủ chín muồi cho nền dân chủ, dù ông luôn ủng hộ yêu sách chính trị của họ. Ông vừa thừa nhận nguyện vọng của họ, vừa lo âu – thậm chí sợ hãi – trước sự “bất cập” của họ. Khác với cái nhìn thiện cảm đối với giới lao động Pháp, ông càng nhìn tầng lớp lao động nước ông (Anh) bằng cặp mắt nghiêm khắc bao nhiêu, ông càng thấy yêu cầu cải cách giáo dục là bức thiết bấy nhiêu!
Ông đặc biệt căm ghét tính chất quý tộc của hiến pháp nước Anh. Ngay khi mới 19 tuổi, năm 1825, trước “Debating Society”, ông đã đọc diễn văn về hiến pháp Anh, xem nó là một “hiến pháp của bọn nhà giàu”: “nước ta là một nước tự do, nhưng là tự do theo kiểu Sparta [thành quốc hiếu chiến của cổ đại Hy Lạp]… Chúng ta là một nước cộng hoà quý tộc, thiếu sự kiểm soát của công luận”. Ông đòi phải tăng cường việc kiểm soát bộ máy hành pháp, bẻ gãy quyền lực của tầng lớp địa chủ quý tộc, nhưng không giới hạn quyền tư hữu, thiết lập chính thể đại diện để mở rộng tiếng nói của “những người đóng thuế”.
Ông nồng nhiệt tán thành quyền bỏ phiếu của phụ nữ và quyền bình đẳng giới (trong Subjection of Woman, 1869, mười năm sau quyển Bàn về Tự do). Một quyền hạn quá bình thường đối với chúng ta ngày nay, nhưng là vấn đề hết sức gai góc vào thời đại Victoria!
Ông kiên quyết chống chiến tranh và nhà nước chiến tranh kiểu Sparta. Ông là một trong những nhà chống quân phiệt đầu tiên ở nước Anh đương thời.
7. Chủ nghĩa xã hội:
Đóng góp lớn của các nghiên cứu mới đây là làm sáng tỏ quan hệ giữa Mill và chủ nghĩa xã hội. H. O. Pappé21 đã chứng minh thuyết phục rằng, khác với “huyền thoại” lưu hành lâu nay, Mill quan tâm đến “chủ nghĩa xã hội” không phải nhờ thông qua người bạn chiến đấu và người bạn đời của ông là bà Harriet Taylor. Ông cũng đến với “chủ nghĩa xã hội” không phải do tiếp cận với tư tưởng của K. Marx dù hai ông cùng sống và làm việc một nơi (London) suốt hai mươi năm trời! Hình như hai ông không biết nhau, vì không tìm thấy ghi chú nào về Marx trong toàn bộ tác phẩm của Mill.
Như đã nói, Mill không phải là nhà “cá nhân chủ nghĩa” theo kiểu chủ nghĩa tự do “Laissez-faire” hay thuyết công lợi kiểu Bentham. Khái niệm tự do bao trùm tư tưởng của ông – cũng như quan niệm của ông về công lợi, giáo dục, dân chủ… đều hướng đến xã hội. Vì thế, không ngạc nhiên khi ta đọc thấy trong lá thư vào tháng 11.1848, Mill bảo “chủ nghĩa xã hội là hòn đá tảng quan trọng nhất để cải thiện tình cảnh hiện nay của nhân loại”22. Các quan niệm cơ bản của ông về chủ nghĩa xã hội đã được hình thành trước cả cuộc cách mạng 1848 và trước ngày ra đời Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Ta có thể tìm thấy chúng trong chương “Về tương lai của giai cấp công nhân” trong quyển Các nguyên tắc của kinh tế chính trị học của ông. Ở đó, ông tán thành:
- việc thừa nhận yêu sách của giai cấp công nhân có quyền bình đẳng trong lãnh vực chính trị và – như là điều kiện tiên quyết – tham gia tích cực vào sinh hoạt giáo dục và đào tạo của đất nước.
- quyền tự do liên kết của giai cấp công nhân, tức ủng hộ việc thành lập các hợp tác xã, các tổ chức công nhân và công đoàn.
- tham gia vào việc quản trị xí nghiệp bằng cách hữu sản hoá tư liệu sản xuất và tạo nên một “quỹ chung” (common fund).
- hợp lý hoá tiến trình sản xuất, giảm thiểu gánh nặng lao động của mọi người tham gia sản xuất.
- gia tăng tài sản và sự giàu có không chỉ cho một số ít người mà cho “toàn thể” mọi người lao động.
- bẻ gãy ưu quyền chính trị và kinh tế của tầng lớp địa chủ quý tộc.
Với Mill, chủ nghĩa xã hội không phải là mục tiêu gần của một sự đảo lộn xã hội, mà là một viễn tượng lâu dài hướng đến tương lai. Chịu ảnh hưởng của John Owen, ông chủ trương phải từng bước thử nghiệm “chủ nghĩa xã hội” ở các đơn vị nhỏ, có thể theo dõi được (“communities”) trên cơ sở tự nguyện. Ông chủ trương duy trì quyền tư hữu, cải thiện nó và tạo điều kiện cho công nhân lao động tham gia và lớn lên trong tiến trình tích luỹ tư bản. Với ông, chủ nghĩa xã hội là một đối tượng của nghiên cứu khoa học đầy thận trọng và với tinh thần phê phán, đồng thời là tiến trình thử nghiệm trong thực tiễn. Nó không phải nhất thành bất biến như một kết quả của khoa học, trái lại phải tự chứng minh sự đúng đắn thông qua tiến trình song đôi đó. Thuyết tất định về kinh tế hay lịch sử không có mặt trong thế giới quan của ông.
Đối với khái niệm về “cách mạng”, Mill cũng có một quan niệm tiêu biểu “kiểu Anh”. Ông cho rằng các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội có thể được giải quyết từng bước bằng con đường hoà bình. Ông xem trọng sự đổi mới về tư duy và luân lý như là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của một “chủ nghĩa xã hội hoà bình”. Ông không gọi sự “đổi mới” ấy là “cách mạng” mà là “sự đảo lộn”. Trong thư gửi cho bí thư của “Liên hiệp công nhân quốc tế” hạt Nettingham, ông viết: “dùng chữ “cách mạng” để chỉ bất kỳ nguyên tắc hay quan điểm nào đều là trái với “kiểu Anh”. Cách mạng (Revolution) chỉ là sự thay đổi chính quyền bằng bạo lực, dù do nhân dân khởi nghĩa hay bằng đảo chính quân sự”.
8. Chủ nghĩa đế quốc
Sau tất cả những gì đã trình bày, không có gì đáng ngạc nhiên khi Mill là một nhà tư tưởng kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc. Điều này xuất phát từ lập trường nguyên tắc của ông: không có dân tộc nào có quyền thống trị lâu dài một dân tộc khác; trái lại, mỗi dân tộc có quyền và có bổn phận tự cai trị chính mình. Tuy nhiên, sự “tự cai trị” (self-government) ấy, một lần nữa, chỉ thực hiện được một cách hiệu quả là khi những người cai trị phải là những “educated people” (những người có học vấn). Ông cho rằng “sứ mệnh của nước Anh” phải là người mở đường cho “tự do, dân chủ và tự-cai trị”. Về lâu dài, theo ông, “đế quốc Anh” muốn còn có lý do tồn tại phải trở thành “Cộng đồng thịnh vượng chung” của các quốc gia độc lập, hợp tác hữu nghị và hoà bình. Với tư tưởng viễn kiến ấy, ông có ảnh hưởng và tác động lớn về tinh thần trong tiến trình giải thực đối với chủ nghĩa thực dân Anh. Manfred Schlenke, trong Lời bạt cho bản dịch Bàn về Tự do sang tiếng Đức, nhận xét: “Trong lịch sử của tư tưởng tự do, Mill giữ một vị trí đặc biệt. Ông đã nhìn thấy trước rằng chủ nghĩa tự do sẽ tự đào huyệt chôn mình, nếu nó – gắn chặt với lý tưởng tư sản – cứ mãi là tên lính xung kích cho những lợi quyền tư bản chủ nghĩa. Theo Mill, chỉ bằng cách hội nhập với giai cấp công nhân và những quyền lợi của họ, chủ nghĩa tự do mới có cơ may trở thành một quan niệm chính trị mà mọi người có thể chấp nhận được và mở đường tiến bộ cho nhân loại” (tr. 179).

9. Tóm lại, đọc Mill, ta có dịp hiểu thêm về cách đặt vấn đề lẫn những chỗ mạnh, chỗ yếu vốn gắn liền với lập trường duy nghiệm và duy tự nhiên (naturalistic) trong triết học nói chung, đồng thời nhận ra các biến thái và khả năng tự điều chỉnh của “chủ nghĩa tự do” – dẫn đến các thay đổi sâu sắc trong xã hội Tây phương mấy mươi năm qua – để tự rút ra những bài học bổ ích cho chính mình.