Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

Trương Vĩnh Ký (1837–1898)

Trương Vĩnh Ký (1837–1898):
Là nhân vật có diện mạo khá đặc biệt trong lịch sử Việt Nam cận đại. Sự đặc biệt ấy không phải do đương sự tạo nên mà do giới cầm quyền từ triều đình nhà Nguyễn và chính quyền thực dân đô hộ tô vẽ ra. Sau này, các thế lực chính trị đủ màu sắc lại dựa vào đấy nhằm phụ họa cho những ý đồ riêng của họ. Ông ta được Giáo hội Kito nuôi dạy từ tuổi ấu thơ để thành học giả nổi danh giữa lúc nền văn hóa Đông-Tây mới tiếp cận nhau.
Tuy nhiên học vấn là một chuyện và thái độ với tổ quốc và dân tộc lại là một chuyện. Trương ra hợp tác với quân xâm lược rất sớm. Từ người tu hành chuyển sang làm thông ngôn sau thành quan lại, đóng vai trò gạch nối giữa nhà nước thực dân với triều đình An Nam lúc đó. Năm 1876, được quan thuộc địa cử ra Bắc kỳ công cán, thực ra là làm nhiệm vụ dò xét thổ nhưỡng, dân tình. Trương gửi báo cáo về quan trên:
“Các quan lại Nam triều thường nói với tôi rằng nước Pháp cố ý xâm chiếm xứ này. Tôi trả lời là không!... Tất cả qúy vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý muốn xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc đó từ lâu một cách dễ dàng, không cần bàn cãi gì cả. Qúy vị phải hiểu rằng qúy vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của ai đó để gượng dậy. Và tốt hơn, qúy vị chỉ nên tin vào người bạn đồng minh tiếng tăm và phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, không hậu ý, không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ chứ không phải một cái chìa ra còn bàn kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những do dự, những điều nói nửa lời đầy âm mưu của qúy vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc qúy vị với số phận”!
Khẩu khí ấy rõ là của thằng Tây thuộc địa hợm hĩnh với dân bản xứ: miệt thị, bịp bợm, dọa dẫm, mua chuộc tuy có chỗ chọc đúng vào điểm yếu trì trệ và hủ lậu của giới sỹ phu ta lúc đó. Trương bị giới nho sỹ Bắc Hà nhạo báng thẳng thừng trên những câu thơ, đối chương lên báo chí:
“Hay tám vạn tư mặc kệ
Không Quân–Thần–Phụ–Tử đếch ra người”,
Trương phải bỏ dở chuyến công du.
Do sức ép của chính quyền thực dân, triều đình nhà Nguyễn phải chấp nhận dành phẩm trật cao giữa triều đình cho một số người của Giáo hội Kito. Năm 1886, Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký được phong Đại quan Cơ mật viện tham tá, sung Hàn lâm thị giảng học sỹ. Trong vai trò ấy, Trương là một quan chức mẫn cán của nhà nước thực dân, kiểm soát mọi hoạt động và đốc thúc Nam triều thực thi cái gọi là Hòa ước Patenôtre – Giáp thân (1884), đặt toàn bộ Việt Nam dưới quyền cai trị của thực dân Pháp. Vua tôi An Nam nếu không thành bù nhìn thì cũng là công cụ trong bộ máy thống trị của ngoại bang! Trong thư gửi cho một linh mục:
“Những gì tôi nói ở đây là do mắt thấy, tai nghe. Trong cái nhìn đặc biệt về lợi ích của nước Pháp, việc Đồng Khánh lên ngôi quả là may mắn”
và Trương báo cáo với Toàn quyền Paul Bert:
“Tôi sẽ trấn áp những hãnh thần (là những người có tư tưởng chống Pháp) và sẽ bao vây lấy nhà vua (Đồng Khánh). Tôi cũng sẽ gom những người thật sự có khả năng (?!) cho Viện Cơ mật”.
Một sự tình cờ lịch sử, Trương tuy thuộc lớp hậu sinh so với Phan nhưng hai con người này cặp kè nhau trong mối quan hệ buổi đầu giữa Nam triều với Pháp. Cần lưu ý, Trương từng được chọn làm thông ngôn cho phái bộ Phan-Lâm để đi đến sự ra đời của hàng ước Nhâm Tuất 1862 tại Sài Gòn và sau đó lại tháp tùng phái đoàn sang Paris và Rhoma để xin lại đất! Một trí thức trẻ tân học tháo vát giỏi giang đã hiến mình cho Chúa và một lòng trung thành với mẫu quốc kè bên viên quan già gian xảo và bạc nhược. Hẳn không là sự sắp xếp vô tình.
Trương một mặt xúi vua Đồng Khánh “làm ra năm mười khoản ước đưa ông Paul Bert nghị lại mà tính với nhau” định rõ quyền hạn của Nam triều và Bảo hộ (Bắc kỳ) nhằm hoàn thành nghị trình thâu tóm Việt Nam ôn hòa hơn viên tướng De Courcy trước đó; một mặt tham mưu cho Toàn quyền Paul Bert:
“Hãy nhanh chóng thành lập những đoàn Lạp binh (đặc nhiệm cơ động)và võ trang cho họ. Ngài không có điều gì phải quản ngại vì nhà vua và chính phủ Nam triều sau vụ bạo hành tháng 7/1885 (tức ngày 24/5/Ất dậu – ngày thất thủ kinh thành Huế), nay chỉ còn cách thần phục nước Pháp thôi”.
Đội quân ấy đã tỏ ra hữu hiệu trong việc đàn áp và truy sát những nghĩa sỹ cần vương. Trương còn bày cách chiếm dụng những mảnh đất đẹp của các chùa chiền ở Huế giao cho nhà thờ mà chính quyền chính quyền thực dân từng làm ở những nơi đô hội từ Bắc vào Nam, ngay cả ở Hà Nội, Sài Gòn. Tất nhiên chính quyền bù nhìn sở tại phải cúi đầu làm lơ!
Một đời sáng tác, Trương cho ra 121 tác phẩm chữ Việt và chữ Pháp mà nội dung được ông nói thẳng ra:
“Trong các tác phẩm của tôi không bao giờ đi lệch mục đích chính là sự biến cải và đồng hóa dân tộc An Nam”
và đều được nhà nước bảo hộ bảo trợ ấn hành. Ông ta hăng hái bộc lộ ruột gan ra với quân cướp nước trong khi với đồng bào thì luôn viện dẫn câu cách ngôn La tinh “Ở với họ mà không theo họ” (Sic vos non vobis)! Ông ta góp phần không nhỏ đào tạo ra một lớp trí thức tân học vong bản, đến nỗi học giả Nguyễn Văn Vĩnh tuy là người hăng hái tiên phong trong việc Quốc ngữ hóa chữ Nôm từng phê phán:
“Tôi so mấy chương báo bằng quốc văn và mấy chương báo bằng Pháp văn, thì hình như các đại huynh học Pháp văn kỹ qúa, kỹ hơn tiếng nước nhà nhiều”!
Trong khi nhân dân ta phỉ báng Trương là “con người phản phúc” thì trùm thực dân Paul Bert khen là người “luôn trung thành với nước Pháp”. Con người Trương nhìn từ hai phía đều đúng với con người thực của ông! Đương thời, Trương đã bị giới sỹ phu yêu nước tẩy chay, khinh thị. Chỉ những kẻ bán mình theo giặc mới lấy làm gương để biện hộ cho mình. Từ đâu tung ra một số lời tâng bốc lố bịch hoang đường:
“Hàng trí giả toàn cầu không còn xa lạ gì với tên tuổi đại danh nhân thế giới PETRUS KÝ (TRƯƠNG VĨNH KÝ). Tiên sinh là một “đại học giả”, một nhà bác ngữ học kỳ tài đa năng, đa diện trên nhiều lãnh vực khoa học, khiến giới trí thức Âu châu lúc bấy giờ đã phải cúi đầu trước trình độ bác cổ thông kim của vị tiền bối nầy! Ngay cả các nhà văn hóa, nhà từ điển, nhà khoa học thời danh lúc bấy giờ cũng phải nghiêng mình nhường bước cho việc bầu chọn PETRUS KÝ vào hàng “thế giới thập bát văn hào” năm 1874, kể cả đại văn hào Pháp VICTOR HUGO (1802-1885), một nhân vật văn hóa đã được an táng trong điện Panthéon, cũng phải lui sau nhường chỗ đứng. Tiên sinh là một người dân bị trị không quyền chức duy nhất trên hành tinh được ghi tên vào Bộ Đại từ điển bách khoa “Larousse Illustré” rất danh giá của nước Pháp là điều hy hữu!”.
Ông Trần Chung Ngọc – Tiến sỹ vật lý đồng thời cũng là nhà nghiên cứu lịch sử và tôn giáo, bình:
“Trong thời buổi này, không có ai viết huênh hoang và vu vơ như vậy. Mọi luận cứ đều phải có tài liệu chứng minh. Bảo rằng Pétrus Ký là nhà bác ngữ học kỳ tài đa năng, đa diện trên nhiều lãnh vực khoa học nhưng không đưa ra bất cứ một tác phẩm khoa học nào của ông? Văn kiện nào đã ghi cuộc bầu chọn như vậy? Những tác phẩm nào của các danh nhân văn hóa thế giới nào đã tôn vinh ca ngợi Pétrus Ký?
Tôi cũng đã cố gắng tìm trên Internet chỉ thấy một tài liệu của Huỳnh Ái Tông dù không cho biết xuất xứ, viết về Pétrus Ký như sau: “Trong khoảng năm 1873-1874, ông được liệt vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, xếp theo mẫu tự như sau:
Bác sĩ Allemand, Banadona d’ Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae Daun”.
Nhưng 18 tên tuổi trên có mấy người biết đến trong khi vắng bóng nhữngcây đại thụ: Stendhal (1783-1842); Lamartine (1790-1869); Balzac (1799-1850); Dumas (1802-1870); Hugo (1802-1885); Mérimée (1803-1870); George Sand (1804-1876); Musset (1810-1857); Gautier (1811-1872); Baudelaire (1821-1967); Flaubert (1821-1880); Daudet (1840-1897); Zola (1840-1902); Maupassant (1850-1893)?
Tôi cho rằng đó là một danh sách dỏm, do một tổ chức ma nào đó đưa ra”.
Cuốn “Pétrus Trương Vĩnh Ký nhìn từ những khía cạnh và nhận thức khác nhau” của 7 tác giả: Bùi Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Sinh Duy, Hồ Hữu Tường, Phạm Long Điền, Mẫn Quốc và Tô Minh Trung đều chung một nhận xét. Người viết xin trích ra một ý kiến của nhà nghiên cứu quen thuộc Nguyễn Đắc Xuân:
“Nếu lấy tiêu chí Việt gian dành để xếp những tên phản quốc Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan… vận dụng vào Trương Vĩnh Ký thì ta thấy Trương Vĩnh Ký vượt xa những nhà nho nêu trên. Lịch sử Việt Nam cận đại luôn luôn phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký như một nhân vật phản diện điển hình. Đây là trường hợp có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ để có một sự đánh giá đúng đắn về tội làm tay sai cho giặc của nhà bác học siêu hình, siêu Việt gian Trương Vĩnh Ký”.
Cụ thể hơn, nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy tác giả cuốn “Trương Vĩnh Ký – cuốn sổ bình sanh” (NXB Nam sơn – Sài Gòn, tháng 3/1975) mà chúng tôi lấy làm cứ liệu, viết:
“Chỗ đứng của Trương Vĩnh Ký vẻ vang và đồ sộ không phải trên văn đàn dân tộc Việt Nam mà chính ở trong nền văn chương thuộc địa (une littérature coloniale) của người chính quốc và những ngòi bút phục vụ quyền lợi thuộc địa”.
Giữa lúc đường công danh đang như hội phong vân thì quan thầy Paul Bert bỗng lăn đùng ra chết. Giới chóp bu thực dân mỗi kẻ đều có thuộc hạ riêng. Trương bị thất sủng, bơ vơ trong nỗi cô đơn, ngậm ngùi thổ lộ nỗi lòng:
“Học thức giữ tên con mọt sách
Công danh rốt cuộc cái quan tài
Cuốn sổ bình sinh công với tội
Tìm nơi thẩm phán để thừa sai!”
và lưu lại đời sau mấy dòng trên mộ chí:
“Xin hãy thương tôi, ít ra những bạn hữu của tôi”!
Còn gì đau đớn và cay đắng hơn với một trí giả văn nhân khi tự thấy mình đã tuột ra khỏi lòng dân tộc?! Học giả Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh kết câu ngắn gọn:
“Nhân tài thất đức thờ bạo chúa”!
Vậy mà Trương Vĩnh Ký cũng được cái Hội đồng trời ơi tuyển trạch vào hàng những nhân vật làm rạng danh đất phương Nam này! Họ quảng cáo ông như cái thùng chứa rất nhiều chữ mà không đếm xỉa đến cái nghĩa của một kẻ sỹ trước vận mệnh của quốc gia dân tộc!
Ông bà ta xưa, ngay từ buổi đầu cho con cháu cắp sách tới trường, không quên lời căn dặn: Cho bay đi học chữ, học nghĩa. Bởi không có chữ thì vô dụng. Nhưng có chữ mà bất nghĩa cũng là đồ bỏ đi! Không điều nghĩa nào lớn hơn trách nhiệm với dân, với nước trong lúc quốc gia vong biến, nhất là đối với lớp người được coi là nguyên khí quốc gia. Bao nhiêu bậc chí sỹ văn nhân được đời truyền tụng đều là những người chữ tài đã giỏi mà chữ nghĩa đạo hiếu trung càng nặng. Có chữ mà bất nghĩa nếu không là kẻ bất nhân cũng là bất hảo.
Thường thì hậu thế vẫn tùy vào chỗ đứng, lợi ích nhóm hoặc cá nhân và tính cách của mỗi người mà rút ra từ lịch sử những nhận định, những đánh giá, những bài học khác nhau, nhiều khi trái ngược. Thêm nữa, các nhân vật lịch sử có mặt chính diện mà cũng có mặt phản diện nhiều hay ít, có khi mặt phải, mặt trái chuyển hóa lẫn nhau. Cơ bản là nhìn ra mặt nào là chính yếu.
BT theo NVT 11/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét