Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

Có hai điều kiện dẫn đến sự thành lập Quốc tế III

1. Hoàn cảnh ra đời của Quốc tế III
Có hai điều kiện dẫn đến sự thành lập Quốc tế III.
Một là. sự phá sản của Quốc tế II làm cho phong trào công nhân bị chia rẽ về tổ chức, giai cấp công nhân không còn một tổ chức thống nhất để chỉ đạo phong trào. Quốc tế II phân liệt thành phái hữu, phái giữa, phái tả khiến cho trong nội bộ một số Đảng cũng có sự phân liệt như vậy.
Hai là, phong trào cách mạng thế giới phát triển thành cao trào mới do ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Năm 1918, đã xuất hiện một loạt các đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Áchentina, Phần Lan, Áo, Hungari, Ba Lan, Đức. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập Quốc tế Cộng sản.
2. Quá trình chuẩn bị thành lập Quốc tế III
Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, phái tả trong Quốc tế II tổ chức hai hội nghị quốc tế tại Dimmecvan (9-1915) và Kienta (4-1916), do vậy phái này được gọi là phái tả Dimmecvan. Họ “đã lên tiếng chống chiến tranh đế quốc đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội''. Phái tả Dimmecvan chủ trương đoạn tuyệt với Quốc tế II, đoàn kết các lực lượng cách mạng lại trong một tổ chức quốc tế mới. Đó là bước chuẩn bị cho sự ra đời của Quốc tế III, mặc dù còn nhiều hạn chế như không chấp nhận đường lối đấu tranh triệt để của Lê nin và Đảng Bônsêvích Nga: ''Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất bại các chính phủ trong chiến tranh''.
Ngày 1-1-1914, Đảng Bônsêvích Nga, dưới sự lãnh đạo của Lênin, ra tuyên ngôn: biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng'' và ''tuyên bố đoạn tuyệt với Quốc tế II''. Tại các cuộc hội nghị của những người xã hội quốc tế, Lê nin đã tập hợp phái tả đề ra cương lĩnh riêng (thư trên). Phái tả gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại biểu những người xã hội phái tả ở Đức, Bungari, Ba Lan, Lituyani, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ, Hà Lan. Mặc dù trong phái tả Dimmecvan chỉ có Đảng Bônsêvích có lập trường đúng, nhưng phái này đã góp phần đoàn kết các chiến sĩ quốc tế chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Cuối năm 1916, khi sa vào lập trường chủ nghĩa hòa bình tư sản của phe đa số Dimmecvan, Liên hiệp Dimmecvan đã kìm hãm việc mở rộng phong trào công nhân. Lê nin đặt ra một cách rất kiên quyết vấn đề lập tức đoạn tuyệt với Liên hiệp Dimmecvan và thành lập Quốc tế III.
Tại Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội - Dân chủ Nga (4-1917), Lê nin đề nghị Đảng Bônsêvích đảm nhận sứ mệnh lập Quốc tế cách mạng. Tháng 1-1918, Hội nghị đại biểu phái tả trong các Đảng xã hội – dân chủ họp ở Pêtơrôgrát thông qua nghị quyết về sự cần thiết lập Quốc tế mới, Hội nghị nêu rõ điều kiện tham gia Quốc tế mới là tán thành con đường đấu tranh chống Chính phủ tự sản nước mình; ủng hộ Cách mạng Tháng Mười và chính quyền Xô viết. Tháng 11-1919, Hội nghị các tổ chức và Đảng cộng sản (Nga, Ba Lan, Hungari, Đức, Áo, Lát via, Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Ban căng) họp ở Mátxcơva dưới sự chỉ đạo của Lê nin đã thông qua thư kêu gọi thành lập Quốc tế Cộng sản. Tháng 2-1919, Quốc tế II họp Hội nghị ở Bécnơ (Thụy Sĩ) tìm cách ngăn cản Quốc tế III thành lập nhưng không đạt kết quả. Yêu cầu thành lập tổ chức Quốc tế cách mạng trở thành nhiệm vụ cấp bách.
3. Đại hội thành lập quốc tế III
Đại hội thành lập Quốc tế III tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6-3-1919, có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Ngoài đại biểu phương Tây còn có đại biểu các nước phương Đông: Triều Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, chứng tỏ Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Lê nin. Đề cương Về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản của Lê nin đã được thông qua. Đề cương vạch trần bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, giải thích ý nghĩa của chính quyền Xô viết - một hình thức chuyên chính vô sản. Lê nin khẳng định: chỉ có nền dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, không có nên dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất, do vậy nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được dân chủ vô sản.
Đại hội I thông qua Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản, trong đó trình bày những nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa Lê nin về chủ nghĩa đế quốc và lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định nhiệm vụ trước mắt của giai cấp vô sản và phương pháp đấu tranh. Đại hội thông qua Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản trên thế giới. Lời kêu “gửi công nhân tất cả các nước'' và một số nghị quyết khác. Nguyên tắc tổ chức của Quốc tế Cộng sản là tập trung dân chủ. Một ban chấp hành được bầu ra gồm đại biểu cộng sản nhiều nước.
Sự thành lập Quốc tế Cộng sản cớ ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó góp phần đẩy nhanh sự hình thành các Đảng cộng sản ở nhiều nước, Quốc tế III ra đời đánh dấu thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa cơ hội - xét lại. Tất cả các đảng cách mạng chân chính đã đoàn kết dưới ngọn cờ Quốc tế III – trung tâm lãnh đạo của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà hạt nhân là Đảng Bônsêvích Nga và Lê nin.
Trong thời gian tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành 7 kỳ đại hội. Từ Đại hội I đến Đại hội IV do Lê nin trực tiếp lãnh đạo. Đại hội V đến Đại hội VII do Xtalin lãnh đạo.
II. Hoạt động của Quốc tế III qua các kỳ Đại hội
l. Đại hội II Quốc tế Cộng sản họp từ 19-7 đến 7-8-1920 tại Pêtơrôgrát và Mátxcơva, có 217 đại biểu của 67 tổ chức ở 37 nước tham dự. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đã thúc đẩy cao trào cách mạng đạt tới đỉnh cao. Một loạt đảng cộng sản ra đời: Đảng Cộng sản Mỹ (1919), Tây Ban Nha (1920), Anh (1920). Tuy nhiên, phong trào cách mạng đã bộc lộ những hạn chế do thiếu những lãnh tụ có uy tín và kinh nghiệm lãnh đạo.
Tuy nhiều đảng cộng sản đã ra đời, nhưng phong trào cộng sản quốc tế chịu ảnh hưởng của xu hướng tả khuynh và hữu ''khuynh của các lãnh tụ cơ hội trong Quốc tế II. Đặc biệt, các đảng non trẻ thường dẫn tới ''tả'' khuynh. Đứng trước tình hình đó, Lê nin đã viết tác phẩm Bệch ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản nêu rõ nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, nhất và khuynh hướng tả'' biểu hiện rõ trong phong trào cộng sản Đức và Anh. Người đã phân tích tính tất yếu của chính đảng vô sản trước và sau khi giai cấp vô sản giành thắng lợi, cự tuyệt tham gia hoạt động trong công đoàn phản động, chống việc tham gia nghị viện tư sản.v.v.
Tại Đại hội II, báo cáo về tình hình thế giới và nhiệm vụ cơ bản của Quốc tế Cộng sản của Lê nin là văn kiện, đặt cơ sở mang tính nguyên tắc cho các nghị quyết của Đại hội. Đại hội thông qua các văn kiện quan trọng như Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa; Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản; Vấn đề thành lập và củng cố các Đảng cộng sản kiểu mới. Đại hội thông qua 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản. Cơ sở của 21 điều kiện là học thuyết Mác-Lênin về đảng kiểu mới của Quốc tế Cộng sản, những nguyên tắc, tổ chức cách mạng quốc tế của Quốc tế Cộng sản đảm bảo sự đoàn kết quốc tế, chống phần tử hữu khuynh, trước hết là phái giữa chui vào Quốc tế Cộng sản để phá hoại. Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa xác định lập trường giai cấp vô sản với nông dân và nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa, xác định ''cương lĩnh ruộng đất của chuyên chính vô sản''. Đề cương kêu gọi đảng cộng sản các nước giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và với sự giúp đỡ của các nước vô sản tiên tiến, các nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đại hội thông qua Điều lệ Quốc tế Cộng sản, khẳng định nguyên tắc tập trung dân chủ. Về cơ cấu tổ chức của Quốc tế III, đảng cộng sản mỗi nước là chi bộ cơ sở.
Đại hội II của Quốc tế III đã củng cố và đoàn kết hàng ngũ đảng cộng sản, vũ trang cho các đảng về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh, góp phần làm cho các đảng cộng sản ở các nước được hình thành và phát triển.
2. Đại hội III Quốc tế cộng sản họp từ 22-6 đến 12-7- 1921 tại Mátxcơva, có 605 đại biểu của l03 tổ chức ở 52 nước tham dự.
Đại hội nhận định giai cấp vô sản tạm thời bị thất bại trong đấu tranh giai cấp do chính sách chia rẽ của bọn lãnh tụ xã hội - dân chủ. Đại hội đề ra nhiệm vụ cho cuộc đấu tranh mới là tranh thủ đa số công nhân, loại trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội. Đại hội coi sách lược lập Mặt trận thống nhất là phương pháp chủ yếu để mở rộng ảnh hưởng của đảng cộng sản trong quần chúng. Mặt trận công nhân thống nhất có nhiệm vụ động viên quần chúng công nhân đấu tranh đòi quyền lợi trước mắt, gắn với mục tiêu xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, thiết lập nền chuyên chính vô sản. Lê nin đọc báo cáo Sách lược của Đảng Cộng sản Nga trình bày đường lối của Đảng và nhiệm vụ trong giai đoạn thực hiện Chính sách kinh tế mới đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội tán thành sách lược của Đảng Cộng sản Nga (B). Kiên quyết lên án, bác bỏ 1ý luận phiêu lưu của phái tả”, đề ra kế hoạch phát động tấn công trong bất kỳ tình huống nào, kêu gọi các đảng cộng sản tham gia cuộc đâu tranh thường xuyên cùng với Quốc tế Cộng sản. Đại hội III thảo luận thông qua Đề cương về vấn đề tổ chức, nêu nhiệm vụ cải tổ các đảng cộng sản theo nguyên tắc lãnh thổ - sản xuất, lập ra các chi bộ và liên công xưởng.
Các nghị quyết của Đại hội III đã giúp cho các đảng cộng sản khắc phục tàn dư xã hội - dân chủ, công đoàn vô chính phủ và chủ nghĩa bè phái, do đó giúp cho các đảng trở thành những chính Đảng cách mạng có tính chất quần chúng, biết hành động trong điều kiện thoái trào.
3. Đại hội IV Quốc tế Cộng sản diễn ra từ ngày 5-11 đến 5- 12-1922, đúng vào dịp kỷ niệm 5 năm Cách mạng tháng Mười thành công. Tham gia Đại hội có 408 đại biểu của 58 nước, đại diện cho gần 2 triệu đảng viên., Đây là Đại hội cuối cùng Lênin tham dự. Đại hội xác nhận đề cương về Mặt trận thống nhất công nhân do Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản soạn thảo và thông qua Luận cương và nhiệm vụ của những người cộng sản trong các tổ chức công đoàn Đại hội đề ra khẩu hiệu ''Mặt trận thống nhất chống đế quốc và phong kiến'', coi đó là khẩu hiệu cơ bản đối với các nước thuộc địa. Lê nin đọc báo cáo Năm năm cách mạng Nga và triển vọng của cách mạng thế giới, trong đó nêu bật ý nghĩa quan trọng của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với phong trào cộng sản quốc tế, nhấn mạnh tính chất phức tạp của việc xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, học cách tiến công và học cách rút lui để chuẩn bị tiến công, học tập kinh nghiệm cách mạng nga. Sau Đại hội, Lê nin lâm bệnh nặng, Người đã đọc cho thư ký viết những bài cuối cùng Những trang nhật ký, Bàn về chế độ hợp tác, Về cuộc cách mạng của chúng ta, Cải tổ Bộ Dân ủy và Thanh tra công nhân thế nào và Thà ít mà tốt. Với những tác phẩm đó, Lê nin đã vạch kế hoạch tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Lênin từ trần ngày 21-1-1924
4. Đại hội V Quốc tế III họp ở Mátxcơva từ ngày 17-6 đến ngày 8-7-1924, có 504 đại biểu thay mặt cho 49 đảng cộng sản tham dự Nhiệm vụ chủ yếu của Đại hội là xây dựng các Đảng cộng sản có tính chất quần chúng, tiếp thu kinh nghiệm Đảng Cộng sản (B) Nga. Đại hội chú trọng vấn đề dân tộc thuộc địa, đặc biệt là đối với cách mạng Trung Quốc. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đọc tham luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa, lên án chủ nghĩa thực dân, phê phán một số đảng cộng sản Tây Âu, trước hết là Đảng Cộng sản Pháp, chưa chú ý đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Đại hội lên án chủ nghĩa Tơrốtxki, cho đó là khuynh hướng tiểu tư sản. Cương lĩnh Tơrốtxki – Dinôviép bị lên án kịch liệt, Dinơviép bị cách chức Chủ tịch Quốc tế Cộng sản. Lần đầu tiên tại Đại hội V, thuật ngữ chủ nghĩa Mác – Lênin được sử dụng chính thức, nói lên đầy đủ tầm quan trọng của chủ nghĩa Lê nin trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
5. Đại hội VI Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-7 đến ngày 11-9-1928, có 532 đại biểu đại diện cho 57 đảng cộng sản, công nhân và 9 tổ chức quốc tế tham dự. Đại hội phân tích tình hình quốc tế và nhận định sẽ nổ ra chiến tranh đế quốc với đế quốc, chiến tranh của các đế quốc chống Liên Xô, chiến tranh giải phóng dân tộc. Đại hội định ra nhiệm vụ của các đảng cộng sản là đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, chống nguy cơ phát xít, bảo vệ Liên Xô, cách mạng Trung Quốc, đấu tranh giành chính quyền, chống chủ nghĩa cơ hội hữu và “tả''. Đại hội thông qua Cương lĩnh mới, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân trong các điều kiện cụ thể.
Cương lĩnh cho rằng: cách mạng vô sản có thể thắng lợi trước tiên ở một vài nước. Các nước lạc hậu, khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với điều kiện là có sự giúp đỡ của nhà nước chuyên chính vô sản và phong trào công nhân quốc tế. Cương lĩnh đề cập ba loại hình cách mạng cơ bản:
+ Ở những nước tư bản phát triển cao, có thể làm cách mạng vô sản, thiết lập ngay chuyên chính vô sản.
+ Ở những nước tư bản phát triển trung bình, có thể làm cách mạng dân chủ nhân dân, thiết lập chuyên chính công nông quá độ lên chuyên chính vô sản.
+ Ở những nước thuộc địa và phụ thuộc, có thể làm cách mạng phản đế, phản phong, thiết lập chuyên chính vô sản khi cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới đã thắng lợi.
6. Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp từ 25-7 đến 25-8-1935, có 510 đại biểu của 65 Đảng, đại diện cho 3,141 triệu đảng viên, trong đó có 785 nghìn đảng viên ở các nước tu bản chủ nghĩa tham dự.
Tình hình thế giới trước Đại hội cho thấy nửa đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tổng khủng hoảng, kinh tế suy thoái nghiêm trọng. Trong khi đó, kinh tế Liên Xô và Mông Cổ, là các nước xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng rất mạnh; năm 1932 so với năm 1925, công nghiệp tăng hai lần. Chủ nghĩa phát xít ra đời được chủ nghĩa đế quốc khuyến khích và nguy cơ của chiến tranh thế giới thứ hai đã đến gần. Trước tình hình đó, những người cộng sản, đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của các đảng cộng sản; định ra một đường lối chiến lược, sách lược mới của phong trào cộng sản thế giới Đại hội VII họp để thực hiện nhiệm vụ đó.
Nội dung cơ bản nhất của Đại hội là vấn đề chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ của một cuộc chiến tranh đế quốc đang đến gần. Đại hội xác định hai nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít:
Một là, các đảng cộng sản chưa đủ sức mạnh để phát động quần chúng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, cá biệt có một số đảng còn có thái độ thoả hiệp.
Hai là, do sự phản bội của các đảng xã hội - dân chủ, các đảng này đã hợp tác với giai cấp tư sản. Đại hội ra nghị quyết về việc lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa phát xít. Mặt trận đoàn kết giữa nông dân, công nhân, tiểu tư sản thành thị và giai cấp lao động thuộc các dân tộc bị áp bức, trên cơ sở mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân.
Nghị quyết Đại hội hướng dẫn các đảng cộng sản khi đề ra cương lĩnh mặt trận phải bảo vệ yêu sách của nông dân, thợ thủ công, trí thức. Trong quá trình đấu tranh cho mặt trận nhân dân, có thể phải thành lập chính phủ của mặt trận đó. Chính phủ này có thể là chính phủ quá độ lên chuyên chính vô sản. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp chính phủ của mặt trận nhân dân phải đấu tranh chống lực lượng phản động và phát xít. Những người cộng sản tham gia chính phủ mặt trận nhân dân không giống chính sách hợp tác giai cấp do các lãnh tụ xã hội - dân chủ thi hành mà với mục đích đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đại hội thông qua nghị quyết về vấn đề sự thống nhất của phong trào, coi đó là nhiệm vụ chủ yếu để củng cố Mặt trận thống nhất. Đại hội chú trọng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc và âm mưu gây chiến tranh chống Liên Xô. Đại hội kêu gọi các đảng cộng sản trong trường hợp chiến tranh nổ ra hãy lợi dụng cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị để ''biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng''.
Với những nội dung chủ yếu nêu trên, Đại hội VII xác định khẩu hiệu trung tâm của các Đảng cộng sản lúc đó là ''đấu tranh cho hòa bình'' nhằm động viên tất cả các lực lượng dân chủ sẵn sàng tham gia phong trào chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội vạch rõ, vì thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản nên cần thiết phải có sự thống nhất về chính trị của giai cấp công nhân, có đảng thống nhất của giai cấp vô sản, độc lập hoàn toàn với giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội dân chủ; thực hiện sự thông nhất hành động. Đại hội thừa nhận phải dùng cách mạng để lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản dưới hình thức các Xô viết; không ửng hộ giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc; xây dựng đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ v.v..
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã định ra phương hướng sách lược mới, đó không phải là sự phủ nhận sách lược mặt trận thống nhất mà là phát triển sách lược đó trong điều kiện mới.
Đại hội VII có,vị trí đặc biệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Nghị quyết của Đại hội VII đã phát triển những vấn đề lý luận về chiến lược và sách lược cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định phương hướng cho cuộc đấu tranh của Mặt trận thống nhất công nhân và nhân dân chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc.
Những nghị quyết đúng đắn của Đại hội đã góp phần buộc chính phủ tư sản ở một số nước phải thực hiện chính sách chống phát xít, Ví dụ. ở Anh, phong trào cộng sản và công nhân đã buộc Đảng Bảo thủ Sớcsin phải thực hiện chính sách chống chủ nghĩa phát xít. Ở Mỹ, Tổng thống Rudơven cũng phải ủng hộ chính sách chống chủ nghĩa phát xít.
III. Quốc tế cộng sản tự giải tán
Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc Quốc tế Cộng sản giải tán:
Nguyên nhân trực tiếp: Do chiến tranh thế giới nổ ra và lan rộng, có 61 nước với 170 triệu người bị động viên vào chiến tranh, trong đó có tới 110 triệu người cầm súng. Chiến tranh đã cản trở hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất không còn thích hợp nữa.
Nguyên nhân sâu xa: Quốc tế Cộng sản đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình là tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, thiết lập chuyên chính vô sản ở một số nước Quốc tế Cộng sản đã thúc đẩy sự ra đời của một loạt đảng cộng sản ở các nước. Các đảng cộng sản đó đã trưởng thành về lý luận cũng như về chính trị, đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng ở từng nước mà không cần sự lãnh đạo từ một trung tâm.
Ngày 15-5-1943, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định giải tán Quốc tế Cộng sản. Ngày 8-6-1943, Hội nghị cuối cùng của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra nghị quyết từ 10-6-1943, tất cả các hoạt động của Quốc tế Cộng sản kết thúc.
Quốc tế Cộng sản đã đóng vai trò lịch sử lớn lao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, Quốc tế Cộng sản có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, chống lại mọi sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin từ hai phía “tả'' và ''hữu''.
Hai là, Quốc tế Cộng sản đã thực hiện được sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân trên phạm vi thế giới.
Ba là, Quốc tế Cộng sản đã phát triển lý luận mác xít như phát triển chiến lược, sách lược của đảng cộng sản.
Bốn là, giúp cho các đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản trẻ tuổi động viên quần chúng đứng lên bảo vệ lợi ích của nhân dân và chống chiến tranh đế quốc.
Năm là, củng cố tình đoàn kết giữa giai cấp công nhân các nước trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sáu là Quốc tế Cộng sản định ra chiến lược, sách lược đúng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa.
Bảy là, Quốc tế Cộng sản đã tạo ra tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và các nước châu Á.
Trong tác phẩm Quốc tế thứ ba và địa vị lịch sứ của nó viết vào tháng 4-1919, Lênin cho rằng, Quốc tế Cộng sản là người thừa kế, kế tục sự nghiệp của Quốc tế I. ''Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế III là ở chỗ nó đã bắt đầu đem thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết bước tiến trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện thành khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản''.
Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản cũng còn những hạn chế và sai lầm nhất định. Quốc tế Cộng sản đặt ra nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng sau khi Lê nin qua đời, chủ trương và hoạt động của nó lại chỉ thiên về tập trung. Ban lãnh đạo Quốc tế Cộng sản có những quyết định thiếu dân chủ, chẳng hạn trong việc giải thể Đảng Cộng sản Ba Lan năm 1938. Quốc tế Cộng sản cũng phạm sai lầm tả ''khuynh khi đánh giá các đảng xã hội - dân chủ, coi họ là kẻ thù như chủ nghĩa phát xít. (Đại hội V năm 1924, khi Lênin mất, Xtalin lãnh đạo Quốc tế III, đã coi chủ nghĩa phát xít và những người dân chủ xã hội là những đứa con sinh đôi, là con dao hai lưỡi, vì thế Quốc tế Cộng sản không liên minh với những người xã hội dân chủ). Đồng thời, Quốc tế Cộng sản đã đánh giá không đầy đủ khả năng tự điều chỉnh và tiềm năng phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ví dụ: Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản (1928) coi sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chỉ là “hồi quang phản chiếu'' trước lúc giãy chết.
Mặc dù vậy, Quốc tế Cộng sản vẫn tạo nên một cột mốc chói lọi trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sau khi giải tán (1943), Quốc tế Cộng sản vẫn còn ảnh hưởng lớn đến các đảng cộng sản châu Âu, châu Á, châu Phi, và Mỹ Latinh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét