Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015
Các bài viết với đủ đề tài
NGƯỜI XƯA có nói '' Giữa chốn ba quân có thể đoạt được soái - ấn, nhưng không thể đoạt được cái chí của kẻ thất phu.''
Kẻ nói câu này, thật đã khám phá được cả tâm sự của loài người.
Người ta dù có là kẻ tầm thường đến bực nào. Bao giờ cũng cho ý kiến mình là quan trọng hơn tất cả. Cái ''tôi'' có phải là dễ ghét đâu theo như lời của Pascal '' Nó là cái chữ dễ yêu nhất trong đời.'' Nhưng vì ta đã quá nâng nui chiều chuộng nó.... mà thành ra cách xử sự trong đời ta gây không biết bao nhiêu sự vụng về , ân hận, đau khổ, tai ương và cũng chính vì thế mà Pascal đã thốt ra câu nói chua cay này : '' Cái tôi rất đáng ghét.''
Nó chẳng những dễ yêu mà thôi. Nó lại là trung tâm điểm của vũ trụ là khác. Bao nhiêu sự vật trong đời trong qui đều quây quần theo cái cốt ấy ''bản ngã''.
Bởi thế muốn đoạt cái chí của kể thất phu. Người xưa cho là khó khăn hơn đoạt ấn soái ba quân.
Dùng cường lực dùng uy thế mà bắt người phải nghe theo mình, không bao giờ làm được, mà dầu có làm được đi nữa thì cũng chỉ là một việc làm có thể tạm thời thôi.
Ở đời không ai có thể chụi nhận mình là quấy cả. Dù là tay đại gian đại ác như Tào Tháo cũng không chụi nhận mình là gian ác. Tào Tháo thường xưng mình là vì dân vì nước mà Lưu Bị cũng tin mình vì dân vì nước. Godse người ám sát Gandhi mà thiên hạ phần đông nguyền rủa vẫn tươi cười trước khi chụi tử hình. Bởi thế bàn cãi với người và muốn đem cái lẽ phải của mình ép buộc họ phải nghe theo thì chắc chắn không bao giờ được, lại còn gây thêm lắm điều không hay khác trong tình giao hảo hàng ngày.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
" Chiếc cân " trong mỗi người chúng ta.
Đó là cái cân trách nhiệm. Nhưng trách nhiệm không cũng chưa đủ mà phải kèm theo năng lực và đạo đức nữa mới làm chính xác được cho một chiếc cân.
Trong mỗi người chúng ta " chiếc cân " ấy đã đúng chưa ? Ai sẽ là người giám định những chiếc cân nầy ?
Đừng để chiếc cân công lý của mình bị sai lệch và có cách gì thử lại chiếc cân trong mọi người chúng ta ?
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngũ Kinh còn là cách gọi khác của Ngũ Thư
Ngũ Kinh (五經 Wǔjīng) là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm quyển Ngũ Kinh gồm có:
Kinh Thi (詩經 Shī Jīng): sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
Kinh Thư (書經 Shū Jīng): ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ (禮記 Lǐ Jì): ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch (易經 Yì Jīng): nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu (春秋 Chūn Qiū): ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
Ngoài ra còn có Kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn có Ngũ kinh.http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_kinh
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 1 Thủ Đoạn Chính Trị của Vũ Tài Lục : Duy trì mở rộng và tranh đọat quyền lực là một mê hồn trận, đặt người ta trước bộ mặt của Janus (nhân vật thần thọai có hai mặt) với những vấn đề bất trắc, trái ngược nhau. Mê hồn trận ấy theo rõi người chính trị ở khắp nơi và bất cứ lúc nào.
Vua Louis XV đã nói một câu rất chân thật nhưng chứa chất nhiều ý nghĩa:
"Không đốt pháo bông thì dân không có gì vui thú, mà đốt pháo bông thì tài sản của dân thành tro bụi".
Đốt pháo hay không đốt pháo? Câu hỏi ấy cũng khó trả lời như khi người chính trị tự hỏi: nhân nghĩa đạo đức hay không nhân nghĩa đạo đức? Trong nhân nghĩa đạo đức có những điều thật bất nhân bất nghĩa. Trong bất nhân bất nghĩa có những điều thật nhân thật nghĩa. Ở lịch sử có người trả lời chậm câu này mà tan tành nghiệp lớn: Lưu bị trước lời khuyên của Khổng Minh nên cướp Kinh Châu từ tay Lưu Kỳ.
Phải để lặng lẽ bình yên hay phải khuấy động không ngừng dằng co giữa trật tự và tiến bộ. Trị rất cần thiết nhưng loạn không phải là tuyệt đối vô ích. Dân Sparte xưa kia hùng cường một thời rồi tiêu diệt. Lý do hùng cường là lệ luật và truyền thống sắt thép, nhưng lý do tiêu diệt cũng là lệ luật truyền thống sắt thép ấy bóp nghẹt dân Sparte không tiến bộ được.
Phải giải quyết êm đẹp cả quyền lợi công lẫn quyền lợi tư. Làm việc thiên hạ tất theo lẽ công, nhưng nếu không giải quyết được lẽ tư cũng thất bại.
Lịch Tự Cơ khuyên Hán Cao Tổ theo công đạo trả thiên hạ lại cho các chư hầu để làm sáng tỏ đức lớn. Lưu Bang sắp nghe. Trương Lương hay tin lật đật chạy vào can rằng: Hào kiệt sở dĩ theo người là vì muốn được hưởng quyền quý, nay Bệ hạ lại đem trả cho những người không cùng gian lao với Bệ hạ, tất thế phải loạn. Quay sang Lịch Tự Cơ, Trương Lương nói: cái công đạo của ông là công đạo chỉ biết một mà không biết hai.http://4phuong.net/ebook/32367437/121362572/chuong-1.html
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC LÀ GÌ ? TẠI SAO NÓI ĐÓ LÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC ( Nguyễn Thanh Hùng )
Vấn đề cơ bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học . Ăngghen khái quát vấn đề cơ bản của triết học như sau:
Triết học với tư cách là thế giới quan bao gồm vấn đề của rất nhiều lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy), rất nhiều phương diện (bản thể luận, nhận thức luận, nhân sinh quan, phương pháp luận), nhưng trong đó có một vấn đề xuyên suốt các lĩnh vực và phương diện quyết định toàn bộ hệ thống triết học và có tác dụng chi phối với việc giải quyết các vấn đề triết học, đó chính là vấn đề cơ bản của triết học .Nội dung và ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học trong tác phẩm “L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”
Trong thế giới có vô vàng hiện tượng nhưng chung quy lại chúng ta chỉ phân làm hai loại: Một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên). Hai là, những hiện tượng tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được gọi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối cao” của triết học. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Tóm lại, từ cách tiếp cận trên, vấn đề cơ bản của triết học, đặt biệt là triết học hiện đại là: vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất hay giữa tư tuy với tồn tại (tinh thần với giới tự nhiên).
- Vấn đề cơ bản của triết học được phân tích trên hai mặt.
+ Mặt thứ nhất (bản thể luận) : Trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào? (trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị trí và vai trò của con người đối với giới tự nhiên như thế nào?)
+ Mặt thứ hai (nhận thức luận) : Tư duy con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh hay không? (trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con người với giới tự nhiên ra sao?).
* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học .
Lịch sử đấu tranh triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Vấn đề cơ bản của triết học chính là chuẩn mực để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Có thể phân chia các hiện tượng của thế giới ra thành hai loại: các hiện tượng vật chất và các hiện tượng tinh thần. Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học dùng để chỉ hai loại hiện tượng đó. Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.
Vậy vật chất (tồn tại) và ý thức (tinh thần, tư duy) có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quy định cái nào? Các học thuyết triết học rất đa dạng, song đều cũng phải trả lời câu hỏi đó, xem đó là điểm xuất phát lý luận. Câu trả lới này có ảnh hưởng trực tiếp tới những vấn đề khác của triết học. Do đó vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất hay giữa tư tuy với tồn tại (tinh thần với giới tự nhiên được coi là vấn đề cơ bản của triết học
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(Đây là phần 2 của chương “Lời mở đầu”, để đọc phần 1, vui lòng click vào đây: http://vietdkn.com/no)
Vào năm Vũ Đức thứ 9 triều đại nhà Đường (năm 626 sau Công nguyên), Hoàng Đế khai quốc, Cao Tổ Lý Uyên, với sự phò tá của người con trai thứ Lý Thế Dân đã bình định 18 vương hầu, tiêu diệt 72 đạo phản quân, an hưởng thái bình thịnh trị, giang sơn thống nhất. Cao Tổ có bốn người con trai: Kiến Thành, Thế Dân, Nguyên Cát, và Nguyên Bá. Trong khi Nguyên Bá mất sớm, Kiến Thành, Thế Dân và Nguyên Cát đã tới tuổi trưởng thành và được phong danh hiệu lần lượt là Ẩn Vương, Tần Vương và Tề Vương. Kiến Thành và Nguyên Cát đã tư thông với hai phi tần được Cao Tổ sủng ái là Trương Diễm Tuyết và Doãn Sắt, rồi bị Thế Dân phát hiện được. Tuy sự việc chưa vỡ lở nhưng Kiến Thành và Nguyên Cát vẫn mang tâm oán hận đối với Thế Dân. Theo những quy tắc truyền ngôi từ xưa để lại, khi Cao Tổ qua đời, người con trai cả là Kiến Thành sẽ lên kế vị. Nhưng Thế Dân có công lao vô cùng to lớn, gần như một mình gây dựng giang sơn Đại Đường. Cao Tổ thường khen ngợi Thế Dân, và điều này khiến Kiến Thành và Nguyên Cát vô cùng oán giận và đố kỵ.
...
"Oán khí nghìn năm tích tụ nên một thực thể tà ác", mời xem tiếp tại:http://vietdkn.com/mz
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
John Dewey có câu viết nổi tiếng không kém: “Một gam kinh nghiệm tốt hơn một tấn lý thuyết, đơn giản chỉ vì lý thuyết chỉ có ý nghĩa sống động và kiểm tra được ở trong kinh nghiệm. Kinh nghiệm, dù khiêm tốn nhất, cũng có thể sản sinh và chống đỡ cho lý thuyết, còn lý thuyết mà không liên hệ với kinh nghiệm thì không thể xác định và nắm bắt như là lý thuyết. Nó dễ trở thành công thức, thành khẩu hiệu đầu môi, khiến tư duy và ‘lý thuyết’ đích thực trở nên không cần thiết và không thể có được”.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Một là, chủ động phá giá: Khi một quốc gia phá giá tiền tệ của mình, hàng nhập khẩu sẽ đắt hơn trong khi hàng xuất khẩu rẻ đi ở nước ngoài và nhờ đó mang tính cạnh tranh hơn. Chính vì vậy, Chính phủ các nước thường sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm đi kkèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh. Đặc biệt, chính sách này thường được áp dụng khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sự nối dài của chính trị trong lĩnh vực văn học (văn học tuyên truyền) và trong các lĩnh vực khác (báo chí truyền thông-nền báo chí…v..v) thể hiện sức linh hoạt của chính trị ; chúng chạm đến bề rìa hình thức của các lĩnh vực, nhưng không chạm vào cái lõi (bản chất) của các lĩnh vực ấy. Khi khoác tấm áo của các lĩnh vực, chính trị hiện ra như là sự tha hóa và làm giả các phân mảng khác của đời sống. Văn học ( và triết học tuyên truyền là giả văn học ; không phải ở cái phần hình thức nó mang mà sự làm giả hiện ra ở chỗ nó coi phần chính trị là phần văn học, nó là một vị khách tự tuyên bố làm chủ nhà.
Dù có trộn vào nhau, sự tách bạch vẫn là rõ ràng : một câu thơ chính trị tuyên truyền chẳng hạn, phần tuyên truyền vẫn không thể giết được phần văn học, mà – dẫu là bị lợi dụng (trung tính hơn-được sử dụng) vẫn mang bản chất văn học , những vần gieo lục bát thơ tuyên truyền vẫn là vần lục bát, nhạc tính, thi tính của nó vẫn bảo lưu của các thể thơ.
Đây là một bài thơ tôi khá thích của Luis Aragon, tôi không rõ tác giả của nó có dụng ý tuyên truyền không và tuyên truyền đến mức nào. Nhưng khía cạnh thẩm mỹ (cảm xúc, nhạc tính,thi tính) của nó thật đẹp:
Bài ca của người hát trong ngục tù tra tấn Ballade de celui qui chanta dans les supplices
Nếu phải đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Một tiếng từ ngục tối
Nói đến những ngày mai
Nghe nói trong nhà giam
Có hai người đêm ấy
Bảo thầm anh Đầu hàng
Mày chán đời sao vậy
Mày có thể có thể
Có thể sống như tao
Nói đi một tiếng nhé
Mày được sống cúi đầu
Nếu phải đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Một tiếng từ ngục tối
Nói cho những ngày mai
Chỉ một tiếng cửa mở
Một tiếng một tiếng thôi
Tên giết người hối hả
Cửa mở Hết khổ rồi
Chỉ một tiếng giả dối
Thay đổi cả đời này
Hãy nghĩ tới nghĩ tới
Ấm dịu những ban mai
Nếu phải đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Một tiếng từ ngục tối
Nói với người ngày mai
Tôi nói điều phải nói
Như xưa vua Hăngri
Tổ quốc cần con ngựa
Cầu kinh vì Pari
Chẳng được gì Chúng cút
Anh nhận chết phần anh
Ấy con đường duy nhất
Người vô tội bỏ mình
Nếu phải đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Tiếng nói từ ngục tối
Tôi sẽ đi ngày mai
Tôi chết còn nước Pháp
Tình tôi hành động tôi
Bạn ơi nếu tôi chết
Bạn biết vì sao rồi
Chúng đến để bắt anh
Hai thằng nói tiếng Đức
Một thằng địch Đầu hàng
Anh bình tĩnh liền đáp
Nếu phải đi trở lại
Tôi đi lại đường này
Dưới gông cùm lửa sắt
Ca hát những ngày mai
Anh hát dưới làn đạn
Cờ đỏ dựng lên rồi
Chúng bắn một loạt nữa
Anh từ giã cuộc đời
Một bài ca nước Pháp
Bay ra từ đôi môi
Tiếp theo bài ca trước
Cho tất cả loài người
-----------------------------------------------------------------------------------------------
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét