Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN ĐÃ CHẾT

CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN ĐÃ CHẾT

Ai chưa thì đọc bài này trước đã : "Bản chất của nhà nước" https://www.facebook.com/skepticvietnam/photos/722482231173992/

Chính trị vừa đơn giản vừa phức tạp, đơn giản là vì để thấu hiểu nó không khó, phức tạp là vì có quá nhiều trường phái, thuật ngữ khiến ta loạn cả đầu. Nhưng dù bạn cố không quan tâm đến chính trị thì nó vẫn cứ theo chân bạn ... mỗi ngày.

Bản chất của chính trị chỉ tóm gọn trong 2 thứ : QUYỀN LỰC và LỢI ÍCH
Chẳng lẽ bạn lại không bao giờ quan tâm đến quyền của bạn, lợi ích bạn đã đang sẽ có và mất ?

Ở thời phong kiến, quyền lực và lợi ích tập trung hết vào tay vua, vua chính là luật. Cũng chính bởi không còn ai to hơn vua nên tha hồ mà trác táng, ngân khố cạn kiệt lại cứ đầu dân mà bổ, dân làm lắm nhưng mình vua hưởng hết, căm lắm nên lật, tước hết quyền của vua chia cho nhiều đại diện nhân dân quyết định, tức là lật đổ quân chủ, chuyển sang dân chủ.

Nhưng dân chủ thế nào lại là chuyện mà thiên hạ đấu tranh cả mấy trăm năm nay chưa định hình được. Bởi vì có 2 thứ phải phân chia là Quyền lực và Lợi ích chia cho TOÀN BỘ NHÂN DÂN. Từ đó là nhiều thứ Chủ Nghĩa ra đời, mỗi thứ chủ nghĩa lại là 1 kiểu phân chia ( xem bảng )

Đầu tiên bạn cần hiểu 2 trục :

I. trục Lợi ích (trục màu xanh) : Lợi ích được hiểu gồm tiền, đất, tài sản ... mà trong đó cực CNTB thì cho các lợi ích đó là của riêng, còn CNXH thì cho các lợi ích đó là của chung. Của riêng thì tự làm tự hưởng, của chung thì không làm vẫn hưởng. Để phân chia, người ta cắt 1 phần tài sản cá nhân ra đóng góp thành quỹ chung và phân phát ra cho toàn xã hội ( vd đóng thuế để có tiền làm phúc lợi xã hội ) Trục Lợi ích chính là thước đo % tài sản cá nhân đóng góp vào quỹ chung.

II. trục Quyền lực (trục màu đỏ) : Để hiểu trục này ta cần phần chia xã hội ra làm nhà nước và nhân dân là 2 đối tượng riêng biệt song song tồn tại. << Ở VN ta hay nghe nói : Nhà nước là từ dân mà ra, nên tất cả đều là dân --> câu nói này là bịp bợm, đã làm cho nhà nước thì là quan chức nhà nước, không phải là dân nữa, sự bịp bợm này tạo ra rất nhiều sự hiểu lầm >> Trục Quyền lực được hiểu như sau :
- Nếu quyền lực của nhà nước càng lớn thì vị thế của người dân càng nhỏ và dần bị đè bẹp, xã hội sẽ chuyển dần về thời phong kiến.
- Chiều hướng ngược lại không phải là quyền lực của người dân lấn lướt quyền hành của nhà nước, mà là khi người dân tự ý thức việc mình làm thì nhà nước sẽ dần ít việc đi và dần dần biến mất. ( nếu dân ai cũng tự chấp hành luật giao thông thì CSGT sẽ biến mất khỏi biên chế nhà nước )
Sự phân chia quyền lực phụ thuộc vào Dân trí, nếu ý thức người dân kém, thì đương nhiên nhà nước nhiều việc kèm theo nhiều quyền hơn, chính bởi vậy nếu nhà nước muốn có nhiều quyền lực thì phải ngu dân. Ngu dân không chỉ nằm ở việc giáo dục mà ở việc thả nổi cho toàn xã hội phạm pháp, tham nhũng, hối lộ, để đến khi người dân muốn lên tiếng thì ai cũng đều có tội cả, muốn bắt, muốn giết không ai phản đối được. Hội hay nói đến việc : Tham nhũng ở VN giờ trở thành hợp lý và hợp pháp --> ý chính là như vậy : toàn xã hội ai cũng phạm pháp thì làm gì có quyền mà phản đối nhà nước.

Và khi đã hiểu rõ 2 trục Quyền lực và Lợi ích thì các thứ Chủ nghĩa này nọ chỉ là các cách phân chia khác nhau của 2 trục trên. Dĩ nhiên có rất nhiều cái tên gọi, nhưng chia làm 4 xu hướng chính :

1. Chủ nghĩa tự do (Liberalism) có đại diện là Mỹ, Mỹ không hề biết đến cái gọi là phong kiến nên họ không bị tư tưởng này áp đặt. Ở Mỹ mạnh ai nấy sống nên tiền và quyền đều là vấn đề cá nhân. Vấn đề giàu nghèo cũng phân biệt hết sức rõ rệt vì họ coi đó là chuyện cá nhân. Nhiều người thường thích lấy cái nghèo ở Mỹ ra để miệt thị, nhưng họ chẳng hề quan tâm đó là do tư tưởng tự do trong xã hội Mỹ.

2. Chủ nghĩa vô chính phủ (Anarchism) chưa có đại diện nào rõ ràng. Vô chính phủ ở đây không phải là tình trạng vô chính phủ hỗn loạn, mà như đã nói trong mục II khi ý thức người dân lên cao thì chính phủ sẽ dần dần biến mất, kèm theo đó là phúc lợi xã hội cao sẽ giúp đỡ cho nhiều người bất hạnh khác.

3. Chủ nghĩa Marx (Marxism) có đại diện là Liên Xô, sau khi CMt10 đạp đổ Sa hoàng lập tức dùng quyền lực nhà nước công hữu toàn bộ tài sản trên khắp cả nước, tài sản cá nhân hầu như không có. Cần hiểu cách mạng XHCN nghĩa là cắt 1 phần tài sản cá nhân ra để dùng vào việc chung, nhưng ở Liên Xô người ta không lấy 1 phần mà lấy tất cả, nó có cái tên gọi rất nổi tiếng : CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

4. Chủ nghĩa phát xit (Fascism) khỏi nói ai cũng biết đại diện là ai, nhưng hầu hết mọi người đều không nhận ra chủ nghĩa phát xít thực sự là gì. Hội không nói về tư tưởng phát xit như bài ngoại, phân biệt chủng tộc, nó chỉ là tác dụng phụ, và khiến người ta tưởng tượng ra 1 thứ hoàn toàn khác. Fascis nghĩa là Nhóm, chủ nghĩa này chủ trương tập trung hết quyền lực và lợi ích vào 1 nhóm - nhóm cầm quyền. Cho nên tất cả các chính quyền độc tài, nhà nước toàn trị hay các siêu tập đoàn, nhóm lợi ích giành "toàn quyền" điều khiển đất nước .. thì đều là nó cả, đương nhiên chẳng thằng nào chịu nhận mình đi theo chủ nghĩa phát xit cả. Chủ nghĩa phát xít chỉ là 1 hình thức khác của phong kiến, thay vì tập trung vào 1 người là vua thì giờ là 1 nhóm mà thôi.
Dĩ nhiên nhiều người sẽ bảo giờ nước nào chẳng phải do nhóm người cai trị. Chủ nghĩa phát xit đương nhiên có đặc trưng, đó là triệt tiêu nhóm đối lập bằng bạo lực để được độc quyền lãnh đạo và thu lợi lộc.

5. Vùng màu vàng ở trung tâm - Xã hội dân chủ (Social-democracy) được đa số các nước phát triển lựa chọn, vì nó chia đều cả 2 trục quyền lực và lợi ích để hạn chế sự xung đột trong xã hội. Xã hội ở đây chính là xã hội chủ nghĩa, nhưng nó không phải là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cộng sản đã biến mất hoàn toàn khỏi thế giới. Vẫn là cuộc cách mạng XHCN, nhưng là chỉ cắt 1 phần tài sản cá nhân ( ở đây chỉ là 50% thu nhập ) để chia cho toàn xã hội. đó chính là cái mà ở VN người ta kể là CNTB đã thay đổi để tiếp tục tồn tại. Xã hội dân chủ quan trọng nhất yếu tố con người, bởi vì họ đã đóng góp 1 phần lớn trong tài sản của mình cho xã hội, nhà nước được thành lập chính là để phân chia số tài sản chung này.

- Nhưng dân mỗi người 1 ý kiến thì phân chia thế nào ?
Những người có cùng 1 ý kiến sẽ tập hợp thành 1 Đảng phái, các Đảng phái đó sẽ cử đại diện đi đấu tranh với các Đảng phái khác không cùng ý kiến với mình, ai được nhiều người ủng hộ hơn người đó sẽ thắng, đó chính là phần Dân chủ trong mô hình xã hội dân chủ.
Người dân cả 1 đất nước không thể nào có cùng 1 ý kiến, nên chuyện 1 nước chỉ có 1 Đảng như VN là chuyện bịp bợm, Đảng phải là để đấu ý kiến với nhau, ai có lý hơn người đó thắng, 1 Đảng thì anh đấu với ai ?

Nhiều người thường đánh đồng Chủ Nghĩa Xã Hội với Chủ Nghĩa Cộng Sản dù 2 cái này khác nhau, từ đó dẫn đến nhiều sự ngụy biện. Chủ nghĩa Cộng Sản có đặc trưng là lấy hết toàn bộ tài sản cá nhân trong nước, ngày nay ta không thấy có nước nào làm như vậy nữa (kể cả VN, TQ), đương nhiên là chủ nghĩa này đã chết, chết hoàn toàn. Nhưng có người cứ khoái hoang tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ chính là chủ nghĩa cộng sản đẻ ngụy biện cho sự tồn tại dưới cái tên ở những nước gọi là Cộng sản còn sót lại.

Chủ nghĩa mà chính quyền VN hiện nay theo đuổi không phải là chủ nghĩa Cộng Sản, tất nhiên không phải là Dân Chủ Xã Hội, vậy thì nó là gì ?
Vậy hay nhìn lại hình vẽ của Hội, khi tài sản trước đã bị công hữu giờ chuyển hết sang tư hữu, nhưng tư hữu là vào túi ai ? À nhắc lại 1 ý ở trên : << Ở VN ta hay nghe nói : Nhà nước là từ dân mà ra, nên tất cả đều là dân --> câu nói này là bịp bợm, đã làm cho nhà nước thì là quan chức nhà nước, không phải là dân nữa, sự bịp bợm này tạo ra rất nhiều sự hiểu lầm >>
Đáng lẽ tư hữu là cho nhân dân, nhưng các quan tự nhận mình là dân, nên tư hữu vào hết túi quan, xây nhà nghỉ cho quan, cấp tiền cho quan đi du lịch, ăn uống, hut hít, gái gú, tặng quà lẫn nhau ... Bịp bợm chính là ở chỗ ấy, các quan tự nhận mình là dân, rồi chia chác của cải cho "dân quan".

Nhắc lại nhé : Khi mà quyền lực và lợi ích tập trung hết vào 1 nhóm ( ĐCS ) điều hành đất nước thì đó chính là chủ nghĩa phát xít. Đặc trưng của chủ nghĩa phát xít chính là triệt hạ đối lập bằng bạo lực để được độc quyền lãnh đạo và tha hồ bóc lột đất nước.


Hội Sceptic Việt Nam

CHÂN DUNG QUYỀN LỰC

CHÂN DUNG QUYỀN LỰC

Chắc hẳn các bạn còn chưa quên trang này, chỉ trong một thời gian ngắn hoạt động nhưng blog này đã thu hút một lượng lớn độc giả bằng những tin tức hậu trường chính trị VN dưới phong cách hết sức chuyên nghiệp chứ không hổ lốn như các blog chính trị khác.

Đặc biệt là khi CDQL đăng tin về tình hình của ông Nguyễn Bá Thanh, người đã biết mất bí ẩn từ nhiều tháng trước đó. Độ hot của CDQL diễn ra trong vài tháng cho đến khi ông Nguyễn Bá Thanh từ trần.

Từ đó đến nay CDQL không còn hoạt động nữa, mặc dù là có một vài clone nhưng không còn bài nào có giá trị thông tin như nó đã từng đăng tải trước đó.

Người ta đặt câu hỏi ai là người đứng đằng sau blog này ? Liên kết các dữ kiện trên, không ai khác chính là ông Nguyễn Bá Thanh.

Bất chấp mọi nỗ lực trấn an dư luận rằng cái chết của ông Thanh là hoàn toàn tự nhiên, nhưng những người tinh ý đều nhận ra đây là ám sát chính trị, lãnh đạo cấp cao như các ông đều được chăm sóc sức khỏe đặc biệt với những bác sĩ giỏi nhất, không ai ra đi chóng vánh trong chưa đầy 1 năm như thế cả.

Sau vụ việc của ông Nguyễn Bá Thanh, câu hỏi là Sẽ còn ai dám đứng ra chống tham nhũng nữa ? Ai sẽ dám tiếp bước ông Thanh khi mà người ta đã chứng kiến toàn bộ những gì đã xảy ra với ông ?

Ở VN việc chống tham nhũng không phải của người dân, chẳng phải của nhà báo, còn lãnh đạo nào muốn chống thi cứ nhìn gương ông Thanh. Đó có lẽ là cách chống tham nhũng mà Ai Cập muốn học tập chăng ?




Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Chân tướng đằng sau sự bùng nổ dân số thế giới

Thời thịnh thế trữ đồ cổ, thời loạn thế mua vàng kim, thời mạt thế phải tu hành
Tác giả: Trương Kiệt Liên
[Chanhkien.org] Người Trung Quốc có câu ngạn ngữ: “Thời thịnh thế trữ đồ cổ, thời loạn thế mua vàng kim“, ấy là nói về sách lược ứng phó để giữ tiền bạc của người đời, ngôn từ giản dị mà ý nghĩa minh bạch. Trải qua mấy nghìn năm hết thịnh thế lại đến loạn thế, câu nói này vẫn lưu truyền đến nay; điều ấy chứng tỏ con người ta đều có nhận thức giống nhau về vấn đề này trên thực tiễn.
Luân chuyển giữa thịnh thế và loạn thế là trạng thái bình thường của thế gian. Câu ngạn ngữ này chỉ nói với chúng ta rằng cần xử lý như thế nào để bảo trì và gia tăng lợi ích của bản thân trong mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, vạn sự vạn vật đều có chu kỳ thành-trụ-hoại-diệt, xã hội nhân loại cũng có trạng thái cuối cùng mà trong kinh Phật gọi là thời “mạt pháp, mạt kiếp”. Vào thời này con người phải làm sao đây? Con người thời mạt thế phải làm sao để bảo toàn lợi ích tối đa?
Vấn đề này nói ra rất mẫn cảm. Nếu như nhân loại vẫn chưa đi đến trang cuối cùng của lịch sử, thì vấn đề “kỵ húy” này cũng không cần phải động chạm tới. Chính như câu ngạn ngữ nói, đó là liên quan tới thịnh thế và loạn thế. Kỳ thực, toàn bộ câu ngạn ngữ chỉ liên quan đến một vấn đề then chốt: thời mạt thế phải tu hành.
Lời dạy của người xưa thực ra là: “Thời thịnh thế trữ đồ cổ, thời loạn thế mua vàng kim, thời mạt thế phải tu hành.”
Lẽ nào nhân loại đang sống đúng vào thời mạt thế? Có gì làm bằng chứng không? Đáp án là có. Đối với người tu luyện mà nói, đây không phải là điều gì bí mật cả, chỉ là con người hiện đại chịu ràng buộc của các quan niệm cố hữu mà không nguyện ý tìm hiểu, hoặc có tiếp xúc thì cũng bán tín bán nghi.
Trên thực tế, rất nhiều lời tiên tri nổi tiếng trên thế giới đều chỉ nói đến thời kỳ này của nhân loại rồi chấm dứt. Nếu như không phải tất cả họ đều thông đồng để lừa con người hiện đại chúng ta, thì đây chính là chứng cứ đầy đủ, điều có thể khiến nhân loại ngày nay tự mình phán xét.

Biểu đồ dân số thế giới qua các thời kỳ.
Biểu đồ dân số thế giới mấy nghìn năm qua có thể rất trực quan để chúng ta thấy, rằng thời mạt thế sẽ phát sinh sự kiện gì? Trên biểu đồ ghi chú: Trước cách mạng nông nghiệp mấy nghìn năm trước, dân số thế giới cơ bản ổn định. Sau cách mạng nông nghiệp, dân số dần dần tăng lên. Tăng dần cho đến cách mạng công nghiệp. Đến đây, đường dân số bắt đầu vọt lên cao. Dân số thế kỷ này tăng lên rất nhanh chóng, cứ 10 năm tăng 1 tỷ người. Đến đầu năm 1992, dân số đã đạt 5,5 tỷ người. Dự kiến đến năm 2032, dân số thế giới đạt 9 tỷ người. Từ đó có thể thấy, nói rằng thế giới chúng ta đang trải qua sự bùng nổ dân số thì cũng không quá.
Mấy nghìn năm qua, dân số loài người tăng lên chầm chậm, điều này có thể dễ lý giải. Nhưng vì sao đến cách mạng công nghiệp, dân số lại đột nhiên bùng nổ? Bùng nổ dân số đã trở thành dấu hiệu trọng yếu cho thời mạt thế của nhân loại, là vì nguyên nhân gì?
Ở đây, chúng ta không đàm luận từ góc độ khoa học kỹ thuật, rằng sự tiến bộ y tế khiến dân số tăng trưởng nhanh như thế nào, v.v. Thực ra, điều này có thể có tác dụng bang trợ, nhưng không thể đột nhiên cải biến quỹ tích của đường cong dân số. Chúng ta có thể lấy khái niệm đồ thị giá cổ phiếu mà mọi người đều quen thuộc để liên tưởng.
Nếu như đem biểu đồ dân số coi như biểu đồ chứng khoán, thì hiển nhiên mấy nghìn năm trước chưa hình thành giá thị trường. Đến cách mạng công nghiệp, rõ ràng người ta đã nghe nói về thị trường, liên tục tiến vào và khiến giá cả dần tăng lên. Đến thế kỷ này biểu đồ dựng đứng, thì những người chơi chứng khoán đều biết, một số lượng lớn người đã tiến vào; hiển nhiên cơ hội ở tại đây, nên người ta đều đến cả.
Một thị trường siêu cấp cuối cùng đã hình thành tại thế gian nhân loại sau hàng nghìn năm chờ đợi. Thời kỳ này chính là thời kỳ mà các lời tiên tri nổi tiếng ở cả Đông và Tây phương gọi là “đoạn kết”, cũng có thể nói là thời mạt thế.
Hiển nhiên, thị trường này liên quan đến chỉ tiêu nhân khẩu và thu hút sinh mệnh khắp nơi ào ào tiến đến làm người. Nói cách khác, giá trị được nhà đầu tư coi trọng đã tăng lên trên thị trường siêu cấp, khiến tiền bạc không còn quan trọng nữa; nhà đầu tư đã bỏ một lượng lớn vốn để đến làm người, và đến hiện nay, họ đã không lầm khi chọn làm người. Từ đó nhân gian xuất hiện tình cảnh “cứ 10 năm tăng 1 tỷ người”.
Bởi vì thị trường này và sinh mệnh là có tương quan, nên việc bảo trì và gia tăng giá trị sinh mệnh đã trở thành động lực trung tâm của thị trường này. Đồ cổ có thể trữ, vàng kim có thể mua, còn sinh mệnh thì tính sao đây? Sinh-lão-bệnh-tử, ai có thể nắm chắc? Có thể người ta đều nghĩ đến tu hành để được cứu độ.
Trên thực tế, trong mấy nghìn năm qua, cho dù là Phật gia, Đạo gia, Thiên Chúa giáo hay Cơ Đốc giáo, thì tất cả chính giáo của nhân loại đều nói với chúng ta một vấn đề, đó là Cứu Thế Chủ được chờ đợi đã tới, Thần Phật sẽ cứu độ thế nhân. Xã hội nhân loại thời kỳ này cũng được gọi là mạt thế.
Người tu hành có thể được cứu độ, thế nhưng giữa tu hành và mạt thế có quan hệ gì? Theo kinh nghiệm quá khứ, người tu hành phải vào chùa miếu hoặc làm đạo sĩ, cũng có người lên núi sâu để mật tu. Đương nhiên, nếu nhiều người vào chùa thì xã hội nhân loại sẽ không thể vận hành một cách bình thường; như vậy, khi nhiều người đến xã hội nhân loại thời mạt thế để tu luyện thì có lẽ họ sẽ không theo cách thanh tĩnh vô vi như trong quá khứ. Nhân loại có thể xuất hiện một hiện tượng đặc biệt, đó là người ta không ly khai thế tục mà vẫn có thể tu hành viên mãn.
Điều này nghe như không thể tưởng tượng nổi, nhưng trường hợp đặc biệt đã xuất hiện. Khi một lượng lớn sinh mệnh đến để làm người, vào năm 1992 khi dân số thế giới lên đến 5,5 tỷ, tại Trung Quốc xác thực đã xuất hiện một pháp môn thượng thừa của Phật gia mà không thoát ly thế tục để tu luyện. Đây chính là Pháp Luân Công, còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp, lấy tu luyện “Chân-Thiện-Nhẫn”, đặc tính vũ trụ làm trung tâm, kèm theo bộ 5 bài công pháp diễn luyện thân thể. Xác thực có vô số người đã được hưởng lợi ích, nhờ sinh mệnh thăng hoa mà vui mừng giới thiệu cho người khác, khiến người tu ngày một đông.
Trước đó, trong lịch sử nhân loại cũng có pháp môn tu luyện giữa sinh hoạt đời thường, nhưng hoàn toàn không được ghi lại. Sự bùng nổ dân số nhân loại và pháp môn phổ truyền để đại chúng tu luyện giữa thế tục chẳng phải thật trùng hợp? Chẳng lẽ Thiên ý đã sớm định trước?
Cho dù thế nào, thì người ta vẫn thấy rõ một sự thật, đó là sau mấy năm hồng truyền, đến năm 1997, tại Trung Quốc đã có khoảng 100 triệu người tu luyện Pháp Luân Công; đạo lý “mạt thế phải tu hành” đã được người ta thấy rõ.
Nói đến mạt thế, người Trung Quốc ngày nay có câu rất kêu: “Nếu trời có sụp, phải chết thì chúng ta chết cùng nhau.” Ý là cho dù điều gì xảy ra đi nữa thì cứ tận hưởng lạc thú trước mắt cái đã. Kỳ thực, người ta chỉ cần tĩnh tâm nhìn vào biểu đồ dân số thế giới thì sẽ rõ ngay. Cũng bao gồm cả những người huênh hoang kia, họ đều là những sinh mệnh đến để làm người; còn đối với những người chịu ảnh hưởng của thuyết vô thần, thật chẳng khác gì họ tự khinh rẻ chính mình.
Tuy nhiên nhân loại đây là không gian mê. Chúng ta có thể thấy, khi nhân loại xuất hiện “bùng nổ dân số” thì nhất định là một lượng lớn sinh mệnh muốn bảo đảm chắc chắn sẽ gặp Đại Đạo ở đây và vì thế tranh nhau mà đến. Vì nguyên nhân ấy, nên tưởng rằng rất hỗn loạn khó hiểu mà lại rất hợp tình hợp lý.

Nhân loại chính đang trong thời kỳ lịch sử đặc thù mà kinh Phật «Vô Lượng Thọ» ghi lại: Ưu Đàm hoa là thiên hoa chỉ điềm lành linh dị, trên thế gian không có, ba nghìn năm mới nở một lần. Khi hoa này nở là báo hiệu Chuyển Luân Thánh Vương đã tới hồng truyền pháp môn tu luyện mà không đoạn tuyệt duyên trần. Chuyển Luân Thánh Vương, còn gọi là Chuyển Luân Pháp Vương, với Phật Di Lặc tương lai được dự ngôn trong kinh Phật là cùng một người.
Kể từ năm 2005, tại rất nhiều nơi trên thế giới, người ta đã phát hiện thấy hoa “Ưu Đàm Bà La” khai nở. Theo kinh Phật «Vô Lượng Thọ» ghi lại: Ưu Đàm hoa là thiên hoa chỉ điềm lành linh dị, trên thế gian không có, ba nghìn năm mới nở một lần. Khi hoa này nở là báo hiệu Chuyển Luân Thánh Vương đã tới hồng truyền pháp môn tu luyện mà không đoạn tuyệt duyên trần, không thoát ly thế tục mà có thể tu thành Như Lai.
Chuyển Luân Thánh Vương, còn gọi là Chuyển Luân Pháp Vương, với Phật Di Lặc tương lai được dự ngôn trong kinh Phật là cùng một người. Khi quan sát sự “bùng nổ dân số” thế giới, chúng ta có thể thấy mục đích các sinh mệnh là mượn thân người để đắc Pháp; thân người đã trở thành một thứ vô cùng trân quý trong vũ trụ.
Nếu như hỏi con người hiện đại phương án đầu tư tốt nhất cho sinh mệnh, thì “mạt thế phải tu hành” đã trở thành điều bảo chứng tốt nhất cho sinh mệnh bản thân. Người ta có thể quan sát thấy hiện tượng này, đó là trong các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, họ coi rất nhẹ những kiếp nạn thời mạt thế như được nói trong các truyền thuyết; không phải là họ không tin, mà là họ có tín tâm vào bản thân.
Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” (Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về), hai câu mở đầu bài thơ «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung tiên sinh triều Tống cũng là lời cảm thán đối với sự “bùng nổ dân số” của nhân loại thời mạt thế. Cứu độ thời mạt thế, vạn cổ nay trở về. Hỏi có mấy người trở về, bao nhiêu Vương giả quy vị; bao nhiêu người phải trả hết nợ, mà lưu lại hối tiếc mãi mãi?
Dịch từ:

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

7 ĐIỀU CẦN "HỌC" ... SUỐT ĐỜI

7 ĐIỀU CẦN "HỌC" ... SUỐT ĐỜI
Thứ nhất, "học nhận lỗi". Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.
Thứ hai, "học nhu hòa". Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Giữ tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn
Thứ ba, " học nhẫn nhục". Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.
Thứ tư, "học thấu hiểu". Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?
Thứ năm, "học buông bỏ". Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!
Thứ sáu, "học cảm động". Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ mừng vui cùng cho họ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
Thứ bảy, "học sinh tồn". Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bè bạn yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân
- ST -

___________________________

Đừng ước rằng mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Hãy ước bạn tài giỏi hơn.
Đừng ước rằng bạn sẽ có ít rắc rối trong cuộc sống. Hãy ước bạn có nhiều kỹ năng hơn.
Đừng ước cuộc sống của bạn có ít thử thách. Hãy ước bạn khôn ngoan hơn.
- Jim Rohn -

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

BÀI CA BÃO TÁP

BÀI CA BÃO TÁP
Hỡi bão bùng gió lốc
Ngươi hãy gầm nữa lên
Quất mạnh vào núi dốc
Băng qua ngàn thảo nguyên!
Nào ai cản được ngươi
(Dù sức người, sức đá)
Vì ngươi là bão tố
Chân không được bước lui!
Ngươi hãy ôm vũ trụ
Xiết mạnh nó vào lòng
Gầm to cơn phẫn nộ
Trước cảnh đời bất công
Hãy đòi cả bầu trời
Cùng xông vào chiến đấu
Cho mây trời tóe máu
Trong lửa bốc thành hơi!
Vậy mà sao chính ngươi
Lại hát lời rệu rã
Như giọng bầy trẻ nhỏ
Lạc lõng muôn phương trời?
Sao ta không được nghe
Khúc ca đầy hy vọng
Mà toàn thứ giọng rè
Khô khan và trống rỗng?
Ta như bị trói tay
Trước nghìn vành móng ngựa
Trời thì giam ý nghĩ
Thân thì không cánh bay!
Tim ta mới nghèo sao
Không thể gây điện thế
Thần thánh cũng từ lâu
Bỏ ta, theo chớp lóe!
Tim ta vẫn gầm vang
Ôi trái tim nóng bỏng
Nỗi đau dâng thành sóng
Ầm ầm trên đại dương!
Ngươi ở đâu, bão táp
Ngươi chìm đi rồi sao?
Ồ, ngươi không đủ sức
Làm nên cơn sóng trào!
Thôi để ta xông lên
Chân trời cao bốc lửa
Cuồn cuộn nhịp thăng thiên
Khói lửa thông hối hả ...
Khi nào ta tới đích
Sẽ hỏi chuyện chúa trời
Ngay trong lời quở trách
Than lửa cũng sục sôi!
Và trời phải sụp rơi
Ta rơi theo trời đó --
Dù mây mù chớp lửa
Ta vẫn là ta thôi! ...
(-- Karl Marx)

Tướng mệnh

Thầy là người chỉ ra con đường (đạo) để một (hoặc nhiều) người nương theo đó mà đi, trong quá trình đi ấy mà cá thể (tập thể) kia trải nghiệm để thăng hoa. Tuy nhiên cũng có con đường đúng và con đường lầy lội như đường về nhà bà nội...
Sử Kí 史記: Quốc hữu đạo, tức thuận mệnh; quốc vô đạo, tức hành mệnh 國有道, 即順命; 國無道, 即衡命 (Quản Yến truyện 管晏傳) Nước có đạo, thì tuân theo mệnh; nước không có đạo, thì chống lại mệnh.
****************
Sinh thời Khổng Minh thường hoài bão cái chí:''Ở đời khác thường, làm sự nghiệp phi thường, cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem hạnh phúc cho thiên hạ''.
Rút cuộc, sự nghiệp phi thường nửa đường đứt gánh, độc thiện kỳ thân chẳng xong, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dầu ông đã cố gắng hết mình cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, cộng với cái tài lược hơn người, thế mà tâm trạng Gia Cát Khổng Minh lúc chết thật bi ai. Gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại đi xem các chỗ đóng quân. Gió thu thổi mạnh lạnh buốt tới xương, mới thở dài than rằng:
''Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa
Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi
Muôn việc chẳng qua do số vận
Người sao cưỡng được lòng trời''.
Cái lý do gây ra Cổ kim Anh hùng cũng khó chống lại số mệnh.
Việc đời thiên hình vạn trạng, sớm thay chiều đổi không đi ra ngoài vòng thiên số.
Bởi thế, cụ Trạng Trình mới dạy người sau:
''Khôn cũng chết, dại cũng chết. Biết thì sống.
Biết ở đây có nghĩa là Tri mệnh.

******************
Người kẻ sĩ sẵn sàng hi sinh cho người tri kỷ, người phụ nữ thì thường bao dung che chở cho người làm mình vui. (Chiến Quốc Sách)

Bây giờ ngộ ra một điều: Người cạnh ta cũng phải biết cách dỗ dành họ thì họ mới hết mình với ta. Người phụ nữ khi mình dỗ dành họ vui thì họ mới phục vụ ta hết mình.

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Lưỡi không xương…

Lưỡi không xương…
SGTT.VN - “Trăng lặn. Mặt trời mọc…”, cách nói quen thuộc và đầy hình tượng ấy thật ra… không đúng. Mặt trời chẳng từ đâu mọc lên và mặt trăng chẳng lặn đi đâu hết! Những “sai lầm” mang lại sự linh hoạt, hấp dẫn cho ngôn ngữ và văn chương nghệ thuật sẽ không còn vô hại khi đi vào thế giới khoa học.
Hiểu ngôn ngữ như là phương tiện truyền thông, Francis Bacon yêu cầu sự chính xác và gọi những sai lầm ấy là ngẫu tượng cái Chợ. Từ gợi ý của Bacon, thế kỷ 20 còn nhận ra rằng ngôn ngữ không chỉ là phương tiện truyền thông mà còn là không gian hành động xã hội tạo nên sự cảm thông, đoàn kết cũng như gây ra bao thị phi, xung đột và áp bức. Ngôn ngữ ẩn giấu nguy cơ to lớn: khả năng xuyên tạc, lừa dối và thống trị.
Trong gọng kềm ngôn ngữ
Tư duy của chúng ta gắn liền với việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế, hầu như rất khó thoát khỏi những ảo tượng và những chiếc bẫy rập có nguồn gốc sâu xa trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ngôn ngữ là những quy ước và là một bộ phận cấu thành của văn hoá tư duy. Khi đầy rẫy khiếm khuyết, chúng là các rào cản tinh thần thật khó vượt qua để đi đến chân tướng của sự vật. Ta rất muốn tin rằng chính tư duy của ta là kẻ làm chủ ngôn ngữ. Khổ nỗi, sự thật thường ngược lại.
Việc sử dụng ngôn ngữ bắt nguồn từ lời nói thường ngày, vốn có xu hướng giản lược. Những ngộ nhận nằm ngay trong cấu trúc và nội dung định nghĩa của những ngôn từ. Có thể nói ngôn ngữ là một loại “phần cứng” quy định ranh giới cho “phần mềm” là những tư tưởng của ta. Ta chỉ có thể suy nghĩ những gì ngôn ngữ chúng ta cho phép, và ta khó đi đến những sự phân loại và phân biệt nào không nằm sẵn trong cấu trúc của ngôn ngữ chúng ta.
Theo Bacon, ngôn ngữ dẫn dắt ta đến sai lầm chủ yếu bằng hai con đường:
– Ta đặt tên cho những sự vật không hề có thực, nhưng những tên gọi này lại có ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư và cách hành xử của ta. Không chỉ… “Ông Địa”, “Thần Tài” mới mang lại bao niềm vui và nỗi buồn cho những vị… ham đánh đề, mà cả những khái niệm có vẻ rất khoa học cũng đã không ngừng đánh lừa những đầu óc khoa học. Chẳng hạn, hàng thế kỷ, nhiều nhà khoa học tin vào một chất “ether” nào đó như là môi trường vận động của vật chất, trước khi tỉnh ngộ rằng nó chỉ là một sản phẩm hoang đường.
– Mặt khác, ta lại có rất nhiều từ ngữ để đặt tên cho những sự vật có thực, nhưng do sự trừu tượng hoá vụng về hay diễn dịch vội vã từ thực tại, các từ ngữ ấy rất mơ hồ, bất định, không chính xác. Ngẫm nghĩ xem, bạn sẽ dễ dàng phát hiện vô số những từ ngữ thuộc loại ấy. Thêm vào đó, ta thường sử dụng nhiều từ ngữ theo quán tính mà ít khi tiến hành quan sát và phân tích nội dung thực sự của chúng. Chẳng hạn, ta dễ nhận ra một nhà lãnh đạo có tài, nhưng không dễ dàng chút nào để xác định một cách khách quan những phẩm chất lãnh đạo để thực sự hiểu những gì đã tạo nên một nhà lãnh đạo như thế, và xét xem, liệu những phẩm chất, năng lực ấy có thể truyền đạt hay huấn luyện được hay không. Ta cũng dễ dàng cả tin vào những “huyền thoại” chỉ vì chúng được phát biểu hay trình bày một cách hào nhoáng. Xu hướng này bắt nguồn từ ảo tưởng rằng sự vật hay công việc nhất định sẽ mang lại những thành quả tốt đẹp chỉ nhờ chúng được khoác lớp vỏ ngôn ngữ trịnh trọng, khả tín.
Ngẫu tượng cái Chợ dựa trên lòng tin sai lầm rằng những gì mọi người xem là đúng thì cũng tự động là đúng! Giống như ở giữa chợ, ta “mua” những từ ngữ và ý tưởng của người khác, và “bán” cho họ những từ ngữ và ý tưởng của ta. Bao lâu mọi người đều hài lòng thì mọi việc đều ổn thoả. Những quy ước ngôn ngữ có sức mạnh khủng khiếp, mặc dù không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tại. Chính vì thế, vào buổi bình minh của nền khoa học hiện đại, Francis Bacon là người đầu tiên nhấn mạnh đến yêu cầu phải làm cho ngôn ngữ được trong sạch và chính xác. Theo ý nghĩa đó, ngẫu tượng cái Chợ là một ẩn dụ quan trọng khác trong lịch sử của tư duy phản biện, vì nó minh hoạ sự cần thiết của việc làm cho tư tưởng được trong sáng, điều kiện tiên quyết cho tư duy khoa học.
“Bước ngoặt ngôn ngữ học”
Ngôn ngữ càng có sức biểu cảm bao nhiêu, càng dễ mang tính bạo lực bấy nhiêu… Xin cảnh giác: tiếng Việt đẹp đẽ và thâm thuý của chúng ta cũng là một ngôn ngữ rất giàu tính biểu cảm!
Ngẫu tượng cái Chợ còn gợi ý nhiều khía cạnh hệ trọng khác nữa của ngôn ngữ. Chúng có nguồn gốc xa xưa từ cuộc tranh luận triết học sôi nổi nhất ở thời trung cổ, rồi được đào sâu và phát triển trong triết học hiện đại. Từ chỗ xem tư duy đi trước ngôn ngữ, xem khái niệm (như là sản phẩm của tư duy và là bản chất bền vững của sự vật) đi trước từ ngữ (như cái vỏ quy ước nhất thời của khái niệm), triết học hiện đại hầu như có cách nhìn ngược lại. Chính cách nhìn mới mẻ ấy đã thực sự tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học: từ nền triết học lấy ý thức làm trung tâm (với tư duy là hình thức cao cấp nhất) chuyển sang nền triết học lấy ngôn ngữ làm trung tâm. Cuộc cách mạng ấy được gọi là “bước ngoặt ngôn ngữ học” trong triết học đương đại. Ta sẽ còn có dịp đề cập những vấn đề rất phức tạp và thú vị này. Ở đây, tiếp theo mạch suy nghĩ của Bacon, chỉ xin nhấn mạnh thêm hai điểm liên quan đến ngẫu tượng cái Chợ.
“Thơn thớt nói cười”…
Sở Khanh dùng lời đường mật để đưa Kiều vào bẫy. Khi họ Sở cam kết Nàng đà biết đến ta chăng, bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi! và hẹn hò giờ giấc cụ thể để dẫn Kiều “trốn thoát”, những lời nói ấy không đơn thuần truyền đạt thông tin mà còn thực hiện một hành động lừa bịp đầy ác ý – Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao. Triết học hiện đại dành cho hiện tượng này một thuật ngữ chuyên môn: “hành vi ngôn ngữ”. Cam kết, hứa hẹn, tuyên bố, ra lệnh… ngôn ngữ còn là hành vi gây ra hậu quả, chứ đâu phải chỉ là lời nói gió bay! Kể sao hết bao nhiêu tội ác và bao nhiêu nạn nhân của trò chơi ngôn ngữ, của việc đánh tráo và lạm dụng khái niệm. Thêm nữa, ngôn ngữ càng có sức biểu cảm bao nhiêu, càng dễ mang tính bạo lực bấy nhiêu. Ca tụng lên tận mây xanh hoặc vùi dập xuống bùn đen, ngôn ngữ đều phô bày tính bạo lực của nó: gây ảo tưởng và khổ đau cho người khác. Xin cảnh giác: tiếng Việt đẹp đẽ và thâm thuý của chúng ta cũng là một ngôn ngữ rất giàu tính biểu cảm!

Bùi Văn Nam Sơn

Theo amvn.free.fr