Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Đàm Đạo! (Khổng Tử bái Kiến Lão Tử)

Đàm Đạo!
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này.
Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhân rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Thăm quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”

Triết Học
 https://www.facebook.com/TrietHoc/posts/965818116770867

------------------------------------------------------------------------
Khổng Tử -----------------> Mạnh Tử

Lão Tử ---------------------> Trang Tử

“Quân tử động khẩu, tiểu nhân động thủ”
("Quân tử dùng lời, tiểu nhân dùng tay chân")

__ Ngạn ngữ Trung Hoa


"Người ta thường giáo điều nhất khi họ ít chắc chắn nhất"
-----------------------------------------------------------------------
 Nếu dùng chủ nghĩa xem xét các hiện tượng quy luật tự nhiên xung quanh từ đó sống thuận theo mà không tìm cách cải biến nó:
“Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm
 hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Thì sẽ đi vào con đường thú tính, tự nhiên tính... mọi việc diễn ra thuận theo bản chất vật chất: khi đói => giết chóc, khi động dục => cưỡng bức, khi muốn sở hữu => cướp bóc, khi muốn quyền lực => chiến tranh... Không tôn trọng diễn biến của ý thức, ý thức đạo đức nhân nghĩa được ngộ lĩnh ra từng ngày bởi sự phản ánh của thế giới vật chất vào trong não tủy của con người và cải biến ở trỏng, cái gọi là nhân nghĩa là sự tự muốn hài hòa cân bằng thay vì dục vọng, theo đó thì thuận theo tự nhiên là một triết lý che đậy cho dục vọng là lời bào chữa của dục vọng:
"Tại sao bị cáo cưỡng hiếp nạn nhân?"
"Vì cô ta quyến rũ tôi!"
Tóm lại: con người hay thú vật và các hiện thân tự nhiên khác đang vận động phát triển không ngừng, từ những dao động phi ý thức (quan hệ bầy đàn, loạn luân, bất hiếu, bất nghĩa...) sang dạng kèm ý thức (hôn nhân, hiếu gương, nhân nghĩa...). Ý thức tạo ra một ý niệm về nhân nghĩa cũng là do tự nhiên an bài mà có, không từ trên trời mà rớt xuống nó là sự rèn luyện và tự thân giác ngộ của loài người khi sinh sống tồn tại trong môi trường tự nhiên.
Từ gốc của tháp mà xây đến ngọn, gốc là thời kỳ mông muội vô ý thức, trên mông muội là thời kỳ xây dựng ý thức, đến khi ý thức có được lại đòi đập dỡ giữa chừng ngọn tháp Đòi đập dỡ quá trình trau dồi ý thức (về đạo đức, nhân nghĩa, công minh...) phần giữa của tòa tháp cũng giống như việc đòi đập dỡ cái gốc của tòa tháp thời kỳ mông muội, thay vì cải biến ví dụ thú tính tình dục sang một loại hôn nhân có giá trị lại cấm tiệt quan hệ tình dục luôn vậy. Đấy là tư tưởng phản động đi lùi lại sự tiến hóa về thể chất và tinh thần của loài người khi xem thường các giá trị nền tảng.

----------------------------------------------------------------------------------------
BÌNH CHỌN 10 TRIẾT GIA VĨ ĐẠI

(Theo bbc.co.uk/radio4)

1. Karl Marx, 27.93%

2. David Hume, 12.67%

3. Ludwig Wittgenstein, 6.80%

4. Friedrich Nietzsche, 6.49%

5. Plato, 5.65%

6. Immanuel Kant, 5.61

7. St. Thomas Aquinas, 4.83%

8. Socrates, 4.82%

9. Aristotle, 4.52%

10. Karl Popper, 4.20%

* % là tỷ lệ số phiếu bầu

(Xem thêm: www.bbc.co.uk/radio4/history/inourtime/greatest_philosopher_vote_result.shtml)


CÁC TRIẾT GIA VĨ ĐẠI CỦA PHƯƠNG TÂY

1. Socrates (Hy Lạp, 470 BC – 399 BC)
2. Plato (Hy Lạp, 427 BC – 347 BC)
3. Aristotle (Hy Lạp, 384 BC – 322 BC)
4. Epicurus (Hy Lạp, 341 BC – 270 BC)
5. (Thánh) Thomas Aquinas (Ý, 1225 – 1274)
6. Thomas Hobbes (Anh, 1588 – 1679)
7. Rene Descartes (Pháp, 1596 – 1650)
8. Baruch Spinoza (Hà Lan, 1632 – 1677)
9. Gottfried Leibniz (Đức, 1646 - 1716)
10. David Hume (Scotland, 1711 – 1776)
11. Immanuel Kant (Đức, 1724 – 1804)
12. Georg Hegel (Đức, 1770 - 1831)
13. Arthur Schopenhauer (Đức, 1788 – 1860)
14. John Stuart Mill (Anh, 1806 – 1873)
15. Søren Kierkegaard (Đan Mạch, 1813 – 1855)
16. Karl Marx (Đức, 1818 – 1883)
17. Friedrich Nietzsche (Đức, 1844 – 1900)
18. Bertrand Russell (Anh, 1872 – 1970)
19. Ludwig Wittgenstein (Áo, 1889 – 1951)
20. Martin Heidegger (Đức, 1889 – 1976)
21. Karl Popper (Áo/Hung, 1902 – 1994)
22. Jean-Paul Sartre (Pháp, 1905 – 1980)

(St)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét