(17/1/1706 – 17/4/1790)
Benjamin Franklin (17 tháng 01 1706 – 17 tháng 4 1790) là một trong những người thành lập đất nước nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu. Trong lĩnh vực khoa học, ông là gương mặt điển hình của lịch sử vật lý vì những khám phá của ông và những lý thuyết về điện, ví dụ như các khám phá về hiện tượng sấm, sét. Với vài trò một chính trị gia và một nhà hoạt động xã hội, ông đã đưa ra ý tưởng về một nước Mỹ và với vai trò một nhà ngoại giao trong thời kỳ Cách mạng Mỹ, ông đã làm cho liên minh là Pháp giúp đỡ để có thể giành độc lập.
Franklin nổi tiếng về sự ham hiểu biết của ông, về các tác phẩm của ông (có tính phổ biến, tính chính trị và khoa học) và tính đa dạng của các lĩnh vực mà ông quan tâm. Là một nhà lãnh đạo của Thời đại Khai Sáng, ông đã có được công nhận, ủng hộ của cả các nhà khoa học và giới trí thức khắp Châu Âu. Ông đã thành công trong việc bảo đảm về quân sự cũng như trợ giúp tài chính của Pháp là một đóng góp to lớn cho sự thắng lợi của cách mạng chống lại Anh. Ông cũng là người đã phát minh ra cột chống sét. Ông là người sớm đề xướng về sự thống nhất của các thuộc địa.
Sinh ra ở Boston, Massachusetts, Franklin đã học nghề in từ anh trai của ông và trở thành một chủ biên tập báo, một thọ in và một thương gia rất giầu có ở Philadelphia. Ông đã có nhiều năm sống ở Anh và xuất bản ấn phẩm nổi tiếng Poor Richard’s Almanac (Alamac của Richard nghèo) và ấn phẩm Pennsylvania Gazette (công báo Pennsylvania). Ông đã thành lập cả thư viện công và sở cứu hoả đầu tiên tại Mỹ cũng như Junto, một câu lạc bộ thảo luận chính trị. Trong giai đoạn này ông đã viết bài ủng hộ tiền giấy, chống các chính sách của những người theo chủ nghĩa trọng thương, như Luật sắt năm 1750, và cũng phác thảo Kế hoạch Albany của Liên minh năm 1754, sau này sẽ tạo ra một cơ sở lập pháp cho thuộc địa; thể hiện sự nhận thức từ rất sớm của ông về việc các thuộc địa tồn tại tự nhiên với tư cách một đơn vị chính trị.
Franklin đã trở thành một anh hùng quốc gia tại Mỹ khi ông dẫn đầu nỗ lực đòi Nghị viện Vương quốc Anh huỷ bỏ một Đạo luật tem thư gây mất lòng dân. Với tư cách một nhà ngoại giao, ông được nhiều người Pháp kính trọng với tư cách một vị bộ trưởng Mỹ tại Paris, một nhân vật quan trọng trong việc phát triển các quan hệ thân thiện Pháp-Mỹ. Từ năm 1775 tới năm 1776, Franklin là Tổng giám đốc Bưu điện thuộc Đại hội Thuộc địa và từ năm 1785 tới năm 1788 là Chủ tịch Hội đồng Hành pháp Tối cao Pennsylvania. Tới cuối đời, ông trở nên một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ủng hộ Chủ nghĩa bãi nô.
Franklin rất quan tâm tới khoa học và kỹ thuật, ông đã thực hiện những thí nghiệm và phát minh điện nổi tiếng— ngoài cột thu lôi — bếp lò Franklin, ống thông tiểu, chân nhái, harmonica, và kính hai tròng. Ông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập Đại học PennsKhi và Trường Franklin và Marshall. Ông đã được bầu làm chủ tịch đầu tiên của Hội Triết học Mỹ, hội học thuật đầu tiên tại Hoa Kỳ, năm 1769. Franklin nói thành thạo năm thứ tiếng. Ông thường được công nhận là người đa tài
DANH NGÔN CỦA BENJAMIN FRANKLIN
Mua thứ mình không cần và rồi bạn sẽ phải bán thứ mình cần.
Buy what thou hast no need of and ere long thou shalt sell thy necessities.
Khi được giúp đỡ, hãy ghi nhớ; khi giúp đỡ, hãy quên đi.
When befriended, remember it; when you befriend, forget it.
Nếu muốn được yêu, hãy yêu đi và tỏ ra đáng yêu.
If you would be loved, love, and be loveable.
Tôi thấy vài người chết vì đói; còn vì ăn ư, cả trăm ngàn.
I saw few die of hunger; of eating, a hundred thousand.
Mỗi năm vứt bỏ một thói quen xấu, rồi sẽ đến lúc khiến ngay cả người tồi tệ nhất cũng trở nên tốt đẹp.
Each year one vicious habit discarded, in time might make the worst of us good.
Thậm chí ngay cả hòa bình cũng có thể mua được với một cái giá quá cao.
Even peace may be purchased at too high a price.
Chủ nợ có trí nhớ tốt hơn con nợ.
Creditors have better memories than debtors.
Đừng nói xấu bất cứ ai, những hãy kể điều tốt đẹp bạn biết được về mọi người.
Speak ill of no man, but speak all the good you know of everybody.
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/528130503948220/?type=1&permPage=1
=====================
Chuyện về Gia Cát Lượng (Khổng Minh)
Gia Cát Lượng, hiệu là Khổng Minh, sinh năm 181 mất năm 234 trước Công nguyên vào thời kì Tam quốc của lịch sử Trung Hoa. Ông sinh ra tại nơi là tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Gia Cát Lượng là một chính trị gia xuất chúng và được xem là nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất thời bấy giờ. Ông là quân sư của Lưu Bị và sau này là thừa tướng nước Thục sau khi ba quốc gia hình thành thế chân vạc tại Trung Hoa.
Gia Cát Lượng thường được mô tả với một chiếc áo choàng truyền thống của Đạo gia và chiếc quạt lông hạc phe phẩy trên tay.
Ông là một học giả xuất chúng nhưng lại sống lặng lẽ, do vậy người đời thường gọi ông với biệt danh là “Ngọa Long tiên sinh”.
Theo sử sách, Lưu Bị đã ba lần đến lều cỏ để cầu Gia Cát Lượng. Đến lần thứ ba, Gia Cát Lượng đã đồng ý giúp Lưu Bị phục hưng nhà Hán.
Gia Cát Lượng còn là một nhạc sĩ, một học giả uyên bác, một người có tầm nhìn xa và một nhà phát minh đầy sáng tạo.
Theo sử sách, Gia Cát Lượng đã phát minh ra mìn, phát minh ra một cỗ xe vận chuyển tự động có hình dáng giống xe cút kít, và phát minh ra cung tên tự động bắn liên tục vừa xa vừa nhanh gọi là “Nỏ Liên Châu”.
Người ta tin rằng Gia Cát Lượng là người đã phát minh ra đèn trời hay đèn Khổng Minh, khi bị tướng quân Tư Mã Ý của nước Ngụy bao vây ở Tây Thành. Nhờ đọc được thông điệp cầu cứu trên đèn trời, các binh lính ở vùng lân cận đã đến để giải vây cho ông.
Còn một truyền thuyết kể rằng Gia Cát Lượng đã phát minh ra bánh bao của Trung Hoa, “màn thầu” – có nghĩa là đầu của kẻ man rợ. Ông đã nghĩ ra màn thầu sau cuộc chiến với Mạnh Hoạch, vua của người Nam Man ở phía nam Trung Hoa.
Gia Cát Lượng và quân đội của nước Thục có lần phải băng qua một con sông chảy xiết rất nguy hiểm. Ông được khuyên rằng phải hi sinh đầu của 50 người để cúng thần sông.
Nhưng Gia Cát Lượng không muốn hi sinh bất kì ai. Ông đã giết một vài con bò và ngựa, đặt nhân thịt vào trong bánh bao có hình dạng giống đầu người và ném xuống dòng sông. Từ đó ông gọi bánh bao là “màn thầu”.
Người ta tin rằng cũng chính Gia Cát Lượng đã tạo nên một trận đồ đá gọi là Bát Trận Đồ, áp dụng học thuyết Bát Quái trong triết học Trung Hoa cổ đại. Nhiều người coi trận đồ này là điều siêu thường.
Gia Cát Lượng được cho là có những khả năng siêu thường. Ông có thể hòa hợp với sức mạnh thiên nhiên và luôn đa mưu túc trí trong cả những hoàn cảnh hiểm nghèo.
Ông là người tinh thông Kinh Dịch của Đạo giáo. Ông đã sáng tạo ra Bát Trận thế, một thế trận dựa vào những kiến thức về Kinh Dịch và Bát Quái.
Truyền thuyết về Gia Cát Lượng đã làm say mê hàng triệu người Trung Hoa, họ kính trọng ông như một vị thần. Uy danh của Gia Cát Lượng còn lớn hơn nữa sau khi Lưu Quán Trung hoàn thành tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Tài năng quân sự xuất chúng của Gia Cát Lượng, sự trung thành và tận tụy của ông đối với Lưu Bị đã trở thành bất tử và được lưu truyền cho tới tận ngày nay trong thơ ca, sách sử, bài hát, phim ảnh và trong cả những trò chơi điện tử.
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/527619820665955/?type=1&permPage=1
================================
Cuộc đời và sự nghiệp của tổng thống Franklin D. Roosevelt
Franklin Delano Roosevel là Tổng thống Mỹ đời thứ 32 được biết đến như một huyền thoại trong lịch sử. Ông từng lãnh đạo nhân dân Mỹ trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trầm trọng và thế chiến thứ II trong những năm tháng tối tăm giữa thế kỷ 20. Ông cũng là Tổng thống Mỹ duy nhất đắc cử tới bốn nhiệm kỳ. Roosevelt sinh ngày 30/1/1882 taị thị trấn Hyde Park yên bình nằm ẩn mình trong thung lũng sông Hudson thuộc tiểu bang New York. Cả cha và mẹ của cậu bé là ông James Roosevelt, và bà Sara Ann Delano đều xuất thân từ những gia đình giàu có lâu đời. Tên họ Roosevelt có nguồn gốc từ tiếng Hà Lan và mang ý nghĩa rất đẹp - "cánh đồng hoa hồng". Franklin là con một trong nhà và được gia đình yêu thương, chiều chuộng. Franklin và mẹ - Bà Sara Ann Delano. Khi nhắc đến tuổi thơ của Franklin Roosevelt, người ta ít nhắc đến ông Roosevelt cha, bởi khi cậu bé Franklin trào đời, người cha đã 54 tuổi. Tuổi tác dường như tạo nên khoảng cách đáng kể giữa hai thế hệ. Trên thực tế, ông Roosevelt là người mà cậu bé Franklin hết mực kính yêu. Song tuổi thơ và cả cuộc đời sau này của cậu mang nét ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ độc đoán - bà Sara Roosevelt. Hồi nhỏ, bà để Franklin mặc chiếc váy Kilt truyền thống của các nam giới quý tộc bấy giờ, với mái tóc xoăn dài. Năm 5 tuổi, dù bà đã cắt ngắn bớt mái tóc, nhưng việc mặc váy vẫn được Franklin duy trì cho đến mãi sau này. Franklin lúc 3 tuổi. Thuở nhỏ, Franklin không đi học ở các trường tiểu học địa phương như những đứa trẻ đồng trang lứa mà được cha mẹ dạy dỗ ở nhà. Họ thuê các giáo viên có tiếng chuyên giảng dạy tại gia cho con em quý tộc đến kèm cặp Franklin. Cưỡi ngựa, bắn súng, chèo thuyền, chơi polo hay tennis trên sân cỏ sớm trở thành những sở thích cá nhân cũng như sở trường của cậu bé. Hai vợ chồng ông bà Roosevelt thường xuyên đi du lịch xuyên châu Âu và hay đưa Franklin đi cùng. Với trí nhớ tuyệt vời và sự ham học hỏi, cậu nhanh chóng thành thạo tiếng Đức và tiếng Pháp - điều đó hỗ trợ Franklin rất nhiều trong sự nghiệp Tổng thống sau này. Các chuyến du lịch cao cấp giành cho giới quý tộc ấy cũng mang đến cho cậu bé cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, tích luỹ vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực từ nghệ thuật tới kinh tế xã hội. Năm 1896, Franklin 14 tuổi và bắt đầu theo học tại trường Groton - một ngôi trường danh tiếng tại bang Massachusetts - kinh đô của giáo dục Mỹ. Tại đây, cậu bé đã có được những bài học đầu tiên về trách nhiệm xã hội của một công dân Mỹ. Franklin chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thầy hiệu trưởng Endicott Peabody. Thầy giúp cậu thấm nhuần tinh thần "nghĩa vụ của người tín hữu Cơ Đốc là giúp đỡ người kém may mắn". Thầy cũng khuyến khích Franklin tích cực tham gia và đóng góp sực lực nhỏ bé của mình cho các hoạt động cộng đồng. Quãng thời gian học tập tại trường Groton không phải là một mốc son thành tích trong cuộc đời Franklin Roosevelt. Cậu bé Franklin ngày ấy không có kết quả học tập xuất sắc hay khả năng chơi các môn thể thao vượt trội. Tuy nhiên, với một đứa trẻ luôn được bao bọc bởi cha mẹ giàu có như Franklin thì những đóng góp đáng kể cho các hoạt động xã hội cũng đủ để nhiều người biết đến. Sau này, Tổng thống Franklin Roosevelt tiết lộ rằng, trường Groton đã dạy cho ông khả năng làm chủ bản thân mình ở mọi tình huống, nuôi dưỡng trong ông bài học đạo lý "trẻ em thuộc tầng lớp quý tộc cần có trách nhiệm hơn với cộng đồng". Năm 1900, Franklin Roosevelt học tại Đại học Harvard như nhiều Tổng thống Mỹ khác. Tuy vậy, ông cũng không phải là một sinh viên nổi bật và tỏ ra không mấy yêu thích việc học hành theo kiểu mọt sách. Ông chỉ mất ba năm để có được tấm bằng cử nhân, và cũng từng giữ chức vụ biên tập cho tờ báo Havard Crimson. Trong thời gian này, người anh họ năm đời của Franklin là ông Theodore đắc cử Tổng thống. Với phong thái lãnh đạo cương quyết và lòng tâm huyết cho sự nghiệp cải cách xã hội Mỹ, vị Tổng thống này trở thành tấm gương sáng để Franklin học tập, noi theo. Franklin Roosevelt tại Đại học Harvard. Năm 1904, sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard, ông tiếp tục theo học tại Đại học Luật Columbia. Khi đỗ kỳ thi sát hạch của Luật sư đoàn tiểu bang New York vào năm 1907, Roosevelt quyết định thôi học giữa chừng và đến làm việc cho một công ty luật uy tín - Carter, Ledyard and Milburn ở Wall Street. Con đường đến với vị trí Tổng thống Mỹ của Franklin Roosevelt bước đầu là nhờ sự hậu thuẫn của Tổng thống tiền nhiệm - ông Theodore Roosevelt, sau đám cưới của chàng trai trẻ hào hoa Franklin với cô em họ xa Eleanor. Sau này chính gia tộc giàu có cũng trở thành bệ đỡ cho ông trên trường chính trị. Franklin Roosevelt và vợ - Eleanor Roosevelt. Tuy nhiên, Franklin Roosevelt đã làm được một điều vô cùng đặc biệt trong lịch sử nước Mỹ, mà cho tới nay chưa có ai làm được, đó là đắc cử Tổng thống tới bốn lần. Các nhà phân tích đánh giá, Franklin làm được điều thần kỳ ấy là nhờ những hiểu biết xã hội sâu rộng tích luỹ từ khi còn nhỏ và năng lực lãnh đạo vượt trội được chứng tỏ và phát huy trong quãng thời gian làm việc tại Bộ Hải quân Hoa Kỳ. Ông cũng là một vị lãnh tụ kiêu hãnh và hết sức kiên cường. Năm 1921, ông từng bị chuẩn đoán mắc bệnh bại liệt. Căn bệnh quái ác khiến cơ thể ông kiệt quệ và không còn khả năng đi lại. Song ông đã quyết luyện tập với nạng sắt và gậy. Dù đau đớn nhưng ông luôn cố gắng đứng thẳng người trước các công dân Mỹ và không bao giờ để họ nhìn thấy chiếc xe lăn của mình. Tống thống Franklin Roosevelt - người hùng của nước Mỹ. Với tầm nhìn xa trông rộng và trí tuệ hơn người của một Tổng thống được toàn dân Mỹ tín nhiệm suốt bốn nhiệm kỳ liên tiếp, Franklin Roosevelt đã đưa quốc gia này vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lịch sử. Ông chính là bằng chứng tiêu biểu cho những vĩ nhân của thế giới có sự nghiệp học hành không bó hẹp trong phạm vi trường học. Chính những trải nghiệm thực tế tích luỹ trên “trường đời” đã giúp ông hoàn thành sứ mệnh tổng thống của mình.
http://diepdoan.violet.vn/
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/522814731146464/?type=1&permPage=1
==================
Những nhân vật nổi tiếng thế giới đoản mệnh
Nhiều nhân tài như Lý Tiểu Long, Amy Winehouse ra đi khi tuổi đời mới chỉ tầm trên dưới 30 tại thời điểm mà sự nghiệp của họ vẫn còn rực sáng.
1. Lý Tiểu Long (33 tuổi)
Lý Tiểu Long (27/11/1940 – 20/7/1973), tên tiếng Anh là Bruce Lee, chào đời tại Hong Kong. Anh là người Mỹ gốc Hoa, một diễn viên võ thuật nổi tiếng của nền điện ảnh Mỹ và là người sáng lập ra phái võ Triệt quyền đạo.
Tuy nhiên, khi tài năng đang nở rộ, Lý Tiểu Long qua đời ở tuổi 33. Nguyên nhân ban đầu được cho là do chứng phù não. Sau nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi, các bác sĩ đã công khai nguyên nhân tử vong của Lý Tiểu Long là "chết do tai nạn bất ngờ". Bộ phim Trò chơi tử thần (Game Of the Death) đã phải trì hoãn lại 4 ngày sau vì diễn viên chính đã mất.
2. Amy Winehouse (27 tuổi)
Amy Winehouse, một tài năng âm nhạc Anh, đã qua đời ở tuổi 27 vào ngày 23/7/2011 vì chứng nghiện rượu. Cuộc đời của Amy Winehouse không mấy đơn giản và êm đềm. Nữ ca sĩ này dính dáng tới ma túy và rượu từ khi còn khá trẻ.
Album đầu tiên của cô mang tên Frank năm 2003 đã gặt hái được nhiều thành công. Tuy vậy, chỉ đến album thứ 2 có tên Back To Black, tên tuổi của cô mới trở nên nổi tiếng khắp thế giới, giúp cô giành được 5 giải Grammy.
Tuy ca sĩ trẻ tuổi này dính tới nhiều scandal về tình ái, nghiện rượu và ma túy từ khi còn trẻ và nhiều lần khiến khán giả thất vọng, nhưng khi nghe tin về sự ra đi của cô, những fan hâm mộ không khỏi tiếc thương cho một tài năng đoản mệnh.
3. Steve Prefontaine (25 tuổi)
Steve Prefontaine (25/1/1951 – 30/5/1975) là vận động viên điền kinh nổi tiếng của Mỹ, anh chạy cự ly trung bình và dài trong Olympics 1972 tổ chức tại Đức. Prefontaine từng giữ kỷ lục của Mỹ trên 7 đường đua cự ly dài từ 2.000m tới 10.000m. Không may, tài năng trẻ Prefontaine chết trong một vụ tai nạn xe ô tô vào tháng 5/1975 khi mới 25 tuổi.
4. Robert Wadlow (22 tuổi)
Robert Wadlow (1918 – 1940) là người cao nhất trong lịch sử loài người. Anh thường được biết với tên "Khổng lồ Alton" vì quê nhà của ông ở Alton, Illinois (Mỹ).
Wadlow đạt chiều cao chưa có tiền lệ là 8 foot 11 inch (2,72 m) và nặng 440 pound (199 kg) khi qua đời. Kích thước khổng lồ và vẫn tiếp tục tăng cả khi ông trưởng thành là do một khối u trong tuyến yên của ông. Tháng 7/1940, người cao nhất trong lịch sử loài người chết khi đang ngủ.
5. James Dean (24 tuổi)
Ngôi sao điện ảnh huyền thoại người Mỹ James Dean (1931 - 1955) chỉ nổi danh với 3 bộ phim kinh điển nhưng vai diễn của anh để lại tiếng vang và trở thành một trong những thần tượng lớn của giới trẻ Mỹ và thế giới.
Ban đầu mới vào nghề James Dean tham gia một vài phim nhỏ nhưng không được chú ý tới. Nhưng năm 1955, với vai diễn Cal Trask trong bộ phim Phía đông vườn Địa đàng (East of Eden), anh được đề cử giải Oscar cho vai nam chính xuất sắc nhất. Bộ phim đưa tên tuổi của James lên vị trí của một siêu sao.
Tiếp đó, anh đóng vai Jim Stark trong bộ phim Rebel Without a Cause (1955) cùng Natalie Wood. Vai diễn thanh niên nổi loạn đó tiếp tục khẳng định tài năng của James Dean.
Năm 1956, bộ phim Giant do James Dean tham gia cùng Elizabeth Taylor được ra mắt sau khi anh đã qua đời. Đó là bộ phim cuối cùng và đem lại cho James đề cử Oscar lần thứ hai. Trong một vụ tai nạn ô tô xảy ra vào ngày 30/9/1955, anh chết ngay tại chỗ khi tài năng đang nở rộ.
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/522808691147068/?type=1&permPage=1
=========================
Những cái chết không giống ai của các vĩ nhân
Attila (? - 453) - Đại đế của đế quốc Hung Nô
Dưới quyền cai trị của Attila, binh sĩ người Hồ (sử Trung Quốc gọi là Hung Nô) trở thành một trong những đạo quân thiện chiến nhất trong lịch sử, thôn tính hầu hết châu Á vào năm 450. Thế nhưng, vị hoàng đế đầy quyền lực Attila lại chết vì... chảy máu cam trong tiệc cưới của chính mình.
Năm 453 sau công nguyên, Attila cưới một thiếu nữ tên là Ildico. Nổi tiếng về sự hung mãnh trên chiến trường nhưng bình thường, Attila ăn uống rất ít trong các bữa tiệc lớn. Tuy nhiên, ông đã dành cho mình một ngoại lệ trong ngày đại hỉ và uống rất nhiều rượu. Đêm đó, ông bị chảy máu mũi nhiều lần nhưng say tới mức không nhận ra và đã chết ngộp trong máu của chính mình. Xác chết của Attila được người hầu tìm thấy vào sáng hôm sau.
***
Tycho Brahe (1546 - 1601) - nhà thiên văn học Đan Mạch nổi tiếng ở thế kỷ 16. Những nghiên cứu của ông đặt nền tảng cho thuyết "Vạn vật hấp dẫn" của Newton sau này.
Nguyên nhân chết: Không tới nhà vệ sinh đúng thời điểm.
Ở thế kỷ 16, rời bàn tiệc trước khi bữa ăn kết thúc được xem là điều sỉ nhục đối với chủ nhà. Vào cái ngày định mệnh đó, Brahe, một chiếc "hũ chìm", đã nhập tiệc với cái bụng óc ách. Tệ hại hơn, ông uống rất nhiều trong bữa ăn và lịch sự tới nỗi không dám từ chối những ly rượu chúc tụng của các thực khách khác. Cuối cùng, bàng quang của ông chịu không nổi đã bục ra, giết chết ông một cách từ từ và đau đớn trong 11 ngày sau đó.
***
Horace Wells (? - 1848) - Nhà nghiên cứu tiên phong về sử dụng thuốc gây mê trong thập niên 40 của thế kỷ 18.
Nguyên nhân chết: Dùng thuốc gây mê để tự tử.
Trong khi làm thí nghiệm với các loại khí khác nhau để tìm ra loại thuốc gây mê hiệu quả nhất, Wells đã mắc nghiện chất chloroform. Năm 1848, ông bị bắt giữ vì đã dùng bình xịt phun axít sulfuric vào 2 phụ nữ. Trong một lá thư viết từ nhà ngục, ông cho rằng chất chloroform đã gây ra các vấn đề cho mình vì ông bị ảo giác trước khi tấn công các nạn nhân. 4 ngày sau đó, Wells chết trong nhà giam. Ông đã tự gây mê bằng chất chloroform trước khi dùng dao cạo cắt động mạch đùi.
***
Francis Bacon (1561 - 1625) - Triết gia Anh nổi tiếng nhất thế kỷ 16, một nhân vật đa tài từng làm nghị viên, nhà văn, nhà khoa học; thậm chí có thuyết cho rằng ông là tác giả một số vở kịch của Shakespeare.
Nguyên nhân chết: Nhồi tuyết vào gà.
Một buổi chiều năm 1625, Bacon ngắm cơn bão tuyết đang gào thét bên ngoài nhà và nảy ra ý tưởng sử dụng tuyết để bảo quản thực phẩm. Quyết tâm kiểm chứng ý tưởng đó, Bacon mua một con gà ở làng bên, làm sạch rồi đứng ngoài trời nhồi đầy tuyết vào con gà để làm lạnh. Không biết con gà có lạnh cứng không, còn Bacon thì có.
***
Aeschylus (? - ?) - Kịch tác gia nổi tiếng của Hy Lạp thế kỷ 5 trước công nguyên. Nhiều sử gia coi ông là cha đẻ của bi kịch Hy Lạp.
Nguyên nhân chết: Bị đại bàng thả một con rùa trúng đầu.
Theo truyền thuyết, đại bàng khi bắt được rùa thường tìm cách đập vỡ lớp mai cứng bằng cách thả con mồi từ trên cao xuống một tảng đá. Một con đại bàng đã tưởng nhầm đầu của Aeschylus là hòn đá (ông bị hói đầu) và đã thả con rùa trúng vào đó.
***
Lully, Jean Baptise (1632 - 1687) - Nhạc sĩ cung đình nổi tiếng, người chuyên viết các vở nhạc kịch cho vua Pháp.
Nguyên nhân chết: Vì yêu âm nhạc.
Trong khi tập luyện cùng các nhạc công, Lully đánh nhịp say sưa đến mức đâm xuyên chiếc gậy nhạc trưởng vào chân mình. Ông chết vì bị nhiễm trùng vài ngày sau đó.
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/522096021218335/?type=1&permPage=1
==============================
Isaac Newton sinh tại Woolsthorpe, Anh quốc ngày 25/12/1642, vài tháng sau khi Galilée qua đời, và một thế kỷ sau khi Nicolas Copernic (1473 - 1543) qua đời. Là con của Isaac Newton và Hannah Ayscough, trại chủ. Cha ông thô thiển và yếu, mất lúc 37 tuổi sau khi cưới mẹ ông không lâu và trước khi ông ra đời hai tháng. Ngược lại mẹ ông là con của gia đình khá giả ở Yorkshire. Có lẽ vì ảnh hưởng đến cái chết của cha ông mà mẹ ông sinh thiếu tháng.
Khi Isaac lên hai tuổi, mẹ tái giá, và Isaac được gởi đến bà ngoại nuôi, cậu James Ayscough đỡ đầu. Lên năm, Isaac học tiểu học trường làng, trước tiên tại Skillington, sau đó tại Stoke.
Năm 12 tuổi, Isaac được vô trường trung học Grantham. Newton là một học sinh lơ đãng và học được 4 năm thì mẹ gọi về Woolstorpe để làm nông trại và trông coi mảnh đất nhỏ mà mẹ cho lúc bà tái giá. Bởi vì học bao nhiêu đó cũng đủ để nối nghiệp cha. Nhưng sau một thời gian, mẹ Isaac thấy con trai bà có năng khiếu về cơ học hơn là coi sóc gia súc nên bà đã quyết định cho con tiếp tục đi học để lên đại học .
Lúc 17 tuổi, Isaac kết bạn với một cô bạn cùng lớp cũ, cô Storey và hai người yêu nhau, đính hôn với nhau định sẽ cưới sau khi Isaac học xong.
Edmund Halley Năm 18 tuổi, Isaac đậu vô Đại học Cambridge, nơi đó ông ở lại trong suốt 40 năm, đầu tiên là sinh viên, sau đó là giáo sư. Tại đại học này ngoài những bài học về Toán Descartes, ông còn thích môn Thiên văn, do đó phải học toán hình học vì ông còn thiếu nhiều khái niệm toán học để hiểu các công trình của Edmund Halley (1656-1742)
Việc học của Isaac không cho phép ông có thì giờ cưới cô Storey và cuối cùng ông sống độc thân suốt đời. Voltaire có viết "Trong suốt cuộc đời dài như vây mà ông không đam mê lẫn yếu đuối. Ông không hề đến gần người đàn bà nào. Bác sĩ riêng và bác sĩ giải phẩu đã xác nhận với tôi giữa cánh tay người quá cố".
Giáo sư Isaac Barrow, người quyết định tương lai khoa học của NewtonTại Cambridge, trong 3 năm đầu tiên của đời sống sinh viên, ông học Số học, Hình học trong Éléments của Euclide và Lượng giác. Sự gặp gỡ với giáo sư khoa học Isaac Barrow (1630 - 1677) quyết định nghề nghiệp khoa học của ông sau này. Giáo sư Barrow ngạc nhiên về trí thông minh của Newton đến nỗi ông từ chức để nhường chỗ cho Newton, một người mà ông biết ngay sẽ là một nhà toán học và vật lý học vô cùng đặc biệt.
Năm 23 tuổi, chàng thanh niên Newton nhận bằng Bachelor of Arts, tương đương với cử nhân hiện nay. Lúc bấy giờ bệnh dịch hạch lan tràn khắp Âu châu , đại học đóng cửa và Newton về quê Woolsthorpe, ở trong nông trại nơi ông sinh ra. Trong suốt hai năm, ông không ngừng làm việc, suy nghĩ và nghiên cứu khoa học.
Mùa hè năm 1666 tại Woolsthorpe, Isaac Newton sửa soạn trình bày một thí nghiệm sẽ là nguồn gốc của tất cả những lý thuyết hiện đại về ánh sáng và màu sắc.
Trong phòng thí nghiệm đóng kín cửa tối om. Từ một lỗ khoét nơi cửa một tia sáng chiếu vào trong phòng. Ông đặt một lăng kính hình lăng trụ đáy tam giác bằng thủy tinh trên con đường đi của tia sáng.
Chẳng có gì xảy ra cho tới khi ông đặt một tấm giấy trắng như một "màn ảnh". Và thật lạ lùng , thay vì tưởng nhận được một vệt trắng, ai ngờ thấy hiện ra một tập hợp màu tiếp cận nhau: mà những nhà vật lý gọi là phổ. Newton chắc chắn là nhờ lăng kính đã phân tách ánh sáng (trắng ra ánh sáng màu. Ông đặt tiếp theo một thấu kính hội tụ ánh sáng màu hội tụ và đi ngang lăng kính kình trụ, trở lại thành ánh sáng trắng
29 tuổi, ông được đắc cử vào Royal Society nhờ phát minh ra kính telescope, mà vật kính là một gương lõm .
,Ông viết những công trình về ánh sáng và đuợc nổi tiếng ngay lập tức và cũng vì những khám phá của ông mà gây ra biết bao là tranh cãi ai phát minh ra trước ai làm cho ông ghê sợ. Nhiều năm trời tranh luận giữa ông và Robert Hooke (1635 – 1703) trên vấn đề ánh sáng và lực hấp dẫn. Chính vì vậy mà để tránh tranh cãi với Robert Hooke mà ông chỉ in bài Quang học và hai bài khảo luận về toán sau khi Hooke mất.
Tuy nhiên, sự tranh luận sôi nổi nhất là Luật tỷ lệ nghịch với bình phương. Hooke chưa có luật này nhưng ông đã tiến tới trong sự hiểu biết vấn đề này. Ý của ông hoàn toàn độc lập với ý của Newton và Newton là người kín miệng, không nói cho ai biết, mấy năm sau người ta mới biết việc làm của ông. Hook cho là Newton ăn cắp tư tưởng của ông, nhưng Newton chống lại rằng ông chưa hề nghe ai nói về những nghiên cứu của Hooke và chững chưa đọc những công trình của Hooke. Nhưng ngày nay chúng ta biết là Newton nói láo, là vì ông ghét Hooke.
Ông khám phá ra toán vi phân. Cũng trong lúc đó, Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà bác học Đức cũng tìm ra cách tính này. Do đó sinh ra một cuộc bút chiến giành quyền tác giả ưu tiên, một cuộc bút chiến dữ dội và lâu dài vì Newton khái niệm về toán vi phân trước Leibniz rất lâu, nhưng Leibniz lại in đề tài này ra trước
Từ năm 1692 đến 1694, Newton bị đau màng óc, phải nghỉ gần 10 năm mới xuất bản quyển Khảo luận về Quang học và quyển Khảo luận về cách tính diện tích các đuờng cong trong đó có tính vi phân . Toán Vi phân dùng để tính những số lượng chuyển biến như sự vận động của các vật thể, của làn sóng và để giải những bài toán vật lý có liên quan tới mọi sự chuyển động
Ngay lúc đó , nhà toán dọc Đức Leibnitz cũng khám phá ra toán này nên hai bên cãi nhau để tranh giành quyền tác giả ưu tiên.
Theo ông, “phương pháp thích đáng nhất để nghiên cứu đặc tính của sự vật là suy luận xuất phát từ những cuộc thí nghiệm”
Vào tuổi 51, Newton sức khoẻ kém, tinh thấn suy sụp bởi ông thất vọng vì khám phá của mình ít được ai đánh giá cao như ý ông muốn, chao đảo bởi những vấn đề thần học và tín ngưỡng, và hình như cuộc hỏa hoạn đã đốt cháy căn nhà ông với phòng thí nghiệm cùng một số lớn bản thảo mà ông quí biết bao tất cả như giọt nước đã làm tràn cái ly đầy làm ông trở nên đa nghi đến cực độ, tạo kẻ thù khắp nơi.
Ba năm sau, tinh thấn ông khá hơn nhiều. Ông bỏ chức giáo sư, ra khỏi Cambridge vì phần lớn bạn ông đều đã chết hay đã không còn làm ở đó nữa
Năm 1699, Newton bắt đầu thích thú trong những hoạt động của Royal Society. Ít lâu sau ông được làm thành viên của hội đồng.
Năm 1701, trong cuộc họp, ông đọc một bản báo cáo hóa học mà chưa ai cho ông biết. Ngay trong năm đó, ông trình bày luật về việc làm lạnh bằng sự truyền nhiệt, đồng thời các quan sát trên nhiệt độ sôi và độ nóng chảy. Cuối cùng ông diễn tả một nhiệt kế và vẽ những khắc giữa các nhiệt độ chuẩn
Ngày 10 tháng 12 , 1701, Newton từ chức ghế giáo sư mà ông đã giữ tại trườc Đại học Cambridge mặc dù ông không còn giảng dạy từ nhiều năm
Ngày 30 tháng 11, 1703 Newton được đắc cử chủ tịch của Royal Society và giữ chức này cho đến ngày cuối cùng.
Được phong tước quý tộc năm 1705
Newton tham dự thường xuyên những buổi họp của Royal Society và tới sở đúc tiền mỗi tuần một lần.
Năm 1724 bệnh phổi của ông bắt đầu và ông bị bó buộc phải rời London để tới Kensington ở.
Ngày 28 tháng Hai 1727, ngay vừa mời bớt bệnh goutte, ông đã phải đến London để chủ tọa cuộc họp ở Royal Society. Đường xa mệt nhọc đã làm ông nằm liệt cho đến 20 tháng Ba thì ông qua đời, được mai táng trong tu viện Westminster, bên cạnh các vua Anh quốc, thọ 85 tuổi. Các cháu ông chia của cải tài sản của ông.
Năm 1687 ông xuất bản quyển Những nguyên tắc Toán học trong Triết học tự nhiên . Trong đó ông chứng minh sự rơi, sức hút vạn vật và sự chuyển động các vì sao. Đó là sức hấp dẫn vạn vật.
"...Quyển đầu tiên của bộ sách Nguyên tắc toán học, đề cập đến sự chuyển động các vật thể trong không gian. Phần thứ hai của quyển này đề cập đến sự chuyển động trong môi trường trở lực, thí dụ như chuyển động dưới nước. Trong phần cuối Newton đề cập đến sự chuyển động phức tạp của thể lỏng và những bài toán về sự chuyển động này đều được giải đáp. Ngoài ra Newton có tính các tốc độ của âm thanh và diễn tả bằng toán học sự chuyển động của làn sóng. Quyển một này là nền tảng của khoa học vật lý ,toán học, khoa thủy tĩnh học và thủy động học ngày nay..."
Và Sự thật về Newton và quả táo
Theo câu chuyện nổi tiếng do nhà văn Pháp Voltaire kể lại: một lần đi dạo trong vườn nhà ở dinh thự Woolsthorpe, Newton bị một quả táo rơi trúng đầu và từ đó nảy ra thuyết “Vạn vật hấp dẫn”. Kỳ thực lúc đó, Newton đang ngồi trong nhà nhìn ra ngoài cửa sổ thì nhìn thấy táo rơi.
Cuộc đời của các vĩ nhân
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/478467375581200/?type=1&permPage=1
-------------------------------------------
Sự thật về Isaac Newton và giai thoại quả táo rơi
(Những tài liệu được viết bằng tay, miêu tả chi tiết về việc nhà khoa học Isaac Newton đưa thuyết vạn vật hấp dẫn sau khi ông chứng kiến những trái táo rơi từ trên cây xuống đất, đã lần đầu tiên được Hội Hoàng gia Anh cho công bố trên Internet.)
Tài liệu miêu tả khoảnh khắc nhà khoa học Newton phát hiện ra thuyết vạn vật hấp dẫn là một phần trong cuốn sách dày 1752 trang về tiểu sử các nhà khoa học vĩ đại của tác giả William Stukeley. Cho đến trước thời điểm công bố rộng rãi, cuốn sách quý hiếm này vẫn được lưu giữ tại Hội Hoàng Gia (Royal Society).
Bản báo cáo viết tay này là một trong số những tài liệu về Newton được công khai trên internet bởi Viện Hàn lâm Anh quốc nhân kỷ niệm 350 năm thành lập viện này.
Lord Rees, chủ tịch Hội Hoàng Gia, nói: “Cuốn sách của Stukeley cung cấp những thông tin giá trị và chính xác về tiểu sử của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới. Tôi rất vui khi cuốn sách này được số hóa và đưa lên mạng. Điều này sẽ cho phép mọi người có thể dễ dàng tiếp cận với những tài liệu viết tay có một không hai này”.
Stukeley cũng sinh ra ở Lincolnshire và đã sử dụng quan hệ này để kết bạn với Newton. Stukeley đã vài lần trò chuyện với anh bạn thâm niên hơn kia, và hai người gặp nhau đều đặn vì là thành viên của Hội Hoàng gia, và trao đổi với nhau. Vào một dịp đặc biệt trong năm 1726, Stukeley và Newton đã có một buổi ăn tối chung với nhau ở London.
“Sau buổi tối, tiết trời đang ấm áp, chúng tôi đã tản bộ ra vườn và uống trà dưới tán một số cây táo, chỉ có ông và tôi”, Stukeley viết trong tập bản thảo viết tay kĩ càng mà Hội Hoàng gia cho công bố.
“Giữa những bài thuyết giảng khác, ông bảo tôi, ông lại ở trong tình huống tương tự, như trước đây khi ý tưởng về lực hấp dẫn xuất hiện trong đầu của ông. Tại sao quả táo đó luôn luôn rớt thẳng đứng xuống đất, ông tự nghĩ mãi; nhân lúc một quả táo rơi xuống, khi ông ngồi trong tư thế suy tư.
“Tại sao nó không rớt sang bên, hay rớt lên trên cao? Mà cứ luôn phải rớt xuống tâm trái đất? Nhất định lí do là trái đất đã hút nó xuống. Phải có một sức mạnh hút kéo nào đó ở vật chất. Và tổng sức mạnh hút kéo trong vật chất của trái đất phải nằm ở tâm của trái đất, chứ không nằm ở bất kì chỗ nào khác của trái đất.
“Vì thế, quả táo này có rơi vuông góc hay tiến về phía tâm ấy hay không? Nếu vật chất theo cách đó hút lấy vật chất, thì nó phải tỉ lệ với lượng của nó. Do đó, quả táo hút lấy trái đất, đồng thời trái đất hút lấy quả táo”.
Tác giả Stukeley cũng thu thập các tư liệu về thời niên thiếu của Newton trong thời gian định cư và học ở Grantham, Lincolnshire. Trong đó, một câu chuyện đã ghi lại rằng lúc nhỏ nhà bác học Newton đã dựng được một mô hình của cối xay gió và làm nó hoạt động như cối xay gió thực.
=======================
Ở Va-lăng-xơ, viên sĩ quan trẻ tuổi ấy sống một cuộc sống khó khăn. Hàng tháng, Na-pô-lê-ông gửi về cho mẹ gần hết số lương chỉ giữ lại đủ để trả tiền những bữa ăn đạm bạc của mình và không vui chơi giải trí gì. Trong ngôi nhà Na-pô-lê-ông thuê được một căn buồng, có một cửa hàng nhỏ bán sách cũ. Na-pô-lê-ông đã dành tất cả thời gian rỗi rãi của mình vào việc đọc sách do người chủ hiệu cho mượn. Na-pô-lê-ông không thích giao du, vả lại Na-pô-lê-ông ăn mặc quá tồi tàn đến nỗi không muốn và cũng không thể có một cuộc sống xã giao tối thiểu. Na-pô-lê-ông say mê đọc sách chưa từng thấy, khi đọc ông ghi chép và viết những ý kiến phân tích của mình dày đặc cả sổ tay.
Trước hết, Na-pô-lê-ông thích đọc các tác phẩm lịch sử quân sự, sách toán học, địa lý và các sách tả cuộc du lịch. Na-pô-lê-ông cũng đọc cả sách triết học. Chính vào thời kỳ này Na-pô-lê-ông bắt đầu nghiên cứu những tác giả cổ điển của Thế kỷ ánh sáng: Vonte 3,Rút xô , Đa-lăm-be, Ma-bơ-li và Ray-nan.
Thật khó mà xác định được vào thời kỳ nào thì xuất hiện ở Na-pô-lê-ông những dấu hiệu đầu tiên của lòng căm ghét đối với những nhà tư tưởng của cuộc cách mạng tư sản và thứ triết học rất đặc biệt của Na-pô-lê-ông. Dù sao, lúc này, người trung uý phó 16 tuổi vẫn học nhiều hơn là phê phán. Và đây nữa cũng là một điểm cơ bản của tinh thần Na-pô-lê-ông: thời thanh niên, khi đọc sách cũng như khi tiếp xúc với người mới quen biết, Na-pô-lê-ông đều khao khát và nóng lòng muốn được hấp thụ nhanh chóng và đầy đủ những điều mà mình chưa biết tới, những điều có thể góp phần bồi dưỡng tinh thần cho bản thân mình.
Na-pô-lê-ông cũng đọc các tác phẩm văn học bằng văn xuôi, văn vần; say mê cuốn tiểu thuyết Véc-te và một vài tác phẩm khác của Gớt: đọc cả tác phẩm của Ra-xin, Coóc-nây,Mô-li-e , các bài thơ lừng danh một thời bị gán là của ốt-xi-ăng, một thi sĩ hát rong người ê-cốt thời trung cổ (thực tế chỉ là một sự lừa nghịch trong văn học). Đọc những loại sách ấy xong, Na-pô-lê-ông lại lao vào sách toán học và các tác phẩm có liên quan đến các vấn đề quân sự, đặc biệt là pháo binh.
Tháng 9 năm 1786, Na-pô-lê-ông xin phép nghỉ dài hạn về quê ở A-giắc-xi-ô để thu xếp sự sinh sống của gia đình. Khi chết, bố Na-pô-lê-ông có để lại một ít tài sản và một số công việc khá rắc rối. Na-pô-lê-ông đã giải quyết những công việc đó một cách tích cực và có kết quả. Na-pô-lê-ông được phép nghỉ thêm đến giữa năm 1788, không được hưởng lương nhưng kết quả hoạt động của Na-pô-lê-ông để ổn định công việc gia đình đã bù đắp lại.
Trở về Pháp vào tháng 6 năm 1788, Na-pô-lê-ông đi theo trung đoàn lên đóng ở ốc-xon và, lần này, Na-pô-lê-ông ở trong trại, không ở nhà riêng nữa. Na-pô-lê-ông vẫn mê mải đọc tất cả các loại sách đã có trong tay và đặc biệt là các tác phẩm bàn về những vấn đề quân sự đã làm say mê các chuyên gia ở thế kỷ thứ XVIII. Một lần, bị phạt không được đi lại, Na-pô-lê-ông đã tìm được ở nơi nhốt mình một cuốn sách cũ nói về pháp luật đời cổ La Mã, viết theo lệnh của Hoàng đế Giu-xti-niêng. Na-pô-lê-ông không những đã đọc hết cuốn đó, mà gần 15 năm sau, trong khi biên soạn bộ dân luật, Na-pô-lê-ông còn đọc thuộc lòng cả bộ tuyển tập pháp luật La Mã. Việc này đã làm cho các nhà luật học lỗi lạc nhất ở Pháp ngạc nhiên. Na-pô-lê-ông quả có một trí nhớ phi thường.
Khả năng làm việc bằng trí óc một cách căng thẳng cũng như khả năng tập trung cao độ và lâu dài sức suy nghĩ của Na-pô-lê-ông đã thấy lộ rõ từ thời kỳ này. Sau này, nhiều lần Na-pô-lê-ông nói rằng: nếu người ta thấy tôi luôn luôn sẵn sàng đối phó với mọi tình huống thì điều đó có thể giải thích như thế này: trước khi làm bất cứ việc gì, tôi đã suy nghĩ kỹ trước khá lâu và dự kiến hết những gì có thể xảy ra. Chẳng phải là đã có một vị thần thánh nào thình lình hiện ra để gà cho Na-pô-lê-ông những tình huống dường như bất ngờ đối với những người khác, Na-pô-lê-ông nói thêm rằng "... Lúc nào tôi cũng làm việc, làm việc trong khi ăn, ở rạp hát, ban đêm...". Khi nói đến thiên tài của mình thì lời lẽ của Na-pô-lê-ông thường đượm vẻ châm biếm hoặc giễu cợt và rồi bao giờ Na-pô-lê-ông cũng nhấn mạnh và rất nghiêm túc đến tinh thần làm việc của mình. Na-pô-lê-ông lấy làm tự hào về khả năng làm việc vô tận của mình hơn bất cứ năng khiếu nào khác mà tạo hoá đã ban cho một cách vô cùng rộng lượng.
Ở ốc-xon, Na-pô-lê-ông viết một cuốn sách nhỏ nói về thuật bắn (về cách phóng đạn. Binh chủng pháo binh thật sự trở thành sở trường của Na-pô-lê-ông. Trong tài liệu của Na-pô-lê-ông ở thời kỳ này, người ta còn tìm thấy một vài bản thảo tác phẩm văn học, những công trình nghiên cứu có tính chất triết học và chính trị, v.v. Tư tưởng của Na-pô-lê-ông thường thấy đượm ít nhiều màu sắc của chủ nghĩa tự do và đôi khi còn lắp lại y nguyên một số tư tưởng của Rút-xô, mặc dầu, nói chung, người ta không thể nào coi Na-pô-lê-ông như một tín đồ của tác phẩm Khế ước xã hội.
Trong những năm này, có một điểm nổi bật: ý chí và lý trí của Na-pô-lê-ông đã hoàn toàn khống chế được những ham mê về dục vọng. Na-pô-lê-ông không bao giờ ăn thích khẩu, thường xa lánh chỗ đông người, xa lánh giới phụ nữ, khước từ mọi cuộc vui chơi giải trí, làm việc không mệt mỏi, dành tất cả thời giờ nhàn rỗi vào việc đọc sách. Liệu Na-pô-lê-ông có cam chịu mãi mãi với số phận của mình, số phận của một viên sĩ quan nghèo tỉnh nhỏ, xuất thân trong gia đình quý tộc nghèo người Coóc, luôn luôn bị lũ bạn bè quyền quý và bọn cấp trên quyền quý nhìn bằng con mắt khinh bỉ không?
Trước khi Na-pô-lê-ông có thời gian để tìm được câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi ấy và cũng chưa có cả thời gian để xây dựng kế hoạch cụ thể cho tương lại thì cái sân khấu mà Na-pô-lê-ông đang chuẩn bị vai trò để bước lên hoạt động đã bắt đầu lung lay, rồi cuối cùng tan vỡ và sụp đổ: Cách mạng Pháp bùng nổ.
Biết bao nhiêu nhà chép tiểu sử và viết tiểu sử của Na-pô-lê-ông có khuynh hướng gán cho nhân vật của họ có đức khôn ngoan siêu phàm, có bẩm năng tiên đoán việc đời, có lòng tin vào thiên chức của mình, muốn tìm xem trong viên trung uý pháo binh mới 20 tuổi đóng ở ốc-xon này có tiên cảm gì về những lợi ích mà cuộc cách mạng nổ ra năm 1789 ắt phải đem lại cho chàng ta.
Thực tế, mọi việc đã xảy ra một cách giản đơn và tự nhiên hơn nhiều. Do vị trí xã hội của mình, Na-pô-lê-ông chỉ có lợi trong cuộc chiến thắng của giai cấp tư sản đối với chế độ phong kiến chuyên chế. ở Coóc, ngay cả dưới thời thống trị của Giên, bọn quý tộc (đặc biệt là tầng lớp quý tộc địa chủ nhỏ) không bao giờ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà bọn quý tộc Pháp rất quý trọng. Dẫu sao chàng quý tộc nhỏ này, gốc gác ở một hòn đảo ý kém văn minh, vừa mới bị người Pháp xâm chiếm, cũng không thể mong có được bước đường công danh rạng rỡ và nhanh chóng ở trong quân đội. Trong cuộc cách mạng 1789, nếu có cái gì có thể cám dỗ được chàng ta, thì chính là từ nay trở đi chỉ riêng có những khả năng của cá nhân là có thể giúp cho con người leo lên những bậc thang xã hội. Để nhảy vào cuộc, viên trung uý pháo binh Bô-na-pác không cần gì khác nữa.
Những suy tính thực tiễn đã thu hút tâm trí Na-pô-lê-ông. Lợi ích to lớn nhất mà Na-pô-lê-ông có thể thu được ở cách mạng là cái gì? Và ở đâu có điều kiện tốt nhất? Có hai câu trả lời: một là ở Coóc, hai là ở Pháp. Lúc này, không nên đánh giá quá cao phạm vi và mức độ yêu đảo Coóc của Na-pô-lê-ông. Vào năm 1789, chàng trung uý Bô-na-pác chẳng còn nhớ tới chú sói con 10 tuổi đã từng đánh nhau rất hăng ở trong sân trường Briên, mỗi khi bạn bè chế giễu gọng Coóc của mình.
Bây giờ chàng ta đã biết thế nào là nước Pháp và thế nào là đảo Coóc, đã có thể so sánh được hai nước này về mặt diện tích, và tất nhiên đã nhận ra được hai nước này không giống nhau đến mức độ nào. Nhưng vấn đề đặt ra ngay cả vào năm 1789, Na-pô-lê-ông cũng không thể hy vọng chiếm được ở nước Pháp cái địa vị mà ông có thể có được ở Coóc, nhất là nay cách mạng đã bắt đầu bùng nổ, mặc dầu ở Coóc, Na-pô-lê-ông có rất ít điều kiện thuận lợi. Hai tháng rưỡi sau khi ngục Ba-xti 1 bị phá, Na-pô-lê-ông xin phép nghỉ và trở về Coóc.
Trong số rất nhiều tác phẩm định viết, đúng vào năm 1789, Na-pô-lê-ông đã viết xong một bản tiểu luận nói về lịch sử đảo Coóc và trao bản đó cho Ray-nan để xin ý kiến, và Na-pô-lê-ông rất lấy làm thích thú về lời đánh giá tâng bốc của nhà văn đang nổi tiếng ấy. Chủ đề ấy đủ để chứng minh rằng Na-pô-lê-ông rất quan tâm đến hòn đảo quê hương của mình, ngay cả khi Na-pô-lê-ông còn chưa có khả năng để chuyên tâm hoạt động chính trị ở đó. Về tới nhà mẹ, Na-pô-lê-ông lập tức tuyên bố tán thành Pao-li (Pao-li đã trở về sau một thời gian dài bị đày) nhưng Pao-li đã tiếp viên trung uý trẻ tuổi rất lạnh nhạt, và, chẳng bao lâu, quả nhiên là mỗi người đi một con đường khác. Pao-li mơ tưởng đến việc giải phóng hoàn toàn đảo Coóc khỏi ách đô hộ của người Pháp, còn Bô-na-pác thì cho rằng cuộc cách mạng mở ra những con đường mới cho sự tiến bộ của đảo Coóc và có thể - điều này mới chính - cho sự nghiệp của bản thân.
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/477037239057547/?type=1&permPage=1
--------------------------------------
Chương I: Thời niên thiếu của Napoleon Bonaparte
Ngày 15 tháng 8 năm 1769, tại thành phố A-giắc-xi-nô thuộc đảo Coóc, Lê-ti-ti-a Bô-na-pác, 19 tuổi, vợ một người quý tộc địa phương làm nghề luật sư, đang đi ngoài phố bỗng thấy đau đẻ, vội rảo bước về nhà thì sinh được một đứa con trai. Lúc bấy giờ, quanh Lê-ti-ti-a không có ai nên đứa bé đã bị đẻ rơi. Thế là gia đình của Sác Bô-na-pác, một luật sư nghèo ở thành phố A-giắc-xi-ô, thêm một người. Sác Bô-na-pác quyết định cho con mình hấp thụ nền giáo dục Pháp chứ không phải nền giáo dục Coóc. Khi đứa bé lớn lên, gia đình đông người ấy không có đủ tiền cho con ăn học, Sác Bô-na-pác đã xin được học bổng cho con vào theo học ở một trường võ bị Pháp. Đảo Coóc, sau nhiều năm thuộc về nước Cộng hoà Giên, đã nổi dậy dưới sự lãnh đạo của một địa chủ địa phương tên là Pao-li, và, năm 1755, đã đuổi được người Giên ra khỏi đảo. Lẽ dĩ nhiên, đó là một cuộc khởi nghĩa của tầng lớp tiểu quý tộc nông thôn và của nông dân được những người săn bắn, những người chăn cừu ở trên núi và dân nghèo ở một vài thành thị ủng hộ. Tóm lại, đó là cuộc khởi nghĩa của một dân tộc muốn thoát ra khỏi ách bóc lột hà khắc về thuế khoá và cai trị của một nước cộng hoà buôn bán. Cuộc khởi nghĩa thu được thắng lợi, và từ năm 1755, đảo Coóc sống độc lập dưới sự lãnh đạo của Pao-li. Những tàn dư của xã hội tộc trưởng vẫn còn mạnh (đặc biệt ở trong nội địa đảo). Thỉnh thoảng, các thị tộc lại giao tranh ác liệt và dai dẳng. Tệ tục "thù truyền kiếp" rất phổ biến, thường được kết thúc bằng những trận chiến đấu khủng khiếp. Năm 1868, nước Cộng hoà Giên đã bán lại cho vua nước Pháp Lu-i XV "quyền hành của mình" ở Coóc-thực tế quyền hành ấy đã bị thủ tiêu-và mùa xuân năm 1869, quân đội Pháp đã đánh bại quân của Pao-li (việc này xảy ra vào tháng 5 năm 1869, ba tháng trước khi Na-pô-lê-ông ra đời). Đảo Coóc trở thành đất đai thuộc Pháp.
Như vậy, Na-pô-lê-ông đã sống những ngày thơ ấu trong một thời mà lòng dân đảo Coóc còn luyến tiếc nền độc lập chính trị đã mất đi một cách quá đột ngột, còn như một bộ phận của giai cấp địa chủ và tư sản thành thị thì tự nhủ rằng tốt hơn hết là hãy trở thành những thần dân trung thành và tự nguyện của nước Pháp. Bố Na-pô-lê-ông, Sác Bô-na-pác, thuộc phái thân người bảo vệ đảo Coóc đã bị đưa đi đày, và căm ghét những người xâm lăng.
Ngay từ hồi còn nhỏ, Na-pô-lê-ông đã tỏ ra không nhẫn nại và nôn nóng. Sau này, khi ôn lại những kỷ niệm thời ấu thơ của mình, Na-pô-lê-ông nói rằng: không ai bắt nạt được mình, hay gây gổ, hay đánh đứa này, chọc đứa khác và mọi đứa bé đều sợ cậu ta. Đặc biệt là Giô-dép, anh Na-pô-lê-ông, đã phải chịu đựng chuyện ấy nhiều.
Na-pô-lê-ông đánh anh, cắn anh, nhưng chính Giô-dép lại bị quở mắng, vì sau cuộc ẩu đả, Giô-dép chưa kịp hoàn hồn thì Na-pô-lê-ông đã đi mách mẹ. Na-pô-lê-ông kể thêm: mưu mẹo đã giúp tôi như vậy đấy, nếu không mẹ tôi đã phạt tôi về tội hay cãi nhau và không bao giờ tha thứ những hành động gây gổ của tôi.
Na-pô-lê-ông là một đứa trẻ lầm lì và nóng tính. Tuy bà mẹ yêu con, nhưng dạy dỗ Na-pô-lê-ông cũng nghiêm khác như đối với anh em của Na-pô-lê-ông. Gia đình sinh hoạt tằn tiện nhưng không túng bấn. Trông bề ngoài, ông bố là một người đàn ông tốt và bà Lê-ti-ti-a, người chủ thật sự của gia đình, một người đàn bà quả quyết, nghiêm khác và cần cù. Na-pô-lê-ông thừa hưởng của mẹ tinh thần ham làm việc và nếp sống trật tự nghiêm ngặt.
Đảo Coóc ở xa lục địa, nhân dân còn man rợ sống trong núi rừng, những cuộc xung đột kéo dài giữa các thị tộc, tệ nạn "thù truyền kiếp", mối ác cảm rất khéo che giấu nhưng sâu sắc, dai dẳng của dân đảo đối với bọn xâm lược Pháp, tất cả những đặc điểm đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những cảm giác đầu tiên của cậu bé Na-pô-lê-ông. Năm 1779, sau bao lần chạy chọt, Sác Bô-na-pác mới gửi được hai đứa con lớn là Giô-dép và Na-pô-lê-ông sang Pháp theo học ở trường trung học Ô-toong; mùa xuân năm ấy, Na-pô-lê-ông được nhà trường nước Pháp cấp học bổng và chuyển sang học ở trường võ bị Briên, một thị trấn nhỏ ở miền đông nước Pháp. Lúc này, Na-pô-lê-ông 10 tuổi.
Ở Briên, Na-pô-lê-ông là một đứa bé âu sầu, kín đáo, cáu kỉnh và hay giận dữ lâu, không gần gũi ai, không coi ai ra gì, không bạn bè, cảm tình với ai, rất tự tin mặc dầu tầm vóc nhỏ bé và còn ít tuổi. Người ta đã thử sỉ nhục, trêu chọc, chế giễu giọng nói địa phương của Na-pô-lê-ông. Cậu Bô-na-pác đã giận dữ ẩu đả, có khi được có khi thua, nhưng cũng đã làm cho bẹn bè của cậu hiểu rằng những cuộc xung đột như vậy không phải là không nguy hiểm. Na-pô-lê-ông học giỏi lạ lùng, nghiên cứu đến nơi đến chốn sử Hy Lạp và sử La Mã, cũng rất say mê toán học và địa lý. Các giáo sư của trường võ bị ở cái tỉnh nhỏ đó không giỏi lắm về các môn khoa học mà họ giảng dạy nên cậu Na-pô-lê-ông phải bồi bổ thêm kiến thức của mình bằng cách đọc sách. Na-pô-lê-ông đọc sách trong những năm còn ít tuổi và sau này còn đọc rất nhiều và đọc rất nhanh. Lòng yêu quê hương đảo Coóc của Na-pô-lê-ông đã làm cho bạn bè người Pháp ngạc nhiên và xa lánh Na-pô-lê-ông: lúc bấy giờ Na-pô-lê-ông còn coi nước Pháp như một chủng tộc xa lạ, là những kẻ xâm lược hòn đảo quê hương của mình. Na-pô-lê-ông chỉ liên lạc được với tổ quốc xa xôi của mình bằng thư từ của bố mẹ, anh em, vì gia đình không đủ tiền cho Na-pô-lê-ông về nhà nghỉ hè.
Năm 1784, 15 tuổi đã học xong và tốt nghiệp, Na-pô-lê-ông được gửi đi học ở trường võ bị Pa-ri, nơi đào tạo sĩ quan của quân đội lúc bấy giờ. Trường này có nhiều giáo sư rất giỏi, trong số đó có nhà toán học Mông-giơ và nhà thiên văn học La-plát. Na-pô-lê-ông say sưa học và đọc sách. Từ đó, Na-pô-lê-ông có sách, có thầy để học. Những ngày trong năm đầu, Na-pô-lê-ông đã gặp một điều không may: vào học ở trường võ bị từ cuối tháng 10 năm 1784 thì đến tháng 2 năm 1785, bố Na-pô-lê-ông chết vì bệnh ung thư dạ dày cũng như sau này chính Na-pô-lê-ông đã bị. Hầu như gia đình không còn cách sống. Không thể trông mong được mấy vào người anh cả Giô-dép, một người bất lực và lười biếng, cậu học sinh sĩ quan 16 tuổi phải đứng ra chăm sóc mẹ và các em trai, em gái của mình. Sau một năm học ở trường võ bị Pa-ri, ngày 30 tháng 10 năm 1785, Na-pô-lê-ông nhập ngũ, mang cấp hiệu thiếu uý và nhận công tác ở một trung đoàn đóng ở Va-lăng-xơ.
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/476720645755873/?type=1&permPage=1
------------------------------------------------------
Napoleon Bonaparte có lùn hay không?
Napoléon Bonaparte sinh năm 1769 tại Ajaccio, thuộc đảo Corsica, với tên là Napoleone di Buonaparte (viết theo phương ngữ đảo Corsica là Nabolione hay Nabulione) trong một gia đình quý tộc sa sút. Về sau ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn. Khi được cha mẹ cho sang Pháp học, lúc đầu ông muốn học về hải quân nhưng do ý muốn của mẹ, ông quyết định học ngành pháo binh, chính đây là cái nôi đầu tiên tạo ra một vị chỉ huy lục quân tài giỏi cho nước Pháp.
Nhớ tới Napoleon, người ta sẽ nhớ tới một con người có tài thao lược, cứng rắn, đầy tham vọng và … có chiều cao khiêm tốn. Tuy nhiên, trừ những tính cách trên thì đặc điểm mô tả về chiều cao của ông vua này có vẻ không đúng. Cho tới khi mất, Napoleon được ghi nhận là có chiều cao 5 feet 2 inches. Tuy vậy, đây là feet và inch của Pháp và nếu đổi sang hệ quy chuẩn bây giờ thì Napoleon phải cao tới 5 feet 7 inches (tương đương với 1.7m). Vào thời đó, trung bình người Pháp chỉ cao có 5 feet 5 inches nên chiều cao của Napoleon so với người Pháp trung bình là không hề kém cạnh mà trái lại ông còn cao hơn họ.
Để giải thích cho điều này, người ta cho rằng do Napoleon luôn luôn đi với lính gác to cao hơn mình nên tạo ra cảm giác ông là một người có chiều cao khiêm tốn. Sự thật thì ông vua nổi danh đã từng làm cho cả châu Âu phải khiếp sợ này không hề lùn như người ta tưởng. Trong các bộ phim nổi tiếng sau này về ông, nhân vật Napoleon thường được chọn là một nhân vật đậm người và có chiều cao khiêm tốn so với người bình thường. Đây có lẽ cũng là một sai lầm về lịch sử của các nhà làm phim khi khắc họa Napoleon Bonaparte.
Nhớ tới Napoleon, người ta sẽ nhớ tới một con người có tài thao lược, cứng rắn, đầy tham vọng và … có chiều cao khiêm tốn. Tuy nhiên, trừ những tính cách trên thì đặc điểm mô tả về chiều cao của ông vua này có vẻ không đúng. Cho tới khi mất, Napoleon được ghi nhận là có chiều cao 5 feet 2 inches. Tuy vậy, đây là feet và inch của Pháp và nếu đổi sang hệ quy chuẩn bây giờ thì Napoleon phải cao tới 5 feet 7 inches (tương đương với 1.7m). Vào thời đó, trung bình người Pháp chỉ cao có 5 feet 5 inches nên chiều cao của Napoleon so với người Pháp trung bình là không hề kém cạnh mà trái lại ông còn cao hơn họ.
Để giải thích cho điều này, người ta cho rằng do Napoleon luôn luôn đi với lính gác to cao hơn mình nên tạo ra cảm giác ông là một người có chiều cao khiêm tốn. Sự thật thì ông vua nổi danh đã từng làm cho cả châu Âu phải khiếp sợ này không hề lùn như người ta tưởng. Trong các bộ phim nổi tiếng sau này về ông, nhân vật Napoleon thường được chọn là một nhân vật đậm người và có chiều cao khiêm tốn so với người bình thường. Đây có lẽ cũng là một sai lầm về lịch sử của các nhà làm phim khi khắc họa Napoleon Bonaparte.
====================
Cuộc đời & sự nghiệp Steve Jobs
Steven Paul Jobs sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, là con trai của một cặp sinh viên đại học chưa kết hôn: Joanne Schiebe và Abdulfattah Jandali, người gốc Syria.
Ông bị cha mẹ ruột từ bỏ và được một đôi vợ chồng người California là Paul và Clara Jobs nhận nuôi.
Nhiều tháng sau đó, cha mẹ ruột của ông thành hôn và sinh một người con gái, Mona, cô không hề biết đến sự tồn tại của anh trai mình cho mãi đến khi trưởng thành.
Ông lớn lên tại gia đình cha mẹ nuôi ở Thung lũng Silicon, trung tâm của nền công nghệ điện tử Mỹ.
Khi đang học cấp ba, Jobs được mời làm việc thêm trong mùa hè tại nhà máy của Hewlett Packard ở Palo Alto. Tại đây ông làm cùng với một sinh viên tên là Steve Wozniak.
Ông bỏ học cao đẳng ngay sau học kỳ đầu tiên và đi làm cho công ty sản xuất trò chơi điện tử Atari để kiếm tiền đi du lịch Ấn Độ.
Jobs trở về từ nơi đây với chiếc đầu cạo trọc, mặc áo quần của Ấn Độ và mang theo những trải nghiệm LSD (một loại ma túy tổng hợp); từ đó ông theo đạo Phật và ăn chay suốt đời.
Ông quay lại làm việc với Atari và tham gia câu lạc bộ máy tính tại địa phương với Steve Wozniak, lúc đó đang tự thiết kế và chế tạo máy tính riêng của mình.
Năm 1976 Jobs đã có được hợp đồng bán 50 chiếc máy tính còn chưa sản xuất của Wozniak cho một cửa hàng máy tính, và nhờ có đơn đặt hàng này, ông đã thành công khi thuyết phục một nhà phân phối điện tử cho ông mua nợ các bộ phận để lắp máy.
Ông khai trương chiếc máy tính đầu tiên, Apple I, mà không phải mượn tiền hay phải chia cổ phần với bất kỳ ai khác.
Ông đặt tên công ty dựa theo loại trái cây yêu thích nhất của mình, mà có thể do tình cờ hay cố ý, tên Apple luôn xuất hiện trước Atari trong danh bạ điện thoại.
Tất cả lợi nhuận từ dòng Apple đầu tiên đều được dồn vào đầu tư cho bản cải tiến Apple II, được xuất hiện tại hội chợ máy tính California năm 1977.
Để phát triển dòng máy mới này cần đến rất nhiều tiền, và Jobs đã thuyết phục Mike Markkula, một nhà đầu tư địa phương, cho vay 250 ngàn đô la, và cùng với Wozniak, nhóm ba người thành lập công ty máy tính Apple.
Apple II, không giống như các dòng máy tính khác thời đó, được tung ra thị trường là một khối hoàn chỉnh, người mua không phải tự mua và lắp đặt các thành phần khác nhau.
Mẫu mới này thành công ngay lập tức, khởi động sự bùng nổ của hệ thống máy tính cá nhân, đạt số lượng bán hơn sáu triệu trước khi ngừng sản xuất vào năm 1993.
Một trong những thành viên của hội đồng quản trị Apple cho rằng Jobs là người ‘thiếu kiểm soát’. “Ông ta nảy ra một ý tưởng nào đó và do là người sáng lập công ty, ông cứ thế tự đi thực hiện ý tưởng đó mặc cho nó có tốt cho công ty hay không.”
Jobs giới thiệu Macintosh năm 1984 và được hưởng ứng nhiệt liệt, nhưng đằng sau đó là những vấn đề về tài chính ở Apple.
Số lượng bán giảm xuống, bực bội tăng lên. Rất nhiều nhân viên trong công ty cho rằng Jobs là kẻ chuyên quyền, và do đó dẫn đến những bất đồng quyền lực nội bộ. Ông bị đẩy đi khỏi công ty.
Vào thời điểm này ông cũng đã thành lập hãng máy tính NeXT vào năm 1985 và một năm sau đó mua lại Graphics Group từ đạo diễn phim Chiến tranh các vì sao, George Lucas.
Công ty này sau đó được Jobs đổi tên thành Pixar, chuyên sản xuất linh kiện phần cứng của các máy tính cao cấp dành cho thiết kế hoạt hình, được sử dụng bởi rất nhiều các nhà làm phim, trong đó có cả Disney.
Jobs chuyển sang tập trung sản xuất máy tính thiết kế phim truyện hoạt họa.
Máy tính bảng Ipad là trong số những sản phẩm rất ăn khách của hãng Apple dưới sự dẫn dắt của Steve Jobs
Bước đột phá là năm 1995 khi Toy Story, với doanh thu đạt tới 350 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới, và một loạt những thành công như A Bug’s Life, Finding Nemo, và Monsters Inc.
Một năm sau, Apple trả hơn 400 triệu đô la Mỹ cho máy tính NeXT. Jobs trở về với công ty do chính mình sáng lập, ngay lập tức thay thế Giám đốc điều hành Apple lúc đó.
Jobs giải quyết tình trạng doanh thu thấp của Apple bằng cách hủy bỏ những dự án nhỏ và chuyển hướng sang tập trung vào thị trường tiêu dùng mới của công nghiệp điện tử.
iPod được khai trương năm 2001 làm thỏa mãn nhu cầu âm nhạc mọi nơi mọi lúc của khách hàng, và ngay lập tức trở thành biểu tượng phong cách bởi thiết kết bóng bẩy và tai nghe màu trắng khác biệt.
Để duy trì dòng máy mới của mình, Jobs cũng cho ra đời iTunes, cho phép khách hàng tải nhạc từ internet và tạo ra playlist của riêng mình.
iPhone
Năm 2003, Jobs được chẩn đoán bị ung thư tụy, ông từ chối phẫu thuật và tìm đến những cách chữa bệnh khác, trong đó có ăn kiêng đặc biệt.
Cuối cùng ông cũng đồng ý phẫu thuật vào năm 2004, luôn giữ kín tình trạng bệnh tật của mình mà chỉ một nhóm người rất nhỏ trong Apple được biết.
Năm 2005 Disney trả bảy triệu đô la cổ phiếu để mua lại Pixar, khiến Jobs trở thành cổ đông lớn nhất của hãng Walt Disney.
Hai năm sau, một cuộc khai trương đình đám khác, Jobs giới thiệu iPhone, đám đông lớn xếp hàng nhiều tiếng đồng hồ ở các cửa hàng Apple địa phương.
Năm 2008, máy tính cá nhân siêu mỏng Macbook Air ra đời. Như thường lệ, Jobs mặc áo len đen cao cổ và quần Jeans bạc màu đứng giới thiệu trên sân khấu.
Ông gầy và xanh làm dư luận xôn xao rằng bệnh tình của ông có lẽ đã quay trở lại. Đến đầu năm 2009 ông phải nghỉ sáu tháng để chữa ‘mất cân bằng hoocmôn’.
Tháng tư năm đó ông trải qua phẫu thuật thay gan, và bác sĩ của ông tuyên bố rằng bệnh tình của ông có những tiến triển ‘tuyệt vời’.
Tuy nhiên, đến tháng một năm 2011, Apple thông báo Jobs vắng mặt vì lý do sức khỏe.
Không giống với người cùng thời, Bill Gates của Microsoft, Steve Jobs không cho thấy có xu hướng dùng sự giàu có của mình cho các mục đích từ thiện.
Và một điều lạ đối với một người theo đạo Phật, ông cũng chẳng hưởng ứng những lo ngại về môi trường, với Apple bị tổ chức Greenpeace chỉ trích do hãng này miễn cưỡng không muốn sản xuất những sản phẩm có thể dễ dàng tái chế.
Steve Jobs là một người có một không hai; một người hoàn toàn tự tin vào khả năng của chính mình và một người thiếu kiên nhẫn với những ai không đồng ý với ông.
Cái tài lớn của ông là khả năng tiên đoán thị trường và con mắt biết nhận ra những thiết kế đẹp và các sản phẩm đầy sáng tạo khiến ai cũng muốn mua.
“Ta không thể hỏi khách hàng xem họ muốn gì và rồi đưa cho họ cái đó,” ông từng nói. “Trong lúc ta sản xuất ra sản phẩm đó thì họ đã muốn cái mới rồi”.
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/476713235756614/?type=1&permPage=1
====================
Bức thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học.
Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ có những con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết, nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với 5 đô la nhặt được trên hè phố...
Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng.
Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ.
Xin dạy cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất...
Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách... nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo thời thế.
Bức thư của Abraham Lincoln gửi thầy giáo con trai 1
Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người những cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp...
Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã, xin hãy dạy cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.
Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yếm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình...
Xin hãy dạy cho cháu khoanh tay làm ngơ trước một đám đông đang gào thét... và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng…
Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn.
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt tối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và may mắn.
https://www.facebook.com/CuocDoiCuaCacViNhan/photos/a.476713232423281.1073741826.476707302423874/671216146306321/?type=1&permPage=1
========================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét