Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2017

BÀN VỀ MINH TRIẾT



Tranh Luận với Francois Jullien

Hà văn Thùy

Bài “Bàn về minh triết”* ghi lại buổi nói chuyện của Giáo sư F. Jullien tại Trung tâm Minh triết Việt Nam ngày 8.9.2008 gồm 3 phần. Tôi xin có đôi lời thưa lại với Giáo sư về phần thứ 3: “Minh triết và thời đại.”

  1. Quan niệm về minh triết
Dẫn từ “sagesse” (minh triết) của Pháp ngữ và nhiều tác giả khác, F. Jullien cho ta thấy, văn hóa phương Tây có quan niệm tiêu cực về minh triết: “Minh triết là một cái gì nguội lạnh và lẩn thẩn". "Một khi Minh triết là như vậy thì nó thiếu lửa, thiếu sức sống, thiếu sức nóng, thiếu nhiệt, mà khi đã thiếu nhiệt thì nó chỉ che đậy cuộc sống, làm cho người ta không thấy được nó", "Minh triết là một thứ tro nguội lạnh, xám xịt, phủ lên lò lửa là sự sống". Một quan niệm như vậy hoàn toàn trái ngược với phương Đông. Nơi văn hóa phương Đông, minh triết (  ) thì Minh là sáng mà Triết cũng là sáng, có nghĩa hai lần sáng. Theo cach giải nghĩa khác thì Minh là sáng, còn Triết là triệt, là tận cùng, Minh triết có nghĩa cực sáng, sáng tới tận cùng! Triết còn nghĩa khác là trí tuệ. Như vậy, minh triết có nghĩa là trí tuệ sáng láng. Trong sự hiểu của tôi, Minh triết là “tinh chất bền vững của tâm hồn và trí tuệ dân tộc kết lắng trong chiều sâu nhất của văn hóa, luôn tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc. „

GS F. Jullien cho rằng “Một khi Minh triết không có lịch sử thì nó đứng tại chỗ, nó trì trệ, do đó, nó chỉ đưa ra những kiến giải tầm thường và nó nói những ý kiến mà lương tri thông thường của con người cảm nhận được, nó chỉ dừng lại ở đấy, „

Tôi cho rằng, nếu hiểu đúng theo như quan niệm phương Đông thì minh triết có lịch sử của nó. Lịch sử của minh triết phương Đông bắt đầu ít nhất khoảng 15000 năm trước, khi người Hòa Bình Việt Nam thuần hóa được cây lúa nước. Có ai đó nói rất đúng: “Không có nền văn minh nào xứng đáng với tên gọi đó cho tới khi phát hiện ra nông nghiệp trồng ngũ cốc.” Khi tự trồng ra cây lúa làm lương thực, con người không còn hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, tự thấy mình tách khỏi thiên nhiên, đứng cao hơn thú vật và bắt đầu có ý thức về bản thân mình. Con người bắt đầu biết “Trông trời trông đất trông mây…”, biết “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, nghe thấy tiếng sấm phất cờ mà lên”, biết “Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng Rằm tháng Tám” và biết “Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly”, biết “Tua rua thì mặc tua rua, mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền”, biết “Xanh nhà hơn già đồng”. Đồng thời cũng biết: “Khôn độc không bằng ngốc đàn” và “Một người lo bằng kho người làm”. Không chỉ vậy, Minh triết còn là “Người là hoa của đất”,  là “Yêu em từ thuở lên ba, mẹ bồng ra ngõ hái hoa em cầm” là “Mình nói với ta mình hãy còn son, ta đi qua ngõ thấy con mình bò”… Minh triết được hình thành bởi những nhà hiền minh cổ xưa nhưng chủ yếu được sản sinh, chọn lọc và tích tụ bởi người vô danh trong dân gian, để nạp vào bộ nhớ dân gian và tạo thành văn hóa dân tộc. Lâu dần, với bề dầy thời gian, nó trở thành yếu tố bên vững, thành phẩm chất di truyền (fenotipe) truyền lại cho con cháu qua hoạt động xã hội. Điều này được thấy rõ trong thí dụ sau. Khi nhà xã hội học nổi tiếng Levi Stross phát hiện những sắc dân thiểu số ở Mỹ và Canada có tập quán rất giống với dân vùng Nam Trung Hoa như tôn trọng phụ nữ và sống hài hòa với thiên nhiên, người ta giải thích rằng đó là do hoàn cảnh sống giống nhau, đưa tới những cách sống tương đồng. Nhưng sau này, khi phát hiện rằng, tổ tiên những dân thiểu số châu Mỹ đó đã từ Đông Dương tới thì mọi người hiểu: những nét văn hóa đó được mang theo từ Đông Nam Á. Như vậy, minh triết chẳng những không chỉ là “những kiến giải tầm thường” mà cũng không hề “dừng lại ở đấy”, nó luôn tiếp thu trong sự chọn lọc nghiệm sinh những điều minh triết mới, bổ sung trong trầm tích văn hóa.

  2. Minh triết và triết học

Trong những quan niệm đa chiều của phương Tây về quan hệ giữa minh triết và triết học, tôi ủng hộ ý tưởng cho rằng “minh triết ở trên triết học.“ Minh triết là mảnh đất màu mỡ của tâm hồn, trí tuệ và trên đó nảy sinh cây triết học. Nhưng khi đã thành “cây“ rồi, triết học tư biện coi khinh mảnh đất minh triết, nên mất dần sức sống, trở nên cằn cỗi và khủng hoảng. Điều này thấy rõ trong triết học Hy Lạp nói riêng và triết học phương Tây nói chung. Về lịch sử, ta thấy, 80% dân châu Âu hiện đại là con cháu những người sống bằng hái lượm, những người không có văn hóa và cố nhiên không có cả minh triết. Chỉ có 20% là dân nông nghiệp từ Trung Đông sang. Văn hóa và minh triết châu Âu có được chính là nhờ ở dân nông nghiệp này. Nhưng do số dân ít nên lớp trầm tích minh triết quá mỏng. Sự bùng phát rự rỡ của văn minh Hy Lạp không phải do nội tại mà là yếu tố ngoại lai. Thành bang Athene đã nhận văn minh của Ai Cập phương Đông từ trước thời Plato. Sau cuộc chinh phục của Alexander, Aritostele thày của vị hoàng đế này đã thu nhận toàn bộ thư viện của Ai Cập, và nhờ là “kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại“, ông đã thành „người khổng lồ“. Cuộc cướp bóc này đã đưa lại sự phồn vinh về văn hóa, trong đó có cả minh triết cho Hy Lạp. Chính nhờ vậy, triết học Hy Lạp ra đời. Dựa trên lượng minh triết vay mượn của phương Đông, triết học Hy Lạp bừng nở nhưng rồi sớm mất sức sống. Khi „chất màu mỡ minh triết“ cạn kiệt, triết học phương Tây trở thành thuần túy tư biện. Có thể hình dung số phận của triết học phương Tây hiện đại như thế này: một ai đó đưa ra lý thuyết mù mờ và được một số người ủng hộ. Họ kết thành trường phái, thống trị diễn đàn. Thời gian sau, người ta tỉnh ngộ và thấy thuyết đó vô bổ. Lúc này lại có một thuyết mù mờ khác phủ định cái thuyết mù mờ trước. Họ lại có những ủng hộ viên và thành trường phái mới... Tuy có nhiều lịch sử nhưng triết học dần dần đi tới sự khốn cùng.

Minh triết phương Đông không bao giờ tự cho là thần thánh. Nó cũng không kết thành những trường phái mà an nhiên sống vô tư, bất diệt giữa cuộc đời, tỏa ánh sáng và sức nóng dẫn dắt xã hội.

3. Minh triết và chính trị

Giáo sư F. Jullien nói: „Trong quan hệ với chính trị, minh triết Trung Quốc cổ không có một lập trường xác định“ và „ Do kết cấu không có lập trường nhật định, khi thế này, khi thế nọ nên những nho sĩ Trung Quốc không bao giờ là trí thức, không phải là trí thức. Trí thức phải cò lập trường.“ Có đúng vậy không? Theo tôi không phải vậy. Nếu coi Khổng Tử là nho sĩ đầu tiên của Trung Quốc thì rõ ràng ông có lập trường và kiên quyết giữ lập trường của mình. Chính vì chú tâm truyền bá „đạo“ mà không chịu bàn đến „lợi“ của các vương hầu nên cuộc du thuyết của ông thất bại. Mạnh Tử cũng vì lập trường phản đối chiến tranh mà không được dùng. Tư Mã Thiên kiên định lập trường chép sử vì sự thật. Tiêu biểu nhất lả trường hợp 4 anh em nhà Thái Sử thời Chiến Quốc: Sau khi 3 người anh là Thái Sử Bá, Thái Sử Trọng và Thái Sử Thúc bị giết vì ghi dòng „Thôi Trữ giết vua“ vào sử thì đến lượt mình, người thứ tư là Thái Sử Quý vẫn viết như vậy! Ở Việt Nam có trường hợp Chu Văn An sau khi dâng „Thất trảm sớ“ không được chấp nhận thì cáo quan hồi hưu. Nguyễn Trãi cũng là người giữ lập trường cứu nước kiên định. Rồi Đào Duy Từ, Ngô Thì Nhậm cùng biết bao vị hưu quan vì „bất đắc chí“... đều là những người có lập trường chính trị kiên định. Ai đó, hình như Voltaire, trong hoàn cảnh nặng nể của phong kiến thế tập châu Âu Trung Cổ, đã từng mơ ươc về phương Đông dưới sự cai trị của đạo Khổng Tử, khi mà vua hôn ám thì được phép „đổi nó đi!“ Như vậy, nói rằng trí thức phương Đông không có lập trường chính trị là không đúng sự thực. Càng sai hơn khi nói phương Đông không có trí thức!

Giáo sư F. Jullien còn nói: „Minh triết phương Đông né tránh mâu thuẫn để giữ sự hài hòa; để giữ gìn hài hòa, phương Đông đi con đường vòng để tránh mâu thuẫn. Tôi cho rằng cái đó là không đúng.“
Không phải vậy. Đúng là phương Đông coi trọng sự hài hòa, „Thái hòa“ là mặt quan trọng của minh triết. Nhưng không phải phương Đông không biết giải quyết mâu thuẫn. Dịch lý nói: „Cùng tắc biến“ và „Biến tắc thông“. Phương Đông không can thiệp „ngang xương“ vào quá trình diễn biến của sự vật mà theo lẽ biến cùng, tác động một cách minh triết cho mâu thuẫn tự giải quyết một cách nhi nhiên, tự nhiên.

4. F. Jullien và đạo Phật

Giáo sư F. Jullien nói: „Trong sách tôi ít nói đến Phật giáo bởi vì tôi nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại, mà thời cổ đại Hy Lạp tương ứng với cổ đại Trung Hoa và lúc ấy chưa có Phật giáo. Lý do nữa là Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, Ấn Độ cũng có liên hệ với phương Tây ở gồc Ấn - Âu... Phật giáo, từ gốc của nó đã có liên hệ gì đó với phương Tây ở gốc Ấn - Âu...“

Rõ ràng Giáo sư đáng kính đã lầm lẫn. Phật giáo xuất hiện đồng thời với Nho giáo và triết học Hy lạp cổ đại, khoảng thế kỷ V TCN. Sai lầm nghiêm trọng hơn khi ông cho Phật giáo „từ gốc có liên hệ với phương Tây.“ Điều này thuộc về kiến thức văn hóa lịch sử phổ thông. Theo tri thức mới nhất thì, khoảng 40.000 năm trước, người Việt cổ Australoid từ Đông Dương di tản tới Tây Ấn Độ. Muộn hơn một chút, những nhóm Việt khác cũng từ Tây Nam Trung Quốc vào đất Ấn. Người Australoid lan khắp Ấn Độ, được lịch sử gọi là người Dravidian, là chủ nhân nền văn hóa lúa nước sông Indus rực rỡ. Khoảng 1500 TCN, người Arian thuộc đại chủng Europid từ Ba Tư xâm nhập Ấn Độ, thống trị dân Dravidian. Từ văn hóa Dravidian, người Arian xây dựng nên văn hóa Ấn Độ, trong đó có đạo Phật. Người châu Âu là do một nhánh khác của người Europid từ Trung Đông di cư vào châu Âu. Như vậy, tuy cùng mã di truyền và tương đồng ngôn ngữ nhưng giữa người Ấn và người Âu khác nhau về văn hóa. Văn hóa Ấn, dù là người Indoeuropian cũng hoàn toàn là văn hóa phương Đông. Khi ít nghiên cứu Phật giáo với hàm lượng minh triết cao, tri thức về minh triết không thể không thiếu hụt.

5. Kế luận

Có thể là triết gia lớn, nhưng trong môi trường văn hóa châu Âu với hàm lượng minh triết thấp cùng quan niệm coi thường minh triết, sự hiểu biết của Giáo sư F. Jullien về minh triết nói chung và nhất là minh triết phương Đông còn hạn chế. Lời khuyên của ông: „Minh triết hiện nay phải khắc phục hai nhược điểm có từ xưa, một là không tư duy bằng khái niệm thì bây giờ Minh triết phải có khái niệm. Thứ hai là về chính trị không rõ ràng thì bây giờ phải rõ ràng đối với chính trị. Minh triết ở giai đoạn này phải đưa tư tưởng vào công trường của mình để làm ra những khái niệm...“ theo tôi là xui dại. Minh triết là... Minh triết, có nghĩa là những hạt tâm hồn, trí tuệ dân tộc tồn tại an nhiên trong cuộc sống, dười dạng vô tư, hồn nhiên, thơ trẻ... Tuy vậy nó có sức mạnh nội tại siêu việt: ủng hộ nền chính trị vương đạo, đả phá chính trị bá đạo. Khi thấy một nền chính trị đi trật đường rầy thì minh triết phản bác nó. Ông Mác nói rất chí lý: „Giai đoạn cuối của sự vật, đó là sự khôi hài“. Nền chính trị khi trở thành khôi hài trong con mắt của cộng đồng thì đang bước tới hồi cáo chung. Minh triết chỉ cho cộng đồng thấy sự sai lệch chệch hướng. Và đó là sự tham gia tích cực của minh triết vào chính trị. Như vậy, minh triết đứng cao hơn và điều chỉnh nền chính trị. Chính vì vậy mà phương Đông cần minh triết và minh triết được coi trọng. Nếu như minh triết biến thành khái niệm để tư duy theo khái niệm thì nó chỉ là cái bóng của triết học và rồi trở nên tư biện, nghèo nàn, xơ cứng.

Tôi nghĩ rằng, buổi nói chuyện của giáo sư F. Jullien rất có ích vì giúp chúng ta nhận biết hàm lượng minh triết thấp trong văn hóa phương Tây dẫn tới quan niệm tiêu cực về minh triết. Nó cũng cho thấy minh triết không phải là sở trường của học giả phương Tây. Từ đó, chúng ta thêm tự tin nghiên cứu minh triết của mình.
                                                                                            
Sài Gòn, 9.09.
* http://viet-studies.info/Jullien_BanVeMinhTriet.htm


http://4phuong.net/ebook/46372892/tranh-luan-voi-francois-jullien.html

LUẬN BÀN VỀ MINH TRIẾT VÀ MINH TRIẾT VIỆT

Luận bàn về minh triết và minh triết Việt là một cuốn sách được Nguyễn Khắc Mai đánh giá là “những lời nói linh thiêng của một nhà văn hóa sắp mất”.


Qua ba bài tiểu luận bàn về minh triết, Hoàng Ngọc Hiến đã góp phần làm sáng rõ định nghĩa minh triết, đưa ra những luận giải sâu sắc của ông về sự cần thiết đưa ra những suy nghĩ, trăn trở tìm kiếm những tư tưởng làm sáng tỏ “viễn cảnh của một xã hội văn minh tốt đẹp hơn”. 

Trong cuốn sách này, ông cũng thử nêu ra giá trị minh triết của viễn cảnh đó là: “Dân giàu nước mạnh – đó là văn minh”, “Dân vui nước mạnh đó là văn hóa”. “Không có minh triết “dân vui nước mạnh” thì dân có thể “giàu” nước có thể “mạnh” nhưng khó mà nói là có hạnh phúc”.

Trích sách

“Định nghĩa minh triết là gì là một việc rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: “Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết”. Đại học Tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000$, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia. 

Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011) là tiến sĩ văn học, chuyên ngành Lí luận phê bình tại Đại học Tổng hợp Moska, Liên Xô (cũ). Ông đã từng giảng dạy tại Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Văn hóa Hà Nội và nhiều năm làm hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du, tiền thân của Khoa STLLPBVH của Đại học Văn hóa Hà Nội. Từ năm 1983, ông đã nhiệt thành cỗ vũ cho sự đổi mới sáng tác văn học ở Việt Nam. Ông là chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm Minh triết, và là đồng chủ bút tạp chí Vietnam Review phát hành tại Mĩ trong 2 năm 1996 và 1997.
Tôi bằng lòng với việc đưa ra một số ví dụ. 

- Thời bom Mỹ, láng giềng với hộ của tôi, có một cháu bé hơn mười tuổi, học lớp 3, một lần đi sơ tán về, cháu nói với tôi: “Bác ạ, mình cứ nói người nhà quê ra Hà Nội thì đần, cháu thấy người Hà Nội về nhà quê cũng đần, hôm đầu, cháu chịu, không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu mới biết cách”. Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt... Đây là một nhận xét minh triết. Có những công trình học thuật dày cộp mà không có nổi một nhận xét độc đáo, sâu sắc như của cậu bé. Thường thì càng cao tuổi người ta càng hiền minh. Nhưng không nhất thiết vậy. Đối với sự phát huy minh triết, học vấn không phải là thừa. Nhưng chỉ có trình độ tiểu học vẫn có thể có những suy nghĩ hiền minh. Từ ví dụ này có thể thấy một sự khác biệt giữa triết học và minh triết: một học sinh lớp 3, một dòng triết học cũng không hiểu nổi, vẫn có thể nói một câu minh triết độc đáo và sâu sắc.

- Tôi có đọc một công trình lý luận rất hay về vấn đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc đến câu của Balzac được tác giả trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu. Giá như Mác có thêm được minh triết của Balzac thì chắc chắn ông đã suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ nghĩa Mác như chúng ta biết.

- Theo nghĩa thông thường, “anh hùng” là “hào kiệt xuất chúng”; Trần Hưng Đạo cho rằng “Hiểu được mình là anh, Thắng được mình là hùng”(1), với nghĩa này, “anh hùng” trở thành một phẩm giá hướng nội, một giá trị minh triết, chính giá trị này làm nên “bản lĩnh” con người, mà không có “bản lĩnh” thì người có tài năng xuất chúng có còn là anh hùng nữa không? 

- Tôi có hỏi Nguyên Ngọc về minh triết các dân tộc Tây Nguyên, anh dẫn một câu “xanh rờn” từ một bản trường ca: “Đàn ông là sấm, đàn bà mới là sét”.

- Người Mông có câu: “Con ai không biết, vợ ta đẻ ra là con ta”. Câu này làm vỡ tung những ước lệ đạo đức và phong tục nhưng xét đến cùng thì minh triết của nó chứa đựng một tinh thần nhân văn rất cao”.

(Trích Luận bàn về những vấn đề minh triếtLuận bàn về minh triết và minh triết Việt, Hoàng Ngọc Hiến)

http://huc.edu.vn/chi-tiet/1563/Luan-ban-minh-triet-va-minh-triet-Viet.html

Tìm về Minh Triết Việt Nam

Tôi bắt đầu tiểu luận nhằm định nghĩa Minh triết bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề này của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).
Ngô Thời Sĩ phân biệt “đạo lý thánh hiền” và “đạo lý đời thường”: “Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo đời thường để cảm hoá lòng người”.
Trên đại thể, minh triết là đạo lý đời thường. Đạo lý này có tính chất đời thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người.
Nói một cách khác, ai cũng có thể có minh triết.
Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” (1960), Kim Định đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, và triết học.
Trước đây vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý.
Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ đại và trung đại.
Trào lưu minh triết
Từ những năm cuối thế kỷ 20, ở phương Tây, đặc biệt là Mỹ, có một trào lưu phục hưng minh triết ngày càng rộng lớn, nhằm trả lại cho minh triết địa vị và vai trò xứng đáng của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại.
Chỉ cần mở trang Web “Wisdom Page” (Trang Minh triết) là có danh sách hàng trăm tiểu luận và công trình về Minh triết được giới thiệu nghiêm túc, có hệ thống, phân tích cặn kẽ.

Hội thảo tiếp theo của TT sẽ được tổ chức vào ngày 22.9.2009
Đã xuất hiện những trường Đại học Minh Triết (Wisdom University), mà riêng bang California có vài ba trường như vậy.
Tiêu biểu nhất là Đại học Minh Triết có trụ sở ở San Fransisco, được thành lập năm 1996, chỉ đào tạo trên đại học (MA và PhD), đối tượng đào tạo của Trường là “những người đã có trình độ nghiệp vụ chín chắn muốn đặt mình vào một văn cảnh sống và học tập rộng lớn hơn”.
Môn học nghiên cứu “trí tuệ bản địa”: (indigenous mind) được đặc biệt coi trọng, coi con đường cứu nguy cho nhân loại hiện nay là “đem những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại hòa vào tri thức, minh triết và những lề lối thực hành lành mạnh về sinh thái của những nhân dân bản địa và truyền thống”.
Một vài ví dụ
Trong quá trình tìm kiếm, tôi gặp một vài ví dụ, như thời bom Mỹ, láng giềng với hộ của tôi có một cháu bé hơn mười tuổi, học lớp 3, một lần đi sơ tán về, cháu nói với tôi: “Bác ạ, mình cứ nói người nhà quê ra Hà nội thì đần, cháu thấy người Hà nội về nhà quê cũng đần. Hôm đầu, cháu chịu, không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu mới biết cách.”
Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt… Đây là một nhận xét minh triết.
Tôi từng đọc một công trình rất hay về vấn đề tư hữu, nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc đến câu của Balzac được tác giả trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết.
Tôi có hỏi Nguyên Ngọc về minh triết các dân tộc Tây nguyên, anh dẫn một câu “xanh rờn” từ một bản trường ca: “Đàn ông là sấm, đàn bà mới là sét

Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy một bức trướng ghi lại 14 lời khuyên của Phật, do Thượng tọa Kim Cương Tử sưu tầm.


    Nghiên cứu minh triết đang là trào lưu mới trên thế giới
    Câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”. Câu cuối cùng: “An ủi lớn nhất đời người là làm bố thí”.
    Mười bốn câu, câu nào cũng hay. Tôi nghĩ bụng giá như học sinh của chúng ta ngay trên ghế nhà trường đã được học những câu này, những ý nghĩ minh triết giản đơn, không bao giờ cũ.
    Trí-nhân-dũng bộ ba phẩm giá này hết sức quen thuộc với chúng ta, có thể xem đây là lý tưởng của minh triết.
    Thử tìm định nghĩa
    Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: vừa là chân, là mỹ, là thiện; vừa là tri thức, là kinh nghiệm; vừa là trí tuệ, là tâm hồn, là ý chí; vừa là vốn sống, lối sống, phương pháp tư duy…
    Chuẩn bị cho một định nghĩa thấu đáo và đầy đủ hơn về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là nhận thức và lối sống: 1) Minh triết gắn với nghiệm sinh, 2) Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà, 3) Minh triết thể hiện trong lối sống.
    Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi. Nói một cách khác, sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt mà chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng.
    Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hướng thiện, sự “liêm chính”.
    Nhìn chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ.
    Minh triết văn hóa Việt có nhiều nguồn, mà trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu, lan tỏa rộng trong lòng dân, xứng đáng là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.
    Con đường hội nhập
    Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo.
    Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác.
    Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác.
    Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình, đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy được cái chung giữa ta và người.
    Cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.
    GS. TS. Hoàng Ngọc Hiến là chủ tịch hội đồng khoa học Trung tâm nghiên cứu Minh Triết Việt tại Hà Nội, nơi đang chuẩn bị hội thảo chuyên đề về Minh Triết Việt vào ngày 22 tháng Chín năm 2009. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

    http://www.bbc.com/vietnamese/culture/2009/09/090906_hoangngochien.shtml

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét