Thứ Ba, 21 tháng 7, 2015

Quan hệ Việt - Mỹ sau 40 năm chiến tranh

Quan hệ Việt - Mỹ sau 40 năm chiến tranh

Quan hệ ngày càng được cải thiện giữa Mỹ và Việt Nam có vẻ là một phát triển thú vị trong môi trường địa-chính trị hiện nay. Phối hợp đảm bảo an ninh hàng hải và tăng cường quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt có thể là sự hợp tác cùng thắng. Điều này sẽ giúp Việt Nam tập hợp được sự ủng hộ trong việc bảo vệ biển đảo trong khi Mỹ có điều kiện để thực hiện chính sách “xoay trục” của mình.
Sự nổi lên của Trung Quốc có vẻ như một “nhân tố chính” dẫn tới sự thay đổi môi trường địa-chính trị nhanh chóng tại châu Á. Tham vọng của Trung Quốc trở thành một thế lực lớn đang làm lung lay trật tự thế giới hiện nay, tạo nên thách thức và cơ hội cho sự hợp tác giữa các “diễn viên chính” ở châu Á. Mặc dù không biết liệu Trung Quốc có ý định thay đổi trật tự thế giới như chúng ta cảm thấy hay chỉ xoay cái trật tự đó cho phù hợp với lợi ích của họ, song bất kỳ sự thay đổi nào cũng đều dẫn tới các hệ quả. Một trong những hệ quả ấy là sự tiến triển quan hệ Mỹ-Việt.

Hà Nội và Washington phải mất 20 năm sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ mới thiết lập được quan hệ ngoại giao. Hai nước từng coi nhau là kẻ thù và Mỹ đã áp đặt “Luật buôn bán với nước thù địch” với Việt Nam trong thời gian chiến tranh và mở rộng ra quy mô toàn quốc sau khi Việt Nam tái thống nhất đất nước.

Sau cuộc Chiến tranh Lạnh, hai nước bắt đầu tiến hành những động thái nhỏ hướng tới thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm 1994, Tổng thống Mỹ lúc đó là Bill Clinton đã quyết định chấm dứt lệnh cấm vận buôn bán đối với Việt Nam. Một năm sau, ông Clinton tuyên bố “bình thường hóa quan hệ”. Thậm chí, sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ Mỹ-Việt vẫn bị “quấy rầy” bởi những ký ức về chiến tranh, sự khác biệt về tư tưởng chính trị, vấn đề nhân quyền, vấn đề bom mìn còn sót lại và hậu quả dai dẳng của chất độc màu da cam. Mặc dù đã cố gắng thúc đẩy quan hệ kinh tế, song Mỹ và Việt Nam vẫn còn xa mới thiết lập được mối quan hệ hữu nghị hoặc liên minh mạnh mẽ. Washington tiếp tục cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, trong khi Hà Nội về mặt tư tưởng thân Trung Quốc hơn thân Mỹ.

Đến năm 2010, sự nổi lên của Trung Quốc đã trở nên rõ ràng. Trung Quốc bắt đầu đưa ra các tuyên bố khẳng định chủ quyền tại Biển Đông. Trung Quốc trở nên mạnh hơn và hiếu chiến hơn trong những năm qua. Giống như tất cả các thế lực đang nổi lên trong lịch sử, Trung Quốc bắt đầu hành trình hướng tới tham vọng thống trị biển cả.

Biển Đông là tuyến thương mại quan trọng với những lợi thế chiến lược quan trọng. Sau vụ đối đầu với Philippines tại bãi cạn Scarborough năm 2012, nguy cơ hiểu nhầm dẫn tới xung đột vũ trang đã tăng lên manhh mẽ. Mặc dù Biển Đông là nơi có tranh chấp giữa sáu quốc gia, hầu hết sự đối đầu căng thẳng trong 5 năm qua là giữa Trung Quốc-Việt Nam và Trung Quốc - Philippines. Một diễn biến quan trọng trong bối cảnh căng thẳng gia tăng (ở Biển Đông) đó là tuyên bố của Washington về chiến lược “xoay trục sang châu Á” hay còn gọi là chiến lược “tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương”. Trong khi Bắc Kinh coi chiến lược tái cân bằng của Mỹ như một chính sách nhằm kiềm chế Trung Quốc, Washington khẳng định châu Á-Thái Bình Dương luôn là khu vực quan trọng trong các chính sách của Mỹ và chiến lược “xoay trục” là nhằm tăng cường các liên minh của Mỹ và xây dựng các mối quan hệ mới.

Trong bối cảnh này, Việt Nam và Mỹ đã tìm thấy môi trường chung, giúp họ vượt qua quá khứ chiến tranh và thiết lập mối quan hệ mạnh mẽ hơn. Sự cần thiết phải đối trọng với một Trung Quốc hiếu chiến đã tạo nên sự lựa chọn của Việt Nam hướng tới Mỹ. Nếu Việt Nam còn phân vân về một khả năng như vậy thì Washington sẽ triển khai các bước nhằm cụ thể hóa hướng đi này.

Tháng 10/2014, Mỹ đã bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam, theo đó cho phép Việt Nam mua các hệ thống giám sát và bảo vệ an ninh hàng hải từ Mỹ. Điều này đã được khẳng định rõ khi Washington cam kết giúp Việt Nam tăng cường năng lực hàng hải. Cả hai bên đã bày tỏ quan tâm tới việc phát triển quan hệ an ninh, được thể hiện qua chuyến thăm của Bộ trưởng Công an Việt Nam Trần Đại Quang tới Washington hồi tháng 3/2015 và chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng mới đây.
Chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa quan trọng. Cuộc gặp giữa ông với Tổng thống Obama tại Nhà Trắng đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ mà Washington và Hà Nội có thể làm việc cùng nhau để bảo vệ các lợi ích chiến lược của mình tại châu Á.

Tuyên bố chung kết thúc chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ tầm quan trọng của an ninh hàng hải trong quan hệ hai nước. Việt Nam cam kết bảo vệ nhân quyền, đồng thời hoan ngênh “chính sách của Mỹ tăng cường hợp tác với khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Hai nước nhấn mạnh đến sự cần thiết giải quyết bất đồng trên Biển Đông theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) và bày tỏ quan ngại liên quan đến những diễn biến trên Biển Đông đang phá hoại và đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định của khu vực.

Quan hệ ngày càng được cải thiện giữa Mỹ và Việt Nam có vẻ là một phát triển thú vị trong môi trường địa-chính trị hiện nay. Phối hợp đảm bảo an ninh hàng hải và tăng cường quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt có thể là sự hợp tác cùng thắng. Điều này sẽ giúp Việt Nam tập hợp được sự ủng hộ trong việc bảo vệ biển đảo trong khi Mỹ có điều kiện để thực hiện chính sách “xoay trục” của mình. Ngoài ra, sự phát triển trong quan hệ Mỹ-Việt cũng mở ra những cơ hội lớn khác cho sự hợp tác của những “diễn viên chính” trong khu vực, như Ấn Độ.

New Delhi mới đây đã thể hiện quyết tâm chính trị đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ an ninh khu vực. Trong khi tìm cách can dự với các “diễn viên chính” khác tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Ấn Độ hãy hợp tác với Việt Nam và Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải. Điều này sẽ giúp New Delhi thiết lập được “mối quan hệ tay ba đáng tin cậy để bảo vệ an ninh”. Sự hiện diện của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương là nguyên nhân gây lo ngại cho New Delhi và điều này đang nhanh chóng trở thành một thực tế.

Darshana Baruah, chuyên viên nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nhà quan sát (ORF), Ấn Độ. Bài viết được đăng trên ORF.
Nguồn : http://www.orfonline.org/cms/sites/orfonline/modules/analysis/AnalysisDetail.html?cmaid=85299&mmacmaid=85300



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét