Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

CHUYỆN TỬ TẾ

Dưới đây là lời bình phim Chuyện Tử Tế của đạo diễn Trần Văn Thủy. Tác phẩm được sản xuất năm 1985 nhưng bị cấm cho tới năm 1987 mới được công chiếu rộng rãi. Xin được lấy để làm nền cho trang này.

(Quyển sách mở, bút lông ngỗng...)

Có lần, tranh luận về việc làm phim, bạn tôi bực mình, mắng tôi một câu nghe rất lạ tai:

"Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người mà chăm lo riêng cho bộ da của mình..."

(Bút lông ngỗng)

Chữ nghĩa đến là nóng nảy và táo tợn. Tôi ngờ rằng lời lẽ ấy bạn tôi đã vay mượn ở đâu đó.

Chuyện Tử Tế (Tập 2 – Tên các tác giả xen kẽ hình ảnh)

Người biên tập bộ phim này cho hay, từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng: "Tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi giòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ, và cả người lớn, đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm."

(Những người đi viếng mộ)

Hôm nay, 20 tháng tư âm lịch - ngày giỗ đầu một bạn đồng nghiệp của chúng tôi. Cũng không hiểu sao, đồng nghiệp của chúng tôi qua đời trong những năm qua, phần đông đều do một căn bệnh hiểm nghèo: bệnh ung thư. Nhà quay phim Nguyễn Quý Nghĩa, Nguyễn Quang Trình, nhà biên kịch Quang Minh, đạo diễn Tô Cương, nhà quay phim Phan Trọng Quỳ, đạo diễn Trần Thịnh, đạo diễn Xuân Thành và bây giờ là Đồng Xuân Thuyết nữa.

Chúng tôi đã theo Thuyết gần hai năm trước khi anh qua đời. Vào những giờ phút cuối, anh bình thản nói (Thuyết nói với bạn bè):

- Tớ mắc căn bệnh khá là hiểm nghèo. Sau những cơn đau xé ruột, những lúc tỉnh táo mình đọc và cảm thấy rất thích cuốn sách này. Tớ đọc các cậu nghe một đoạn nhé: «...Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Nó nặng đến nỗi một người không mang nổi. Bởi thế, người đời chúng ta chừng nào còn sống hãy gắng giúp nhau để cho tâm hồn trở nên bất tử. Ông giúp cho tâm hồn tôi sống mãi, tôi giúp cho người khác, người ấy lại giúp cho người khác nữa, và cứ như thế cho đến vô cùng. Sao cho cái chết của một con người không đẩy chúng ta vào tình trạng cô đơn trong cuộc sống...» Các cậu thấy có lạ không?

(Bạn bè khiêng quan tài của Thuyết. Tiếng nói của Thuyết lập lại trên hình đám ma của mình)

«...Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Nó nặng đến nỗi một người không mang nổi. Bởi thế, người đời chúng ta chừng nào còn sống hãy gắng giúp nhau để cho tâm hồn trở nên bất tử. Ông giúp cho tâm hồn tôi sống mãi, tôi giúp người khác, người ấy lại giúp người khác nữa, và cứ như thế cho đến vô cùng. Sao cho cái chết của một con người không đẩy ta vào tình trạng cô đơn trong cuộc sống...»

(Thuyết nói với bạn bè)

- Nếu khoẻ mà về với các cậu thì vui như Tết. Còn nếu có điều gì bất hạnh thì cũng chẳng có điều gì đáng ân hận lắm, vì khi còn sống chúng mình ăn ở với nhau rất là tử tế đấy chứ!

- Thế nhỡ chẳng may thì cậu có giối giăng gì không?

- Giối giăng thì có lẽ nhiều việc quá rồi cũng quên hết cả. À này, mình cứ nghĩ là các cậu nên làm với nhau một cái gì đó. Nó có thể bắt đầu từ tình thương yêu giữa con người chăng? Hoặc là đi từ nỗi đau của con người.

- Khó đấy!

- Khó cũng phải làm. Còn nếu không làm, các cậu mà vô tích sự, tớ đi trước tớ sẽ kéo các cậu theo sau đấy.

(Bầu trời, hoa cỏ trên mộ. Người đọc lời bình đọc lại lời của Thuyết)

"... Cũng chẳng ân hận lắm, bởi lúc sống chúng mình ăn ở với nhau rất là tử tế... Tớ cứ nghĩ là các cậu nên làm với nhau một cái gì đấy - một cái gì đấy bắt đầu từ tình thương yêu con người, đi từ nỗi đau của con người."

Không có gì thành thật bằng lời nói của người sắp qua đời.

(Đoàn làm phim quay bên lò gạch)

Từ đấy chúng tôi định bụng rủ nhau đi làm một bộ phim tử tế, tử tế dù là tương đối.

(Người vác xẻng đi ra)

Nhưng việc có lẽ không thành, bởi một hôm chẳng rõ vì đâu, người làm gạch bất bình xăm xăm chạy ra, xua đuổi chúng tôi té tát:

- Xin các ông đi chỗ khác cho chúng tôi nhờ. Không có quay quắt gì ở cái lò gạch của tôi nữa sất cả. Chán cái đám làm phim ảnh các ông lắm rồi. Có giỏi thì cứ chụp cái cảnh chúng tôi sống thật như thế nào đi! Cứ bày đặt ra mãi thế mà không thấy ngượng hả? Không thấy ngượng hả?

(Đoàn làm phim đi. Tiếng chó sủa)

Cũng có lúc ngượng lắm chứ, hỡi cái ông có cái lò gạch! Người xưa từng nói: "Lập thân tối hạ thị văn chương", nghĩa là lập thân bằng cái nghề văn chương, nghệ thuật là cái nghề thấp kém, hèn mọn nhất. Ừ! Nghề của chúng tôi cũng là một nghề hèn, nghề mọn. Hèn vì nghĩ nhiều mà không dám nói ra. Mọn vì cái làm ra cũng chẳng mấy ai cần đến.

Ông có cái lò gạch đâu có biết, bấy lâu nay chúng tôi mắc phải một thói quen cố hữu: chỉ mong sao làm vừa lòng bề trên. Một cuốn sách, một vở diễn, một bộ phim ra đời đâu có mấy phụ thuộc vào sự hữu hiệu của nó với cuộc đời, lại chẳng mấy phụ thuộc vào mong muốn của những người lam lũ như ông, mà thường, nhất nhất trông đợi ở sự xem xét của bề trên chúng tôi.

(Mặt trời, cây tre)

Bề trên chúng tôi bằng lòng thì được, không bằng lòng, ắt phải bỏ. Bề trên của chúng tôi khen, thì chúng tôi sung sướng. Bề trên chúng tôi chê, thì chúng tôi buồn rầu.

(Đoàn làm phim)

Ngay cái chuyện vào nghề của người quay phim bộ phim này, tuy cũ, nhưng vẫn còn là một thí dụ đấy.

(Vịt bơi)

Thời niên thiếu, anh ta ở nhà quê, đi chăn vịt. Cái nghề chăn vịt nào có hứng thú gì. Một trưa hè, mệt quá, anh ta chui bừa vào một cái lều để ngủ. Lũ vịt vô kỷ luật đã xục vào ruộng của hợp tác.

(Mở lý lịch)

Các bác ở Ủy ban xã giận lắm liền ghi chuyện đó vào lý lịch. Bên cạnh bốn chữ ký của các bác ở Ủy ban xã có cả xác nhận của Huyện và hai chữ "Tối mật".

(Đoàn làm phim)

Thế là đăng đẵng nhiều năm, không thể thi vào bất kỳ một trường nào, một ngành nào mà anh ta vẫn mộng mơ. Mãi sau tình cờ, có một lớp quay phim, anh ta thi đại vào. Vậy là, nghề chăn vịt với nghề làm phim như chúng tôi cũng chỉ cách nhau có gang tấc.

(Lò gạch)

"Xin các ông đi chỗ khác cho chúng tôi nhờ. Không có quay quắt gì ở cái lò gạch của tôi cả."

(Người nói)

Gã có cái lò gạch xua đuổi chúng tôi là hắn bậy rồi – chúng tôi, ít ra cũng là người của nhà nước.

(Cô gái và hai đứa trẻ)

"Có giỏi thì cứ chụp cái cảnh chúng tôi sống thật như thế nào đi! Cứ bày đặt ra mãi thế mà các ông không thấy ngượng hả?"

(Người đeo kính)

Hình như hắn có cái lý của hắn. Đến như bọn trẻ con, đã có lần toét miệng cười và bảo chúng tôi rằng: "À, các chú quay cái loại phim này, chúng cháu xem là chúng cháu hay buồn ngủ lắm đấy".

(Phim tư liệu)

Đâu phải thế! Chúng tôi từng làm hàng trăm bộ phim: nhân dân chiến đấu anh hùng như thế nào, nhân dân quyết tâm sản xuất như thế nào, nhân dân phấn khởi tin tưởng như thế nào. Những bộ phim đó đã đi vào lịch sử và một thời đã mang lại vinh quang cho chúng tôi.

(Ông đánh dậm)

Nhưng phải nhận rằng: chẳng có mấy bộ phim miêu tả nhân dân ăn ra sao, nhân dân ở ra sao, nhân dân đi lại, sinh sống như thế nào, và nhất là nhân dân nghĩ ngợi, bàn tán những gì.

(Chợ quê)

Nhân dân! Hai tiếng thật thiêng liêng. Chẳng thế mà nhân dân có mặt ở khắp mọi nơi. Về văn hoá thì có nghệ sĩ nhân dân, hiệu sách nhân dân, giáo viên nhân dân, nhà hát nhân dân, báo Nhân Dân. Ở những cơ quan nghiêm mật thì có Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Toà án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân, Công an Nhân dân, Quân đội Nhân dân...

(Đoàn bộ đội đi)

Một thời chúng ta đã có những lời ca về nhân dân thực sự xúc động lòng người: "Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh. Anh em ơi vì nhân dân quên mình". Nhiều khẩu hiệu đã trở thành tâm niệm của một lớp người: "Phục vụ nhân dân", "Đầy tớ nhân dân" và cao hơn nữa là "Hiếu với dân".

(Hỏi một chiến sĩ bộ đội trẻ)

- Trung với Đảng với Nước thì đã rõ, còn nội dung cụ thể của hiếu với dân, theo anh là gì?

- Cái này tôi phải nghĩ một tí. Nhưng anh hỏi làm gì nhỉ?

(Ông và cháu)

Cứ nghĩ như con có hiếu với cha chẳng hạn. Chăm sóc cha lúc tuổi già, phụng dưỡng cha lúc ốm đau, thờ phụng cha khi qua đời, kế tục những mong mỏi hoài bão của cha còn dang dở.

(Hai ông bà già bán nước)

Hiếu phải đi đôi với thảo. Không thể đẩy cha mẹ ra lề đường kiếm sống mà lại cứ tự xưng rằng: Tôi là đứa con có hiếu.

(Chen chúc vào ga)

Còn như, đạt tới sự hiếu thảo với nhân dân thì ý nghĩa và nhân quả của nó còn to lớn hơn nhiều.

(Những chiếc xe con)

Cụ Hồ có căn dặn rằng:

"Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân."

(Chen chúc vào ga)

Người có lương tâm đều hiểu, không phải lúc nào và ở đâu, nhân dân cũng được đền bù xứng đáng. Có thể vì vậy, mà ông lò gạch đã đối xử với chúng tôi - những người của nhà nước – chưa được mặn mà, tử tế cho lắm.

(Phỏng vấn một nam thanh niên)

- Chào anh. Theo anh thế nào là sự tử tế?

- Chịu. Thế nào là sự tử tế bây giờ là khó lắm đấy!

(Phỏng vấn một phụ nữ trung niên)

- Ý chị thế nào ạ?

- Có được phép nói thật không ạ?

- Xin mời.

- Vâng. Người mình được coi là tử tế thì theo tôi trên thực tế là người mình nhờ vả một cái gì đó về quyền lực hay là vật chất. Chữ tử tế thì thường chỉ ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Bây giờ thì bận lắm, mấy ai có thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy.

(Một người bố trẻ tuổi trả lời phỏng vấn)

- Xung quanh ta có nhiều người tử tế lắm chứ! Những người tử tế là người nhân hậu, thương yêu con người, ham làm điều thiện, lo việc công ích, chứ không vì chức vụ hay bổng lộc. Theo tôi, những người bất hạnh, người cô đơn, người nghèo khó và nhất là người trung thực, họ chính là người mong mỏi có sự tử tế hơn ai cả.

(Một anh lái xe trung niên trả lời phỏng vấn)

- Đây là một câu hỏi lẩm cẩm! Tử tế à? Các ông thử nghĩ mà xem: người cần sự cứu giúp gặp kẻ muốn ban ơn thành sự tử tế, người sa cơ lỡ vận gặp kẻ cần tiếng thơm để toan tính những việc xa hơn cũng thành sự tử tế. Tử tế là một cái gì đó tế nhị, có đi có lại.

(Một cụ già trả lời phỏng vấn)

- Tử tế các đồng chí làm phim thân mến ạ. Hai cái chữ đó là gốc từ chữ Hán, chữ "Tử" là việc nhỏ nhất, mà "Tế" là cái điều nhỏ nhất. Hai chữ tử tế cộng chung lại nó có nghĩa là "cẩn thận từ cái việc nhỏ nhất". Vì chữ tử tế chúng ta hiểu lâu ngày nó sai đi, nó khác đi. Cái tử tế thật sự không thể có tiền mà mua được, không thể mong ước mà có được. Nó phải qua cái học hành, cái rèn luyện, cái giữ gìn, cái kế thừa mà có. Tử tế là bông hoa thơm, bông hoa đẹp của tình người.

(Một cô gái trẻ trả lời phỏng vấn)

- Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường tình, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì.

(Bờ biển. Người hủi ngồi cô độc)

Đồ hủi.
Xấu như hủi.
Bẩn như hủi.
Lười như hủi.
Không dây với hủi.

(Bầu trời)

Cũng là để hiểu những người mắc bệnh phong, mà người đời vẫn gọi là người hủi, ăn ở với nhau ra sao, chúng tôi đã gặp vài ba cảnh đời, thiết nghĩ cũng nên kể lại.

(Hai bà cháu)

Cháu có tên là Tú Anh. Nhưng bà bảo cái tên Tú Anh nó Hà Nội quá! Mình thì người nhà quê. Bố cháu là Chiện. Bà gọi cháu là Chiền.

Thằng Chiền một thời ít bạn vì tiếng đồn khắp vùng: mẹ nó là người hủi.

Mẹ nó là người hủi thì bố nó bỏ đi luôn.

Mẹ nó, chị Nguyễn Thị Hằng, phải bỏ quê lang thang bờ bụi. Kiếm được đồng tiền, bát gạo đêm đêm chị lần mò, mang về cho nó. Nỗi đau thể xác và nhất là sự sỉ nhục về tinh thần đã đẩy chị tới một quyết định: phải tự vẫn.

(Cậu bé)

Nhưng còn thằng Chiền? Thằng Chiền phải có một nếp nhà trước khi mẹ nó qua đời.

(Phim négatif)

Vậy là, đêm đêm chị lần về và bằng hai bàn tay cùi cụt, co quắp, không đủ ngón đốt, đã đóng một vạn tám ngàn viên gạch.

Hỡi những người lành mạnh và tử tế! Một vạn tám ngàn viên gạch, đêm, lạnh buốt và đau đớn.

Khi ngôi nhà đã dần hình thành, mẹ thằng Chiền - một người hủi - còn có một ước vọng rất thơ mộng là viết để lại cho con những dòng thơ tâm sự.

(Cậu bé)

Số thơ của "người hủi" có cả ảnh và thơ của Alexander Bloch. Chữ viết của người hủi có bao giờ thẳng hàng:

"Túp lều nát rùng mình trong gió rét
Chiếc nôi nghèo run rẩy giữa đêm đông
Ôi cái rét giá của đêm dài cô quạnh
Của những phần xương thịt rất đau

Bố bỏ đi biệt xứ chẳng một lời
Thế là hết, chẳng còn ai chăm sóc con ư?
Tội nghiệp cho Tú Anh cái tên trong sáng
Như chim non bé bỏng mồ côi.

Mẹ nghĩ: phải gắng sống, sống vì con
Gắng làm cho con một nếp nhà xinh
Đó là nếp nhà mẹ chịu nắng sương
Chịu cái rét giá của đêm dài cô quạnh..."

(Hai mẹ con)

Tạo hoá bao giờ cũng có nhân, có quả. Mẹ thằng Chiền đã được các thầy thuốc tận tình cứu chữa và đã qua khỏi.

Nhiều lần dắt con đi bên bờ sông Trà Lý, nhắc đến tên các thầy thuốc chạy chữa cho mình, chị đã khóc.

(Một thầy thuốc)

"Nhiều đồng nghiệp của tôi và tôi nghĩ ngợi: Thế là mình đã dành gần toàn bộ cuộc đời cho nghề thầy thuốc. Trải qua một thời gian dài, rất dài, chúng tôi mới chiêm nghiệm ra một điều rằng: để thấu hiểu nỗi đau của con người, không phải là một việc dễ dàng gì."

(Ô tô đi)

Lần tìm chuyện về những người phong, cũng nên đến trại điều trị phong Quy Hoà.

(Các bác sĩ)

Ở đây chúng tôi gặp mặt đông đảo các thầy thuốc. Câu hỏi của chúng tôi:

- Thưa các thầy thuốc, ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người phong ạ?

- Các bà xơ! Chuyện đó phải kể đến các bà xơ.

Các thầy thuốc, trong đó có những thầy thuốc từ khi rời ghế trường y cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại phong, đều trả lời chúng tôi như vậy.

(Các bà xơ và những người hủi)

Các xơ cao tuổi rất biết về Hàn Mặc Tử - một thi sĩ thời tiền chiến, lâm bệnh hủi đã qua đời tại đây, gần nửa thế kỷ trước.

Các xơ kể rằng: Thời Hàn có hai điều các xơ để tâm:

Thứ nhất là thời ấy, do ít hiểu biết, người ta thật tàn bạo với người phong.

(Bia mộ)

Thứ hai là khi Hàn lâm bệnh, rất nhiều người xa kẻ gần, kiếm thuốc, tìm thầy, chạy chữa cho Hàn rất công phu, tốn kém. Nhưng điều đáng nghĩ ngợi là phần đông họ đều giấu tên để Hàn khỏi mang ơn.

Xem vậy thì thời Hàn cũng có những người ăn ở với nhau đến là tử tế.

(Các xơ chữa bệnh)

Gặp các xơ, chúng tôi sực nhớ lại lời thề Hippocrate treo ở giảng đường Viện Da liễu:

"Tôi xin hứa và thề nhất luật tuân theo những ước lệ của tính thanh cao và lòng chính trực trong khi hành nghề. Tôi sẽ chữa bệnh không lấy tiền cho những người nghèo khó và không bao giờ đòi hỏi được thù lao quá với công sức của mình... Tôi chỉ mong mọi người dành cho lòng quý mến nếu tôi làm đúng lời thề."

(Bảng chữ)

Lời thề Hippocrate là một lời thề tử tế.

Từ lâu lắm, loài người đã cố tìm những lời đích thật để thề - thề vì con người, vì lòng tin và sự đau khổ của con người, dần xa lánh những lời thề vu vơ.

(Bà xơ và người tàn tật)

Chúng tôi hỏi: Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các xơ yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh phong ạ?

- Dạ! Chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng tin.

- Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.

(Sóng biển)

Lòng tin vốn tự nhiên và mãnh liệt!

Lòng tin vốn không thể vay mượn, áp đặt hoặc tước đoạt.

Mất lòng tin là mất tất cả.

(Kéo lưới)

Bi kịch lớn nhất chưa hẳn là do nghèo túng mà là do mất lòng tin, khi con người không tìm ra cái đích thật để mà tin, khi giữa cuộc đời và thuyết giáo lại là một khoảng cách quá xa. Có muôn vàn thí dụ.

(Một lớp học)

Trước ngưỡng cửa cuộc đời, những đứa trẻ thơ ngây được chúng ta dạy rằng:

"Các em yêu quý! Các em là những đứa trẻ hạnh phúc, vì các em là con Hồng, cháu Lạc. Giang sơn của các em là gấm vóc, thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên giàu có, tiền rừng, bạc biển."

(Trẻ em Nhật Bản)

Cũng ở một lớp học như vậy, ở nước Nhật thì người ta dạy con em người ta rằng:

"Các bạn nhỏ yêu quý! Các bạn là những đứa trẻ bất hạnh. Bất hạnh bởi các bạn sinh ra ở một đất nước hoàn toàn không có tài nguyên, không hề được thiên nhiên ưu đãi. Một đất nước đã từng thua cuộc trong chiến tranh. Gương mặt của đất nước này, tương lai của các bạn là trong tay các bạn."

(Trẻ em bán báo và bán nước)

Giá như một lần, chúng ta dạy con em rằng: "Các em ạ! Cái nhục của sự nghèo khổ cũng chẳng kém gì cái nhục của sự mất nước. Đừng nghe những lời tâng bốc, hão huyền. Vì các em ạ! Bi kịch và cả hài kịch thường xảy ra ở bất cứ đâu khi giữa cuộc đời và thuyết giáo là một khoảng cách quá xa."

(Các học sinh dán khẩu hiệu, có hai chữ "Vĩ Đại")

- Chào các em, theo các em thì xung quanh chúng ta cái gì là vĩ đại?

- Cháu chịu.

- Nào em?

- Vĩ đại thì cháu nói thật là cháu chỉ được nghe, chứ cháu chưa được nhìn thấy.

- Thế thì theo các chú cái gì là vĩ đại cơ ạ?

(Một trí thức)

- Theo tôi, cái vĩ đại, vĩ đại nhất đã được tạo dựng trên trái đất này là con người, chính là con người.

(Bà giáo già)

- Nhưng tạo hoá đã không sinh ra một loại sinh vật nào chịu nhiều đau khổ hơn con người và khao khát sự tử tế hơn con người.

(Đường phố)

Thật vậy, một nhà văn từng viết:

"Con người là một sinh vật không bao giờ chịu sống thúc thủ. Nó luôn luôn muốn vươn tới cái tuyệt vời, cái vô biên, cái vĩnh cửu là những mục tiêu mà mãi mãi không bao giờ đạt tới."

Còn cuộc đời thì biến động, chẳng chờ đợi con người.

Người quay phim của bộ phim này, một lần đi tìm cảnh ở phố chợ đầu ô, tình cờ gặp lại một người mà thời ngồi trên ghế nhà trường, anh ta hằng kính trọng.

(Một người đàn ông)

Đó là thầy chủ nhiệm Lê Văn Chiêu.

Cũng phải nói ngay rằng: Thầy Chiêu không bằng lòng cho quay những cảnh thầy bán rau. Lòng thầy trong sáng, thầy cho rằng như vậy là bôi bác chế độ.

(Đi xe máy)

Do vậy, những cảnh này, trò của thầy không dám bấm máy, mà nhờ một người khác quay lén.

(Trường học)

Thầy Chiêu đã nhiều năm gắn bó với ngôi trường này, trường phổ thông Tô Hiệu, huyện Thường Tín. Ở dây, thấy là một giáo viên dạy toán giỏi, chuyện luyện cho các em ở cuối cấp đi thi.

(Học bạ)

Những nhận xét của thầy chủ nhiệm Lê Văn Chiêu trong học bạ của trò – nay là người quay phim của bộ phim này.

(Người bên xe máy)

Người học trò, cậu bé chăn vịt đểnh đoảng năm xưa, thì trở thành người quay phim.

Người thầy chủ nhiệm, giáo viên dạy toán giỏi, chẳng hiểu đã đi bán rau tự bao giờ.

Bây giờ thầy hiểu rau quả, thời vụ chẳng kém gì hiểu môn toán mà thầy đã yêu. Mùa rau rút, thầy bán rau rút. Mùa cà chua, thầy bán cà chua. Mùa rau muống, thầy bán rau muống.

(Một người đàn ông)

Chuyện tình cờ, anh xích lô này được mời lên màn ảnh. Cùng một thời với người đạo diễn và biên kịch của bộ phim này, vào những năm đánh Mỹ ác liệt nhất ở miền Nam, vợ chồng anh có mặt ở chiến trường khu 5. Chị là bác sĩ, anh là chiến sĩ an ninh của khu ủy. Năm 1973, anh chuyển sang phái đoàn quân sự bốn bên. Và cuối cùng là vào chiến trường Tây Nam.

Anh tên là Trần Thanh Hoài.

(Chuyển đồ lên xích lô)

Ừ! Con người ta sau khi làm tròn bổn phận với Tổ Quốc thì cần phải kiếm sống. Đừng có công thần và mặc cảm. Kiếm sống bằng chính sức lao động của mình là điều trong sạch lắm chứ.

Hoài cởi mở và tự tin vào nghề nghiệp hiện tại của mình.

(Hoài đạp xích lô)

Khác với thầy giáo Chiêu, có lần anh đã hồn nhiên hỏi chúng tôi:

- Này! Tại sao phim ảnh, văn nghệ các ông không mấy khi lấy đám xích lô chúng mình làm nhân vật chính nhỉ?

- Thì chúng tôi đang quay phim ông đấy thôi!

Nói thế cho qua chuyện, chứ nghĩ ra cũng lạ.

(Những người nghèo)

Lạ vì, khi chúng ta chưa có chính quyền trong tay, thì nhân vật của văn nghệ chủ yếu là những người nghèo khổ: một bác phu xe, một bé bán báo, một bé đi ở, một bà mẹ nghèo, một tiếng rao đêm...

(Trở lại Hoài đạp xe)

Ngày nay, khi quyền hành đã về một mối, thì những người nghèo khổ, bất hạnh trong văn nghệ bỗng dưng biến mất.

Y như đồng bào của chúng ta bây giờ rất xa lạ với sự nghèo khổ, hoặc giả những người nghèo khổ đã chạy sang thế giới bên kia cả rồi.

Ăn ở với nhau như vậy thì, không những chưa được tử tế cho lắm mà còn ... đáng sợ.

(Một người nói)

Theo tôi, đáng sợ hơn chính là sự dốt nát. Loài người cũng chưa có bộ luật nào xử lý đến tội dốt nát. Và cũng chưa có một cơ quan thống kê nào tính đến những hậu quả do sự dốt nát gây ra. Suy cho đến cùng, thì mọi chuyện đau lòng của xã hội nếu có đều bắt đầu từ sự dốt và nát. Tôi thấy không ai định nghĩa chuẩn hơn người sáng lập ra chủ nghĩa Cộng sản khoa học: "Dốt nát là sức mạnh của ma quỷ".

(Một ông cao tuổi)

- Nếu sa đà vào việc luận bàn về sự dốt nát và sự thông thái, tôi e rằng đó là chuyện muôn thuở. Người đời có nói: "Phú quý sinh lễ nghĩa. Bần hàn sinh đạo tặc." Có lẽ vấn đề đó gần với chúng ta hơn. Khi đời sống vật chất tồi tệ, bất công, thì nhân tính bị xói mòn, thiện ác lẫn lộn. Chống sự suy thoái của đời sống chính là chống sự xói mòn nhân tính.

(Phố xá)

Nếu nhân tính bị xói mòn, con người phải nói thật rằng: không phải trong hoàn cảnh nào cũng có thể sống tử tế và nghĩ ngợi những điều nghiêm chỉnh được đâu.

Bạn nghĩ gì về chữ "Hạnh Phúc" bán la liệt ở phố Hàng Mã?

Con người đã viết một tỷ cuốn sách để định nghĩa thế nào là hạnh phúc và tìm kiếm hạnh phúc.

(Sách)

Sinh thời Mác viết: "Hạnh phúc của một người là làm cho nhiều người được hạnh phúc".

Trên lề đường của chúng ta, có rất nhiều người một thời đã hồn nhiên ý thức như vậy. Người chữa xe đạp bình thường này chẳng hạn.

Hãy theo ông ta, ông Trần Xuân Tiến, về nhà tìm lại những kỷ niệm quý giá nhất của thời trai trẻ.

(Các huân chương)

- Ông tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
- Vào giải phóng thủ đô năm 1954.
- Có mặt trong đại đội chủ công sư 308 tiến công đầu tiên vào cứ điểm Khe Sanh.
- Được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt xe cơ giới. Tám lần bị thương.

Dũng sĩ Trần Xuân Tiến đã về già, có cháu nội, cháu ngoại. Ông vẫn là người rất mực thật thà và tử tế.

(Tài liệu)

Một con người trên mình tám lần mang thương tích, không thể không nói đến nỗi đau thể xác. Nỗi đau thể xác, mối lo về miếng cơm manh áo hàng ngày – Có đấy! Nhưng thật là nhỏ bé so với nỗi đau tâm hồn, những hiểu biết, nghĩ suy về họ mạc, đất nước, đồng bào.

(Con nghê trong tủ kính)

Từ xa xưa, con người đã luân bàn về hạnh phúc. Héraclite, một triết gia cổ Hy Lạp (500 năm, trước Công Nguyên) viết:

"Nếu hạnh phúc là sự thoả mãn vật chất thì chúng ta có thể coi con bò là hạnh phúc."

(Một bà cao niên)

- Hạnh phúc của một loài bò sát như con kỳ nhông: khi nó nằm trên đống lá khô, thì nó màu nâu; khi nó ở cành lá xanh tươi, thì nó màu lục; nhưng nó rất tinh khôn, nó tìm cách băng qua lửa cháy mà người không hề bị xây xát. Có những con người cũng giống như loài kỳ nhông: họ vòng vo, tinh khôn, chẳng bao giờ để lộ một cái gì có thể phương hại đến bản thân mình. Chúng ta còn khốn đốn nếu có những người không thật, nếu có nhiều điều không thật, nếu có nhiều sự việc không được gọi bằng đúng cái tên thật của nó.

(Một ông cao niên)

- Không, không thể khốn đốn mãi được. Rất nhiều người cũng như tôi – chúng tôi tin tưỏng một cách sâu sắc, chắc chắn rằng: dù đông tây, kim cổ bất cứ thời nào, đạo lý và sự tử tế không mất, không bao giờ mất, vẫn trường tồn, bất biến. Sự tử tế luôn luôn có mặt trong đời sống của chúng ta, thiếu hẳn nó thì chúng ta cũng không còn là con người nữa. Chúng tôi cho rằng một dân tộc, một xã hội có phải chìm đắm trong khốn đốn, vong nô thì sự tử tế và sự hoàn thiện vẫn tồn tại nguyên hình trong nó, nó là cái đích để tập hợp, là ánh sáng để vươn tới.

(Cụ già nhất)

- Tôi cũng tâm niệm như vậy, nhưng khi đã đạt tới một sự hoàn thiện, một sự tử tế như mong muốn, thì tiếc thay, cánh già chúng tôi có lẽ đã rủ nhau sang thế giới bên kia rồi.

(Đám ma)

Và cuối cùng thì sau một cuộc đời tử tế hoặc không tử tế, dài lâu hoặc ngắn ngủi, mọi người đều được tạo hoá cho một cái quyền bình đẳng là: Trở về với Đất.

Có người cứ nói bừa rằng: Chết là hết. Nhưng thực ra, chết và con đường đi đến cái chết cũng nhiều chuyện lắm. Ví như trong đám có giọng thành kính xót thương: "Tiếc thay, ông ta là một người ăn ở tử tế" hoặc bật ra "Hừm, đáng đời cái lão chúa xu thời".

(Những người đào mồ)

Có lẽ chẳng mấy ai biết lắm chuyện về những người chết bằng những người đào mồ. Âu đây cũng là một dịp để làm quen. Cái công việc nắng mưa, nặng nhọc này, đôi khi bị coi là tận cùng của xã hội, lại cần cho bất cứ ai. Cho ông, cho bà, cho tôi và cho tất cả. Và không hiểu, bởi một lý do gì, chúng ta thiếu đi một tấm lòng cần thiết đối với họ.

(Khênh quan tài)

Người đào mồ gửi vào đất cả quan chức lẫn thường dân, cả nhà học giả và thằng vô lại. Có điều, người ta trở về với đất trong những hoàn cảnh khác nhau, bằng những con đường khác nhau, mang theo xuống mồ những điều thiện và ác khác nhau.

(Mồ xây)

Nhân đây cũng nói thêm rằng: người tử tế ai cũng mong muốn trông thấy đồng loại của mình có mồ yên, mả đẹp – vì mồ yên mả đẹp an ủi được con người.

Nhưng mong muốn hơn và an ủi được con người hơn vẫn là sự tử tế, là tình thương yêu, là công đức của người quá cố để lại cho đời.

Đừng để rồi mai mốt mang theo xuống mồ một nỗi buồn có thể to hơn cả phần mộ của mình.

(Một người đào mồ)

Cùng với người đào mồ có nên nghĩ ngợi rằng:

(Bầu trời)

Làm sao, để khi từ giã thế giới, ta không chỉ nằm xuống như một người tử tế, mà điều quan trọng là ta có thể từ giã một thế giới tử tế hơn, trong đó con người được chăm lo hơn.

(Máy ghi âm)

Vậy ra, nghĩ cho đến cùng, ở trên đời này, không có một nghề nghiệp nào, không có một công việc gì, và cũng không có một con người nào trở nên tử tế nếu không bắt đầu từ tình thương yêu con người, sự trân trọng đối với con người và đi từ nỗi đau của con người.

Khi bấm những cảnh cuối của bộ phim này, người trông coi mồ mả, giám đốc các nghĩa trang Hà Nội – cháu gọi nhà văn Ngô Tất Tố là bác, đã chép miệng bảo chúng tôi rằng:

(Một người nói)

"Rõ chán, chuyện các anh cũ như trái đất. Tôi ở với người chết đã lâu, tôi thấy có cái hay là họ chẳng thèm tranh cãi với ai bao giờ. Dĩ nhiên, nếu họ tranh cãi, và nếu họ tham gia tranh cãi, thì ối điều phải bác bỏ - kể cả tôi là người quản lý họ và cả cái phim các anh đang làm."

Vâng! Thì có gì mới đâu và có dám tranh cãi gì đâu – khi mà ở đây, trong cái nghĩa trang bình dân này, có mặt rất đông những người giỏi chữ nghĩa: cụ Nguyễn Huy Tưởng, cụ Vũ Ngọc Phan, cụ Xuân Diệu, cụ Nguyễn Tuân, và nhiều cụ khác.

(Trong xe ô tô)

Có dám tranh cãi với ai đâu và có gì mới đâu, chỉ thương người bạn đồng nghiệp xấu số, lúc sống và lúc chết đều vui lòng để chúng tôi quay phim. Nỗi bất hạnh to lớn trong quá khứ của gia đình cậu ta kể ra ở đây, không tiện. Vậy mà, vẫn đùa bỡn cho đến lời cuối, cậu ta bảo rằng: "Tớ rất muốn sống để xem các phim của các cậu làm về cái chết của tớ như thế nào."

(Máy ghi âm)

"Trải qua một thời gian dài, rất dài, chúng tôi mới nghiệm ra rằng: Để thấu hiểu nỗi đau của người khác, không phải là một việc dễ dàng gì."

Vâng! Không thể là một việc dễ dàng gì, nhất là khi ta không sống cuộc sống của người đời.

(Trong xe và trên mặt đường)

Chỉ có sống cuộc sống của người đời, chia sẻ những nỗi buồn và niềm vui của người đời thì may ra tìm được, hiểu được, nghĩ được và làm đúng được đôi điều.

Nhưng, cũng như chuyện, ít có mấy ai lại lẩm cẩm từ chối một cuộc sống đầy đủ hơn, quyền thế hơn để sống cuộc sống như mọi người. Cái nghịch lý là ở chỗ đó và, cuối cùng, dù nhọc lòng, mất công, những điều chúng tôi, những người làm phim biết được chỉ bằng giọt nước; còn những điều chưa biết lại là biển cả.

(Sóng biển, tượng đài)

Đến đây mới nhận ra rằng, ở bộ phim này quá lạm dụng lời các danh nhân. Lời bình do những người làm phim viết ra, rất có thể là những điều vớ vẩn, tầm phào, làm mệt lòng người duyệt kỹ tính.

(Nến cháy)

Còn lời các danh nhân thì thực yên tâm. Đó là chân lý, là danh ngôn. Vì vậy, trộm nghĩ cũng nên thay chữ "Hết" của bộ phim nhỏ bé này bằng việc nói thêm rằng, cái câu nói nóng nảy, táo tợn:

«Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình...»

May thay! Là của Các Mác tôn kính, chứ không phải là của bạn tôi.

(Chữ ký của Các Mác)

Trần Văn Thủy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét