----------------------------------------
"Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ thúc đẩy cho thời cơ đó đến mau".
__ Hồ Chí Minh
------------------------------------------
"Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội".
__ Hồ Chí Minh
----------------------------------------
"Vì sự phương Tây hóa ngày càng tăng và tất yếu của phương Đông - nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lenin sẽ còn đúng cả ở đó. Dù sao cũng không thể cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được: Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu, mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại".
__ Hồ Chí Minh
--------------------------------------------
"Người An Nam không có linh mục, không có tôn giáo, theo cách nghĩ của châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội. Chúng tôi không có những người tư tế nào...Chúng tôi không biết uy tín của thầy cúng, của linh mục là gì".
__ Hồ Chí Minh
--------------------------------------------
"Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"
__ Hồ Chí Minh
“Những người bị áp bức khổn khổ thấy chúng ta luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt đầu tự hỏi rằng, không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là những kẻ lừa phỉnh.”
__ Hồ Chí Minh
"Thanh niên là rường cột của nước nhà"
__ Hồ Chí Minh
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
__ Hồ Chí Minh
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.”
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.”
__ Hồ Chí Minh
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong."
__ Hồ Chí Minh
"Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ."
__ Hồ Chí Minh
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
__ Hồ Chí Minh
"Ngồi yên đợi giặc không bằng trước hãy đem quân ra phá thế mạnh của giặc."
__ Lý Thường Kiệt
"Đại trượng phu sinh ra ở đời để phò nguy cứu khổ lưu tiếng lại nghìn năm, chớ đâu để làm tôi tớ cho người."
__ Lê Lợi
"Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ. Đó là thượng sách giữ nước."
__ Hưng Đạo Vương
"Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông."
__ Nguyễn Bá Học
"Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công việc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc."
__ Phan Chu Trinh
"Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu."
__ Ngô Thì Nhậm
"Phi công bất phú, phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng."
__ Lê Quý Đôn
"Con đường của chúng ta đã vạch ra, chúng ta cứ quả quyết mà tiến tới. Sau lưng chúng ta đã sẵn có một nhân loại mới mẻ mạnh bạo với những ý tưởng, những tình cảm lớn lao hơn sẽ làm hậu thuẫn cho chúng ta."
__ Hải Triều
"Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lòng tin của dân là có tất cả. Vì vậy chúng ta không được chạy dài. Chúng ta phải trở về với dân, chúng ta nhất định thắng!"
__ Nguyễn Chí Thanh
"Sinh con rồi mới sinh cha.
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông."
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông."
(Tục ngữ Việt Nam)
“Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”
__ Hồ Chí Minh
''Người dân vốn không hai lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân khinh là mất nước''
_ Hưng Đạo Vương
''Cái nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện.''
_ Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936)
Nguyễn Văn Vĩnh đã bàn đến nhiều thói hư tật xấu thường thấy ở người nước ta như: tính ỷ lại, tính ăn gian nói dối, thói ăn uống thành nợ miệng, tính bán tín bán nghi, thói đồng bóng, tính vay mượn kém sáng tạo, tính cơ hội đục nước béo cò, thói “gì cũng cười”, tệ cờ bạc...
--------------------------------------------------------------
"An Nam xưa nay vẫn nhiều lam chướng và dịch tễ, nước độc, khí hậu xấu...thì việc gì còn đem binh mã và tiền lương của thiên triều bỏ phí nơi viêm nhiệt hoang vu. Vả lại, nếu đem quan quân sang đánh lấy được cả nước lại phải phái nhiều binh lính sang để phòng thủ. Dân tình An Nam lại hay phản phúc, những triều đại trước đã từng là quận huyện đất đai của ta không được bao lâu, họ lại sinh biến, hiện có những gương tày liếp*, Bây giờ ta lấy đất đai của họ, biết đâu một vài chục năm nữa họ lại chẳng sinh sự. Trẫm đã nghĩ kỹ, thực không nên làm..."
__ Càn Long
(Đại Thanh lịch triều thực lục, q1323, tr29)
* "gương tày liếp" = gương lớn về thất bại
------------------------------------------------------------------------------
ĐẶNG HUY TRỨ - TỪ BỊ CẤM THI TRỞ THÀNH NHÀ CÁCH TÂN
Quang Ân
Là người đi sau, chí sĩ Phan Bội Châu kính cẩn tôn vinh Đặng Huy Trứ là “Người trồng mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam”.
Đặng Huy Trứ (1825-1874) là nhà cải cách với nhiều tư tưởng mới lạ, đặc biệt trong lãnh vực kỹ thuật quân sự và kinh tế. Thời gian dạy học của ông không dài (gần mười năm) nhưng những suy nghĩ và hoạt động sau này của ông mang nặng tính giáo dục và tầm ảnh hưởng vượt xa thời đại ông sống. Có thể nói quan niệm giáo dục của Đặng Huy trứ là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ 19.
BA QUYẾT SÁCH
Đặng Huy Trứ xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên- Huế. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Khoa thi năm 1847 (triều Tự Đức), ông đã vượt qua các vòng thi Hương và thi Hội (đỗ tiến sĩ), đến khi thi Đình do bài thi có mấy chữ phạm đến tên làng Gia Miêu của họ Nguyễn tôn thất nên bị đánh tuột và cấm thi trọn đời. Tuy nhiên, những biến cố không vui của cuộc đời không dập tắt được ước mơ canh tân đất nước của ông. Đặng Huy Trứ về quê dạy học; đồng thời vẫn say mê học hỏi, nghiên cứu học thuật, mong một ngày có cơ hội thực hiện những ước mơ của mình.
Và quả nhiên số phận đã mỉm cười với ông. Theo sách vở ghi lại, biết tài của ông, một vị quan lớn đương triều đã mời ông về dạy học cho con cháu trong nhà. Tám năm sau, nhờ vị quan này tâu lên triều đình cho ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855 (triều Tự Đức). Năm 1857, Đặng Huy Trứ được cử làm quan. Nhờ vậy ông có cơ hội tiếp cận triều đình, thực hiện ước mơ của mình.
Năm 1861, Đặng tiên sinh dâng sớ lên triều đình đề đạt ba quyết sách: làm gì đủ ăn, đủ quân, sớm trừ giặc Tây. Ba quyết sách của ông là những vấn đề lớn của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19: nghèo nàn và lạc hậu. Ông lập luận việc thứ nhất là phải làm cho dân đủ ăn; có ăn thì thì mới khỏe mạnh để tính đến việc thứ hai và thứ ba là tập hợp lực lượng đánh giặc Tây. Muốn đủ ăn thì phải tăng gia sản xuất, làm cho kinh tế phát triển. Muốn đủ quân thì phải chiêu mộ, huấn luyện và trang bị vũ khí. Tiếc rằng triều đình tiếp nhận các đề xuất của ông một cách rụt rè, không mạnh dạn đem ra áp dụng, để vuột mất một cơ hội canh tân đất nước.
DU HỌC
Nửa cuối thế kỷ 19, thế giới có bước phát triển mạnh mẽ cả về công nghệ lẫn thương mại. Nhu cầu giao thương, buôn bán giữa các nước là rất lớn. Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn lại bế quan tỏa cảng, làm cho tình hình đất nước vốn đã yếu kém lại rơi vào tụt hậu. Trước tình hình đó, năm 1865, ở tuổi 40, Đặng Huy trứ cải trang thành người Thanh đi Hương Cảng để học hỏi văn minh phương Tây.
Có thể coi đây là chuyến du học của nhà giáo họ Đặng. Đến đâu ông cũng chú ý quan sát và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe, những điều cần học hỏi. Đáng chú ý, khi về nước ông có đem theo cuốn sách của phương Tây viết về nguyên lý hoạt động của máy hơi nước để nghiên cứu và đề đạt lên vua Tự Đức cho áp dụng. Tiếc thay, triều đình hũ lậu, đề đạt này chẳng được quan tâm.
Sau chuyến du học, Đặng tiên sinh đã thực hiện được nhiều cải cách dân sinh tại Quảng Nam, nơi ông đang giữ chức quan Bố chánh, như mở rộng đường sá, xây chợ, khuyến khích người dân sản xuất nông sản và thủ công nghiệp, buôn bán... Đời sống người dân xứ Quảng khá lên thấy rõ. Việc làm của ông bay tới triều đình.
Năm 1867, vua Tự Đức cử ông đi Quảng Đông rồi Quảng Tây (Trung Quốc) tìm mua vũ khí của các nước phương Tây để đánh Pháp. Trong chuyến đi này không may ông bị bệnh và phải nằm nhà thương 9 tháng, nhưng cũng đã mua được cho triều đình 239 khẩu “quá sơn pháo”.
Cũng trong thời gian ngã bệnh, lòng đau đáu việc nước, ông tranh thủ viết cuốn Từ Thụ Yếu Quy dài 900 trang gồm bốn tập, nội dung kêu gọi chống nạn hối lộ, tham nhũng nơi chốn quan trường. Cũng theo tài liệu cũ, trong thời gian này ông đúc kết kinh nghiệm canh tân của Nhật, Cao Ly…, tìm sách lược cứu nước và xây dựng một quốc gia Việt Nam tự cường.
ĐỀ XUẤT TÁO BẠO
Sau chuyến đi sứ, Đặng Huy Trứ dâng sớ trình bày công cuộc cải cách lên vua Tự Đức. Ông đề nghị chú trọng mở mang công nghệ, khai thác hầm mỏ, lập cục cơ khí, xưởng đúc gang thép, chế tạo máy móc, thiết bị như phương Tây. Để có thợ cơ khí giỏi, nhà nước cần mở trường dạy nghề, mời chuyên gia nước ngoài sang dạy, cử thanh niên sang các nước có công nghệ tiên tiến học nghề. Những đề xuất về việc đào tạo ấy thật là táo bạo trong bối cảnh lịch sử lúc đó.
Đáng chú ý, trong xã hội coi trọng kẻ sĩ- “sĩ, nông, công, thương”- thì nhà giáo dục Đặng Huy Trứ sớm nhận ra vai trò quan trọng của kinh tế trong công cuộc phát triển đất nước. Ông chủ trương cần mở mang thủ công nghiệp và thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải, đặc biệt là đường biển Bắc-Nam và ngoại thương. Sách vở còn ghi câu chuyện thú vị sau: Năm 1869, Đặng tiên sinh ra Hà Nội, mở tiệm ảnh đầu tiên ở Việt Nam, đặt tên là Cảm Hiếu Đường. Bởi vậy, người đời sau tôn Đặng Huy Trứ là ông tổ của ngành nhiếp ảnh Việt Nam.
(baomoi.com)
Quang Ân
Là người đi sau, chí sĩ Phan Bội Châu kính cẩn tôn vinh Đặng Huy Trứ là “Người trồng mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam”.
Đặng Huy Trứ (1825-1874) là nhà cải cách với nhiều tư tưởng mới lạ, đặc biệt trong lãnh vực kỹ thuật quân sự và kinh tế. Thời gian dạy học của ông không dài (gần mười năm) nhưng những suy nghĩ và hoạt động sau này của ông mang nặng tính giáo dục và tầm ảnh hưởng vượt xa thời đại ông sống. Có thể nói quan niệm giáo dục của Đặng Huy trứ là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ 19.
BA QUYẾT SÁCH
Đặng Huy Trứ xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên- Huế. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Khoa thi năm 1847 (triều Tự Đức), ông đã vượt qua các vòng thi Hương và thi Hội (đỗ tiến sĩ), đến khi thi Đình do bài thi có mấy chữ phạm đến tên làng Gia Miêu của họ Nguyễn tôn thất nên bị đánh tuột và cấm thi trọn đời. Tuy nhiên, những biến cố không vui của cuộc đời không dập tắt được ước mơ canh tân đất nước của ông. Đặng Huy Trứ về quê dạy học; đồng thời vẫn say mê học hỏi, nghiên cứu học thuật, mong một ngày có cơ hội thực hiện những ước mơ của mình.
Và quả nhiên số phận đã mỉm cười với ông. Theo sách vở ghi lại, biết tài của ông, một vị quan lớn đương triều đã mời ông về dạy học cho con cháu trong nhà. Tám năm sau, nhờ vị quan này tâu lên triều đình cho ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855 (triều Tự Đức). Năm 1857, Đặng Huy Trứ được cử làm quan. Nhờ vậy ông có cơ hội tiếp cận triều đình, thực hiện ước mơ của mình.
Năm 1861, Đặng tiên sinh dâng sớ lên triều đình đề đạt ba quyết sách: làm gì đủ ăn, đủ quân, sớm trừ giặc Tây. Ba quyết sách của ông là những vấn đề lớn của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19: nghèo nàn và lạc hậu. Ông lập luận việc thứ nhất là phải làm cho dân đủ ăn; có ăn thì thì mới khỏe mạnh để tính đến việc thứ hai và thứ ba là tập hợp lực lượng đánh giặc Tây. Muốn đủ ăn thì phải tăng gia sản xuất, làm cho kinh tế phát triển. Muốn đủ quân thì phải chiêu mộ, huấn luyện và trang bị vũ khí. Tiếc rằng triều đình tiếp nhận các đề xuất của ông một cách rụt rè, không mạnh dạn đem ra áp dụng, để vuột mất một cơ hội canh tân đất nước.
DU HỌC
Nửa cuối thế kỷ 19, thế giới có bước phát triển mạnh mẽ cả về công nghệ lẫn thương mại. Nhu cầu giao thương, buôn bán giữa các nước là rất lớn. Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn lại bế quan tỏa cảng, làm cho tình hình đất nước vốn đã yếu kém lại rơi vào tụt hậu. Trước tình hình đó, năm 1865, ở tuổi 40, Đặng Huy trứ cải trang thành người Thanh đi Hương Cảng để học hỏi văn minh phương Tây.
Có thể coi đây là chuyến du học của nhà giáo họ Đặng. Đến đâu ông cũng chú ý quan sát và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe, những điều cần học hỏi. Đáng chú ý, khi về nước ông có đem theo cuốn sách của phương Tây viết về nguyên lý hoạt động của máy hơi nước để nghiên cứu và đề đạt lên vua Tự Đức cho áp dụng. Tiếc thay, triều đình hũ lậu, đề đạt này chẳng được quan tâm.
Sau chuyến du học, Đặng tiên sinh đã thực hiện được nhiều cải cách dân sinh tại Quảng Nam, nơi ông đang giữ chức quan Bố chánh, như mở rộng đường sá, xây chợ, khuyến khích người dân sản xuất nông sản và thủ công nghiệp, buôn bán... Đời sống người dân xứ Quảng khá lên thấy rõ. Việc làm của ông bay tới triều đình.
Năm 1867, vua Tự Đức cử ông đi Quảng Đông rồi Quảng Tây (Trung Quốc) tìm mua vũ khí của các nước phương Tây để đánh Pháp. Trong chuyến đi này không may ông bị bệnh và phải nằm nhà thương 9 tháng, nhưng cũng đã mua được cho triều đình 239 khẩu “quá sơn pháo”.
Cũng trong thời gian ngã bệnh, lòng đau đáu việc nước, ông tranh thủ viết cuốn Từ Thụ Yếu Quy dài 900 trang gồm bốn tập, nội dung kêu gọi chống nạn hối lộ, tham nhũng nơi chốn quan trường. Cũng theo tài liệu cũ, trong thời gian này ông đúc kết kinh nghiệm canh tân của Nhật, Cao Ly…, tìm sách lược cứu nước và xây dựng một quốc gia Việt Nam tự cường.
ĐỀ XUẤT TÁO BẠO
Sau chuyến đi sứ, Đặng Huy Trứ dâng sớ trình bày công cuộc cải cách lên vua Tự Đức. Ông đề nghị chú trọng mở mang công nghệ, khai thác hầm mỏ, lập cục cơ khí, xưởng đúc gang thép, chế tạo máy móc, thiết bị như phương Tây. Để có thợ cơ khí giỏi, nhà nước cần mở trường dạy nghề, mời chuyên gia nước ngoài sang dạy, cử thanh niên sang các nước có công nghệ tiên tiến học nghề. Những đề xuất về việc đào tạo ấy thật là táo bạo trong bối cảnh lịch sử lúc đó.
Đáng chú ý, trong xã hội coi trọng kẻ sĩ- “sĩ, nông, công, thương”- thì nhà giáo dục Đặng Huy Trứ sớm nhận ra vai trò quan trọng của kinh tế trong công cuộc phát triển đất nước. Ông chủ trương cần mở mang thủ công nghiệp và thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải, đặc biệt là đường biển Bắc-Nam và ngoại thương. Sách vở còn ghi câu chuyện thú vị sau: Năm 1869, Đặng tiên sinh ra Hà Nội, mở tiệm ảnh đầu tiên ở Việt Nam, đặt tên là Cảm Hiếu Đường. Bởi vậy, người đời sau tôn Đặng Huy Trứ là ông tổ của ngành nhiếp ảnh Việt Nam.
(baomoi.com)
-----------------------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ DUỆ - NỮ TIẾN SĨ ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ KHOA BẢNG VIỆT NAM
Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Bà là Nguyễn Thị Duệ, được người dân ca tụng là “Bà Chúa Sao”, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đỗ tiến sĩ trong thời đại phong kiến nước nhà.
NỮ TIẾN SĨ ĐẦU TIÊN
Hiện chưa rõ gia thế của bà, nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống.
Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ (1594) nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.
Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là bà chúa Sao ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: "Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử". Cảm phục khí tiết của bà, quân Trịnh bèn giải bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan.
CÔNG TRẠNG ĐỂ ĐỜI
Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.
Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về bà. Năm Đức Long thứ 3 (vua Lê Thần Tông) bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương. Có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có Nguyễn Minh Triết (sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân - PV) quê tại Hải Dương. Sau khi thi xong, quan giám khảo lọc ra các bài đỗ, trong đó có bài của Nguyễn Minh Triết.
Điều kỳ lạ, bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm đúng 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, bà thấy hay bèn tâu vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.
Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta.
Là một vị quan thanh liêm, Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.
Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà - những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền... nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân, giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân. Nguyễn Thị Duệ cũng khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào nhằm thu phục lòng tin yêu của dân.
Sinh thời, Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc hết. Về già, bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Sau khi mất, bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần.
Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...”. Tại đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng còn tượng “Bà chúa sao sa” và một sắc phong của triều đình để lại. Trong Hậu cung Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương, bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.
(dangcongsan.vn)
NỮ TIẾN SĨ ĐẦU TIÊN
Hiện chưa rõ gia thế của bà, nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống.
Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ (1594) nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.
Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là bà chúa Sao ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: "Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử". Cảm phục khí tiết của bà, quân Trịnh bèn giải bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan.
CÔNG TRẠNG ĐỂ ĐỜI
Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.
Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về bà. Năm Đức Long thứ 3 (vua Lê Thần Tông) bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương. Có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có Nguyễn Minh Triết (sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân - PV) quê tại Hải Dương. Sau khi thi xong, quan giám khảo lọc ra các bài đỗ, trong đó có bài của Nguyễn Minh Triết.
Điều kỳ lạ, bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm đúng 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, bà thấy hay bèn tâu vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.
Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta.
Là một vị quan thanh liêm, Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.
Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà - những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền... nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân, giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân. Nguyễn Thị Duệ cũng khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào nhằm thu phục lòng tin yêu của dân.
Sinh thời, Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc hết. Về già, bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Sau khi mất, bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần.
Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...”. Tại đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng còn tượng “Bà chúa sao sa” và một sắc phong của triều đình để lại. Trong Hậu cung Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương, bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.
(dangcongsan.vn)
----------------------------------------------------------------
TRẦN ĐỨC THẢO & CUỘC TRÒ CHUYỆN VỚI NHÀ THƠ HUY CẬN
Việt Nam không có truyền thống triết học? Nếu có một nhà triết học (chuyên nghiệp) thì đó là Trần Đức Thảo - đánh giá của GS Trần Văn Giàu.
Tìm hiểu thêm qua một mẫu chuyện trò giữa nhà thơ Huy Cận và Trần Đức Thảo tại nhà Trần Đức Thào vào 1/1991
Trần Đức Thảo nói sang vấn đề lịch sử. Anh nói: “Lịch sử có quy luật của nó, nhưng điều bất lợi trong lịch sử của sự người, khi được ghi chép lại thì phần lớn do những người chiến thắng ghi lại, cho nên bị méo mó, bị sai lệch đi nhiều”. Huy Cận hỏi Trần Đức Thảo: “Nếu nói thế thì không có lịch sử à?”. Trần Đức Thảo nói: “Có lịch sử, nhưng muốn hiểu đúng phải phân tích, phải suy ngẫm. Nhưng để làm được việc đó thì con người phải có trí tuệ. Trí tuệ là kết quả của biện chứng hiện tượng tinh thần. Có thống nhất cái biện chứng hiện tượng tinh thần ấy với biện chứng của tự nhiên đưa đến lịch sử xã hội-con người thì mới có cơ hội để nhận chân lịch sử”.
Huy Cận trả lời: “Anh Thảo ơi, thế thì khó quá”. Trần Đức Thảo nói: “Chẳng có con đường nào khác. Chính vì vậy nhiều nhà khoa học đã phải hi sinh trên bước đường nghiên cứu, từ Ga-loa cho đến Anh-xtanh đều vậy. Có người thì hi sinh về tính mạng, có người thì hi sinh sự sáng tạo của mình cho những kẻ có quyền lực. Sáng tạo về bom nguyên tử của Anh-xtanh đã bị chủ nghĩa đế quốc Mỹ đưa đến thảm họa tiêu diệt biết bao dân vô tội ở Nga, ở Herosima và Nagasaki. Tôi chưa nói đến sự hi sinh thầm lặng của họ trong cuộc đời nghiên cứu khoa học”.
Huy Cận hỏi Trần Đức Thảo: “Anh Thảo ơi, nên định nghĩa về anh như thế nào nhỉ? Là nhà hiện tượng học, hay nhà Mác-xít”. Trần Đức Thảo trả lời: “Phải có cái gạch nối: hiện tượng học – Mác-xít, đúng hơn nên gọi tôi là nhà duy vật biện chứng nhân bản”. Huy Cận nói tiếp: “Anh giải thích rõ hơn”.
Trần Đức Thảo thành thật tâm sự: “Lúc đầu, tôi có hiểu chủ nghĩa Mác đâu. Tôi được đào tạo về chủ nghĩa duy lý của Pháp nói riêng và của châu Âu nói chung. Có điều, tôi may mắn được các giáo sư hồi đó giảng kỹ cho tôi về cảm giác học của triết lý Spinoza. Chính vì vậy, trong lúc nghiên cứu hiện tượng học tinh thần của Hegel, tôi nhận chân được giá trị của hạt nhân duy lý của Hegel, trước hết cũng bằng cảm giác trí tuệ. Từ đó, tôi hiểu vì sao Mác đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel để áp dụng vào chủ nghĩa duy vật và hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vì say mê với giá trị của chủ nghĩa duy vật mà tôi đã phát hiện ra được thiên tài của Husserl trong hiện tượng luận, khi ông đặt vấn đề ngôn ngữ và tư duy của con người luôn luôn hướng tới đối tượng, khái niệm. Vậy thì phải có động lực chứ. Ông mơ hồ đoán định, nếu có động lực thì đó phải là động lực vật chất.
Tôi đi tìm kiếm cái động lực ấy suốt từ năm 1946 cho đến nay. Tôi đã phát hiện ra được cái động lực ấy chính là năng lực bản chất người: cái biện chứng của năng lượng thần kinh với năng lượng tâm thần. Nhưng nếu dừng lại ở đấy thì tôi cũng chẳng khác gì Hegel và Husserl, tôi đã phân tích, tìm kiếm, chứng minh sự thống nhất biện chứng giữa biện chứng của tinh thần với biện chứng của tự nhiên đưa đến biện chứng của lịch sử xã hội-con người, đặc biệt là sự vận động của nền sản xuất xã hội. Chính cái biện chứng kỳ diệu ấy đã tạo ra giống loài người và tạo ra sự thống nhất con người nói chung với con người cá nhân-nhân cách trong mỗi chúng ta.
Cái nhân loại, cái dân tộc, cái giai cấp là kết quả của biện chứng lịch sử tự nhiên-xã hội luôn luôn thống nhất với cái cá nhân-nhân cách. Con người nói chung nằm trong và xuyên qua con người cá nhân-nhân cách. Con người cá nhân, nhân cách tồn tại trong cái chung của con người nói chung ấy một cách cụ thể-cá thể”.
Huy Cận mỉm cười nói: “Hiểu được anh khó quá”. Trần Đức Thảo nói: “Nhưng muốn vươn tới tự do thì phải hiểu như thế. Tôi nói tự do ở đây là theo nghĩa tương đối trong mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, còn tự do tuyệt đối theo đúng nguyên nghĩa chỉ có trong lĩnh vực tinh thần mà thôi. ….
(VHNA) Văn hóa nghệ an.
Việt Nam không có truyền thống triết học? Nếu có một nhà triết học (chuyên nghiệp) thì đó là Trần Đức Thảo - đánh giá của GS Trần Văn Giàu.
Tìm hiểu thêm qua một mẫu chuyện trò giữa nhà thơ Huy Cận và Trần Đức Thảo tại nhà Trần Đức Thào vào 1/1991
Trần Đức Thảo nói sang vấn đề lịch sử. Anh nói: “Lịch sử có quy luật của nó, nhưng điều bất lợi trong lịch sử của sự người, khi được ghi chép lại thì phần lớn do những người chiến thắng ghi lại, cho nên bị méo mó, bị sai lệch đi nhiều”. Huy Cận hỏi Trần Đức Thảo: “Nếu nói thế thì không có lịch sử à?”. Trần Đức Thảo nói: “Có lịch sử, nhưng muốn hiểu đúng phải phân tích, phải suy ngẫm. Nhưng để làm được việc đó thì con người phải có trí tuệ. Trí tuệ là kết quả của biện chứng hiện tượng tinh thần. Có thống nhất cái biện chứng hiện tượng tinh thần ấy với biện chứng của tự nhiên đưa đến lịch sử xã hội-con người thì mới có cơ hội để nhận chân lịch sử”.
Huy Cận trả lời: “Anh Thảo ơi, thế thì khó quá”. Trần Đức Thảo nói: “Chẳng có con đường nào khác. Chính vì vậy nhiều nhà khoa học đã phải hi sinh trên bước đường nghiên cứu, từ Ga-loa cho đến Anh-xtanh đều vậy. Có người thì hi sinh về tính mạng, có người thì hi sinh sự sáng tạo của mình cho những kẻ có quyền lực. Sáng tạo về bom nguyên tử của Anh-xtanh đã bị chủ nghĩa đế quốc Mỹ đưa đến thảm họa tiêu diệt biết bao dân vô tội ở Nga, ở Herosima và Nagasaki. Tôi chưa nói đến sự hi sinh thầm lặng của họ trong cuộc đời nghiên cứu khoa học”.
Huy Cận hỏi Trần Đức Thảo: “Anh Thảo ơi, nên định nghĩa về anh như thế nào nhỉ? Là nhà hiện tượng học, hay nhà Mác-xít”. Trần Đức Thảo trả lời: “Phải có cái gạch nối: hiện tượng học – Mác-xít, đúng hơn nên gọi tôi là nhà duy vật biện chứng nhân bản”. Huy Cận nói tiếp: “Anh giải thích rõ hơn”.
Trần Đức Thảo thành thật tâm sự: “Lúc đầu, tôi có hiểu chủ nghĩa Mác đâu. Tôi được đào tạo về chủ nghĩa duy lý của Pháp nói riêng và của châu Âu nói chung. Có điều, tôi may mắn được các giáo sư hồi đó giảng kỹ cho tôi về cảm giác học của triết lý Spinoza. Chính vì vậy, trong lúc nghiên cứu hiện tượng học tinh thần của Hegel, tôi nhận chân được giá trị của hạt nhân duy lý của Hegel, trước hết cũng bằng cảm giác trí tuệ. Từ đó, tôi hiểu vì sao Mác đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel để áp dụng vào chủ nghĩa duy vật và hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vì say mê với giá trị của chủ nghĩa duy vật mà tôi đã phát hiện ra được thiên tài của Husserl trong hiện tượng luận, khi ông đặt vấn đề ngôn ngữ và tư duy của con người luôn luôn hướng tới đối tượng, khái niệm. Vậy thì phải có động lực chứ. Ông mơ hồ đoán định, nếu có động lực thì đó phải là động lực vật chất.
Tôi đi tìm kiếm cái động lực ấy suốt từ năm 1946 cho đến nay. Tôi đã phát hiện ra được cái động lực ấy chính là năng lực bản chất người: cái biện chứng của năng lượng thần kinh với năng lượng tâm thần. Nhưng nếu dừng lại ở đấy thì tôi cũng chẳng khác gì Hegel và Husserl, tôi đã phân tích, tìm kiếm, chứng minh sự thống nhất biện chứng giữa biện chứng của tinh thần với biện chứng của tự nhiên đưa đến biện chứng của lịch sử xã hội-con người, đặc biệt là sự vận động của nền sản xuất xã hội. Chính cái biện chứng kỳ diệu ấy đã tạo ra giống loài người và tạo ra sự thống nhất con người nói chung với con người cá nhân-nhân cách trong mỗi chúng ta.
Cái nhân loại, cái dân tộc, cái giai cấp là kết quả của biện chứng lịch sử tự nhiên-xã hội luôn luôn thống nhất với cái cá nhân-nhân cách. Con người nói chung nằm trong và xuyên qua con người cá nhân-nhân cách. Con người cá nhân, nhân cách tồn tại trong cái chung của con người nói chung ấy một cách cụ thể-cá thể”.
Huy Cận mỉm cười nói: “Hiểu được anh khó quá”. Trần Đức Thảo nói: “Nhưng muốn vươn tới tự do thì phải hiểu như thế. Tôi nói tự do ở đây là theo nghĩa tương đối trong mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, còn tự do tuyệt đối theo đúng nguyên nghĩa chỉ có trong lĩnh vực tinh thần mà thôi. ….
(VHNA) Văn hóa nghệ an.
-------------------------------------------------
MỘT SỐ CÂU NÓI CỦA HỒ PHI HUYỀN (1879 - 1946)
“Tính người như hạt giống của loài thực vật. Hạt giống có trong nó đầy đủ gốc rễ, cành lá, lúc nẩy hạt mầm, cây sẽ xuất hiện”.
“nguồn năng lượng tiềm ẩn của con người tựa hồ như một sức mạnh; đó là lòng tự thương nên khi trưởng thành biết tự trọng. Tính tự thương từ yêu mình mà yêu kính cha mẹ, ông bà tổ tiên, yêu thương con cái. Và suy rộng ra là yêu nhà yêu nước, yêu đồng loại, yêu người cả hoàn cầu. Có lúc nào đó, người ta có thể bỏ đi sự sống để sát thân (Bài 14 ĐTVT), sát thân thành nhân, sát thân chủ nghĩa vì nhân quần, vì cộng đồng”.
“Làm người giữa đời, ai cũng muốn thực hành cái chí lớn. Nếu chí lớn không thành hoặc chưa thành thì đầu óc luôn luôn ám ảnh. Năng lượng tiềm ẩn đó, đời con người không ai tránh được" (Bài 11 ĐTVT).
“Phong trào càng đổi mới, càng thay đổi không ngừng, càng phải hoàn toàn dựa vào thiếu niên”… Nếu từ lúc thai nhi, nuôi dưỡng không đúng đắn, lúc ấu thơ dạy dỗ không cẩn thận thì sẽ làm hại con người ngay tại gốc rễ (Bài 16 ĐTVT).
“Ở nước ta, nam nữ cùng lao động, sản phẩm được làm ra quá nửa là nhờ phụ nữ. Vả lại bậc anh hùng như Trưng Nữ vương, Triệu Ẩu chẳng thời nào thiếu, chẳng thời nào hiếm”. Ông khẳng định “giả sử có sự học hành bổ sung, có trường sở để giáo dục thì tương lai nữ giới sẽ làm vẻ vang cho cả lịch sử; sẽ sinh thành và nuôi dưỡng những kỳ tài thúc đẩy bước tiến của văn minh, chuyện ấy chưa lường được”.
“Vua làm cương cho tôi, cha làm cương cho con, chồng làm cương cho vợ” thì rõ ràng “chỉ trọng lấy nửa trên còn nửa dưới thì khinh rẻ”; người tôi, người con, người vợ hoàn toàn bị vua, cha, chồng áp bức. Ông kết luận và lên án thẳng thừng “tam cương là sâu mọt của đạo người” (chương XXIV NĐQH).
“Thánh nhân thế chế định lễ có 6 lễ thực là phiền hà mà lại thiếu lễ xem mắt” thì thật là sai lầm và phi lý. Theo ông xem mắt là tìm hiểu qua dung ngôn (trong công dung ngôn hạnh) mà hiểu tâm nhãn và tuệ nhãn. Họ phải thực sự hiểu nhau, tin nhau, “nếu một bên không bằng lòng thì việc đó phải đình, dẫu thế nào cha mẹ cũng không ép được”. Ông hoàn toàn lên án lối hôn nhân hình thức, áp đặt và tục lễ giáo “tại gia tòng phụ”; cha mẹ đặt ngồi đâu con ngồi đấy; chống đối trái ý là điều bất hiếu.
"Bất luận tư gia hay xã hội không ai được mua bán ruộng đất, chỉ được thuê và cho thuê một thời gian mà thôi"
“Tôn giáo pháp luật nghiêm ngặt đến đâu cũng không thể đoạt được tính tự nhiên của con người”.
"Muốn trị nhân đạo người tất phải có giáo dục đạo người trước đã, bởi vì chính trị và giáo dục phải tịnh tiến với nhau, mà chính phủ hương ấp, học đường hương ấp lại làm nền tảng cho toàn thể chính giáo. Nền tảng không được vững bền thì dẫu kiến thiết thế nào cũng là cẩu thả mà thôi"
“đạo người là đạo công của mọi hạng người. Nói hẹp là một thân người, nói rộng ra là cả loài người, nói ngắn lại là một đời người, nói dài ra là vạn đời người, gồm tất cả tụi đầu thẳng chân vuông đều noi theo được hết, chứ không phải chỉ một số ít người nào giữ riêng được một mình”.
“ngày nay sách phương đông phương tây chú thích, bậc trí giả chuyên cần thâu nhập tư tưởng, coi đó là nghĩa vụ thì tương lai nhân loại tất sẽ có ngày học thuật thống nhất, nhân loại đại đồng” (Bài 25 ĐTVT).
"Xưa nay những thuyết bàn về mục đích đạo người chủ trương thường có khác nhau, có người chủ về đức nghĩa, có người chủ về công lợi, có người chủ sự tự do, có người chủ sự tiến bộ, các nhà tôn giáo lại chủ vượt nhân thế mà lên thiên đường. Nhưng nói sát vào sự thực thì chỉ có một câu tránh khổ tới vui mà thôi"; "Cho nên nghiên cứu đạo người mà lấy triết lý ở một khoa học nào làm căn cứ chứ không lấy tính người làm căn cứ thì dẫu nghiên cứu kỹ càng thế nào cũng chỉ là bàn rông, bàn phiếm mà thôi, đối với đạo người chẳng có quan hệ gì lắm"
“phàm đạo đức là của chung thiên hạ, quốc gia tộc loại nào cũng không thể cách biệt xa rời. Âu chân Á ngụy thì Á tất phải bỏ đi mà theo châu Âu. Âu ngụy Á chân thì Âu tất phải bỏ đi mà theo Á” (Bài 24 ĐTVT).
“sách của tôi vì loài người; sách của tôi không phải vì một nước, một giống mà thôi”.
“bao giờ các nước trên hoàn cầu đều biến làm đồng, tất cả các nước ấy làm thành một nước dân chủ lớn thì có thể bước tới đại đồng” (XXVII NĐQH)
"Địa cầu ngày nay là địa cầu trẻ tuổi, loài người ngày nay là loài người trẻ tuổi… lấy điều có thể biết được mà nói thì con đường tiến hóa ngày nay nếu chưa đến được toàn cầu thống nhất, đạo người đại đồng thì chưa thể nào dừng lại".
(St)
“Tính người như hạt giống của loài thực vật. Hạt giống có trong nó đầy đủ gốc rễ, cành lá, lúc nẩy hạt mầm, cây sẽ xuất hiện”.
“nguồn năng lượng tiềm ẩn của con người tựa hồ như một sức mạnh; đó là lòng tự thương nên khi trưởng thành biết tự trọng. Tính tự thương từ yêu mình mà yêu kính cha mẹ, ông bà tổ tiên, yêu thương con cái. Và suy rộng ra là yêu nhà yêu nước, yêu đồng loại, yêu người cả hoàn cầu. Có lúc nào đó, người ta có thể bỏ đi sự sống để sát thân (Bài 14 ĐTVT), sát thân thành nhân, sát thân chủ nghĩa vì nhân quần, vì cộng đồng”.
“Làm người giữa đời, ai cũng muốn thực hành cái chí lớn. Nếu chí lớn không thành hoặc chưa thành thì đầu óc luôn luôn ám ảnh. Năng lượng tiềm ẩn đó, đời con người không ai tránh được" (Bài 11 ĐTVT).
“Phong trào càng đổi mới, càng thay đổi không ngừng, càng phải hoàn toàn dựa vào thiếu niên”… Nếu từ lúc thai nhi, nuôi dưỡng không đúng đắn, lúc ấu thơ dạy dỗ không cẩn thận thì sẽ làm hại con người ngay tại gốc rễ (Bài 16 ĐTVT).
“Ở nước ta, nam nữ cùng lao động, sản phẩm được làm ra quá nửa là nhờ phụ nữ. Vả lại bậc anh hùng như Trưng Nữ vương, Triệu Ẩu chẳng thời nào thiếu, chẳng thời nào hiếm”. Ông khẳng định “giả sử có sự học hành bổ sung, có trường sở để giáo dục thì tương lai nữ giới sẽ làm vẻ vang cho cả lịch sử; sẽ sinh thành và nuôi dưỡng những kỳ tài thúc đẩy bước tiến của văn minh, chuyện ấy chưa lường được”.
“Vua làm cương cho tôi, cha làm cương cho con, chồng làm cương cho vợ” thì rõ ràng “chỉ trọng lấy nửa trên còn nửa dưới thì khinh rẻ”; người tôi, người con, người vợ hoàn toàn bị vua, cha, chồng áp bức. Ông kết luận và lên án thẳng thừng “tam cương là sâu mọt của đạo người” (chương XXIV NĐQH).
“Thánh nhân thế chế định lễ có 6 lễ thực là phiền hà mà lại thiếu lễ xem mắt” thì thật là sai lầm và phi lý. Theo ông xem mắt là tìm hiểu qua dung ngôn (trong công dung ngôn hạnh) mà hiểu tâm nhãn và tuệ nhãn. Họ phải thực sự hiểu nhau, tin nhau, “nếu một bên không bằng lòng thì việc đó phải đình, dẫu thế nào cha mẹ cũng không ép được”. Ông hoàn toàn lên án lối hôn nhân hình thức, áp đặt và tục lễ giáo “tại gia tòng phụ”; cha mẹ đặt ngồi đâu con ngồi đấy; chống đối trái ý là điều bất hiếu.
"Bất luận tư gia hay xã hội không ai được mua bán ruộng đất, chỉ được thuê và cho thuê một thời gian mà thôi"
“Tôn giáo pháp luật nghiêm ngặt đến đâu cũng không thể đoạt được tính tự nhiên của con người”.
"Muốn trị nhân đạo người tất phải có giáo dục đạo người trước đã, bởi vì chính trị và giáo dục phải tịnh tiến với nhau, mà chính phủ hương ấp, học đường hương ấp lại làm nền tảng cho toàn thể chính giáo. Nền tảng không được vững bền thì dẫu kiến thiết thế nào cũng là cẩu thả mà thôi"
“đạo người là đạo công của mọi hạng người. Nói hẹp là một thân người, nói rộng ra là cả loài người, nói ngắn lại là một đời người, nói dài ra là vạn đời người, gồm tất cả tụi đầu thẳng chân vuông đều noi theo được hết, chứ không phải chỉ một số ít người nào giữ riêng được một mình”.
“ngày nay sách phương đông phương tây chú thích, bậc trí giả chuyên cần thâu nhập tư tưởng, coi đó là nghĩa vụ thì tương lai nhân loại tất sẽ có ngày học thuật thống nhất, nhân loại đại đồng” (Bài 25 ĐTVT).
"Xưa nay những thuyết bàn về mục đích đạo người chủ trương thường có khác nhau, có người chủ về đức nghĩa, có người chủ về công lợi, có người chủ sự tự do, có người chủ sự tiến bộ, các nhà tôn giáo lại chủ vượt nhân thế mà lên thiên đường. Nhưng nói sát vào sự thực thì chỉ có một câu tránh khổ tới vui mà thôi"; "Cho nên nghiên cứu đạo người mà lấy triết lý ở một khoa học nào làm căn cứ chứ không lấy tính người làm căn cứ thì dẫu nghiên cứu kỹ càng thế nào cũng chỉ là bàn rông, bàn phiếm mà thôi, đối với đạo người chẳng có quan hệ gì lắm"
“phàm đạo đức là của chung thiên hạ, quốc gia tộc loại nào cũng không thể cách biệt xa rời. Âu chân Á ngụy thì Á tất phải bỏ đi mà theo châu Âu. Âu ngụy Á chân thì Âu tất phải bỏ đi mà theo Á” (Bài 24 ĐTVT).
“sách của tôi vì loài người; sách của tôi không phải vì một nước, một giống mà thôi”.
“bao giờ các nước trên hoàn cầu đều biến làm đồng, tất cả các nước ấy làm thành một nước dân chủ lớn thì có thể bước tới đại đồng” (XXVII NĐQH)
"Địa cầu ngày nay là địa cầu trẻ tuổi, loài người ngày nay là loài người trẻ tuổi… lấy điều có thể biết được mà nói thì con đường tiến hóa ngày nay nếu chưa đến được toàn cầu thống nhất, đạo người đại đồng thì chưa thể nào dừng lại".
(St)
----------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét