Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

LIỆU SỰ NỔI LÊN CỦA TRUNG QUỐC CÓ DẪN TỚI CHIẾN TRANH ? (Will China’s Rise lead to war ?)

LIỆU SỰ NỔI LÊN CỦA TRUNG QUỐC
CÓ DẪN TỚI CHIẾN TRANH ?
(Will China’s Rise lead to war ?)
Charles Glaser
Foreign Affairs, Ma/Av 2011
Tại sao chủ nghĩa thực tế không phải là bi quan ?
Sự nổi lên của Trung Quốc có vẻ sẽ là hiện tượng quan hệ quốc tế quan trọng nhất thế kỷ 21, nhưng người ta không rõ câu chuyện này sẽ kết thúc đẹp đẽ hay không ? Liệu sự nổi lên của Trung Quốc có làm tăng khả năng xảy ra chiến tranh cường quốc ? Một kỷ nguyên căng thẳng Trung – Mỹ liệu có nguy hiểm như cuộc chiến tranh lạnh ? Hay là nó sẽ tồi tệ hơn, vì Trung Quốc không giống như Liên Xô, sẽ là một đối thủ cạnh tranh không những địa chính trị mà còn là đối thủ kinh tế của Mỹ ?
Các chuyên gia đủ mọi tầng lớp đã bàn về các vấn đề này. Khu vực học, sử gia, kinh tế gia – Mọi người đều nghĩ rằng họ hiểu rõ một vài khía cạnh của tình hình. Nhưng tính chất đặc biệt, cách hành xử trong quá khứ, và quĩ đạo kinh tế của Trung Quốc có lẽ trở nên ít quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sự việc trong tương lai như nhiều người vẫn nghĩ. Bởi vì một quốc gia hành động như một siêu cường như thế nào, và hành động của nó và của những nước khác để đưa tới chiến tranh, bị định hình bởi tình hình chính trị quốc tế cũng như bởi phong cách riêng của mỗi nước. Câu hỏi lớn này về những điều kiện làm cho một thời kỳ quá độ đại cường dẫn tới chiến tranh là những điều mà các lý thuyết gia về quan hệ quốc tế phải nghiên cứu. Do đó, họ cũng có ý kiến về cuộc bàn luận này.
Cho tới nay, cuộc tranh luận về Trung Quốc giữa các chuyên gia về quan hệ đối ngoại đã đưa những người tự do lạc quan chống lại những người thuộc phái thực tế bi quan. Người theo khuynh hướng tự do lý luận là vì trật tự quốc tế hiện hữu được định nghĩa bởi sự cởi mở kinh tế và chính trị, do đó nó có thể chấp nhận được sự nổi lên của Trung Quốc một cách hòa bình. Nước Mỹ và các cường quốc lãnh đạo khác, có thể và sẽ nói rõ là họ chào đón Trung Quốc tham gia vào trật tự hiện hữu hiện nay và phát triển cùng với nó. Và Trung Quốc có vẻ sẽ làm như vậy, thay vì lao vào một cuộc đấu tranh tốn kém và nguy hiểm để lật đổ hệ thống hiện có, và thành lập một hệ thống mới theo ý thích của họ.
Những người thuộc khuynh hướng thực tế (duy thực) tiêu chuẩn ngược lại, cho rằng sẽ có sự đua tranh gay gắt. Sức mạnh đang lên của Trung Quốc, sẽ đưa họ tới việc theo đuổi quyền lợi một cách mạnh mẽ, và điều này sẽ làm cho Mỹ và các cường quốc khác phải cân bằng lại. Chu kỳ này sẽ dẫn tới một loại những đối đầu kiểu chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô trước kia. Và ngay cả sẽ dẫn tới chiến tranh bá quyền. Những người theo trường phái này viện dẫn sự kiện gần đây Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền vùng biển Hoa Đông và Hoa Nam (Biển Đông của Việt Nam) và sự hợp tác chặt chẽ giữa Mỹ và Ấn Độ. Họ cho rằng đó là dấu hiệu cho thấy chu kỳ khẳng định (của Trung Quốc) và cân bằng (của Hoa Kỳ) đã bắt đầu.
Điều kiện quốc tế hiện nay phải cho phép cả Mỹ và Trung Quốc bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ mà không gây đe dọa cho người khác. Thật ra, một hình thức tế nhị hơn của chủ nghĩa duy thực cho phép lạc quan. Sự nổi lên của Trung Quốc không cần thiết phải mang tính cạnh tranh và nguy hiểm như những người duy thực tiêu chuẩn suy nghĩ. Vì những lực cơ cấu thúc đẩy các đại cường tạo ra chiến tranh còn tương đối yếu. Thêm vào đó, nếu có nguy hiểm, không phải từ những mối nguy hiểm do các lý thuyết về quan hệ quốc tế tiên liệu, nhưng có thể là nảy sinh ở Đông Bắc Á. Và sự an ninh hiện hữu trong quan hệ quốc tế nói chung sẽ giúp cho Mỹ và Trung Quốc quản lý được những tranh cãi này. Cuối cùng, hậu quả của sự nổi lên của Trung Quốc sẽ ít bị phụ thuộc vào áp lực do hệ thống quốc tế gây ra, mà là tùy theo lãnh đạo của hai nước quản lý tình hình như thế nào. Xung đột không phải là tiền định. Và nếu nước Mỹ có thể tự điều chỉnh theo hoàn cảnh quốc tế mới, chịu vài nhượng bộ thỏa đáng, và không phóng đại mối nguy cơ từ Trung Quốc, người ta có thể tránh được một cuộc đụng độ lớn.
Một song đề về an ninh
Chủ nghĩa thực tế cơ cấu cắt nghĩa hành động của Nhà nước theo áp lực và thời cơ do hệ thống quốc tế gây ra. Người ta không cần để ý tới các nhân tố nội bộ để cắt nghĩa các cuộc đụng độ quốc tế, vì họ cho rằng các hành động thường ngày của các quốc gia độc lập ham muốn giữ gìn an ninh trong một thế giới vô chính phủ có thể dẫn tới chiến tranh. Dĩ nhiên điều này không phải lúc nào cũng xảy ra, và cắt nghĩa tại sao các quốc gia tìm kiếm an ninh lại rơi vào chiến tranh, là một điều khó hiểu. Bởi vì thay vào đó họ có thể chọn lựa sự hợp tác, và những phúc lợi của hòa bình. Giải đáp cho sự khó hiểu này là ý niệm song đề về an ninh (security dilemma) – là tình trạng trong đó cố gắng của một quốc gia tìm kiếm an ninh lại làm giảm bớt an ninh của các quốc gia khác.
Cường độ của song đề an ninh tùy thuộc một phần vào sự dễ dàng tấn công và sự răn đe. Khi tấn công dễ dàng, ngay cả một sự tăng nhỏ lực lượng của một quốc gia, cũng làm giảm đáng kể an ninh của các quốc gia khác, làm tăng thêm vòng xoáy trôn ốc sợ hãi và vũ trang. Ngược lại, khi sự phòng vệ và răn đe được dễ dàng, sự thay đổi lực lượng của một quốc gia không nhất thiết đe dọa các quốc gia khác, và khả năng duy trì quan hệ chính trị tốt giữa những tác nhân trong hệ thống sẽ được dễ dàng.
Cường độ của song đề an ninh còn tùy thuộc vào niềm tin của một quốc gia đối với động cơ và mục tiêu của các quốc gia khác. Ví dụ, nếu một quốc gia tin là đối thủ chỉ hành động vì mục tiêu nhu cầu an ninh – hơn là có tham vọng thống trị hệ thống – thì họ sẽ nhìn thấy sự tăng cường lực lượng của đối thủ ít đáng ngại hơn, và không cảm thấy cần phải trả đũa. Như thế sẽ ngăn chặn được sự leo thang chính trị và quân sự.
Khả năng thay đổi cường độ của song đề an ninh có hậu quả rất mạnh lên lý thuyết duy thực cơ cấu (1B), làm cho những dự báo của nó không chính xác như người ta nghĩ. Khi song đề an ninh gay gắt, sự cạnh tranh sẽ tăng cao và có nhiều khả năng gây ra chiến tranh. Đó là cách hành xử cổ điển do tính bi quan duy thực. Nhưng khi cường độ song đề an ninh thấp, một người duy thực cơ cấu sẽ nghĩ là hệ thống quốc tế tạo ra cơ hội cho sự kiềm chế và hòa bình. Hơn thế nữa, nếu hiểu theo đúng nghĩa, song đề an ninh cho thấy một quốc gia có an ninh nhiều hơn khi đối thủ của nó được thêm an ninh – bởi vì sự mất an ninh sẽ gây sức ép lên đối thủ, bắt nó phải chọn những chính sách cạnh tranh đáng sợ hơn. Động lực này khuyến khích sự kiềm chế và hợp tác. Nếu một đối thủ biết rõ người ta chỉ muốn có an ninh (ngược lại với thống trị) bản thân đối thủ sẽ thoải mái.
Tất cả những điều đó có liên quan gì tới sự nổi lên của Trung Quốc ? Trong mức độ rộng rãi nhất, tình hình rất tốt. Tình hình quốc tế hiện nay giúp cho Mỹ và Trung Quốc bảo vệ quyền lợi thiết thân của họ mà không tạo ra mối đe dọa lớn lên nhau, vũ khí hạt nhân giúp cho các cường quốc lớn duy trì lực lượng răn đe tương đối dễ dàng. Ngay cả khi sức mạnh của Trung Quốc vượt xa sức mạnh của Mỹ, nước Mỹ vẫn đủ khả năng duy trì lực lượng hạt nhân sau cú đánh đầu tiên của Trung Quốc và sẽ trả đũa, gây ra tàn phá ghê gớm. Những cuộc tấn công lớn bằng vũ khí quy ước của Trung Quốc vào đất Mỹ hầu như không thể thực hiện được, vì hai quốc gia Mỹ và Trung Quốc cách nhau bằng cả một Thái Bình Dương rộng lớn. Rất khó vượt qua đại dương này để tấn công. Không có một sự tăng cường vũ trang nào trước mắt của Trung Quốc đủ lớn để khuất phục được hai lợi thế cho sự phòng thủ của Mỹ. Thêm vào đó, Trung Quốc cũng có những lợi thế tương tự cho sự phòng vệ của họ. Mặc dù hiện nay Trung Quốc rất yếu về quân sự so với Mỹ, họ sẽ sớm xây dựng nhanh chóng một lực lượng hạt nhân đủ để răn đe người Mỹ. Và người Trung Quốc cũng không sợ mối đe dọa do khả năng vũ khí quy ước to lớn của Mỹ gây ra. Bởi vì lực lượng chính của Mỹ, hậu cần và hỗ trợ nằm ở bên kia Thái Bình Dương.
Ảnh hưởng tổng thể của tình hình làm êm dịu rất nhiều song đề an ninh. Cả hai nước Mỹ và Trung Quốc đều có khả năng duy trì mức độ an ninh cao trong hiện tại, và cho tới khi Trung Quốc đạt được quy chế siêu cường. Điều này giúp cho Washington và Bắc Kinh tránh được những quan hệ địa chính trị căng thẳng. Điều này sẽ giúp duy trì song đề an ninh ở mức độ thấp, và tạo thuận lợi cho sự hợp tác. Ví dụ, nước Mỹ có chọn lựa đi trước : không đáp trả lại sự hiện đại hóa lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Sự kiềm chế này trấn an Trung Quốc là Mỹ không muốn đe dọa tới an ninh của họ. Và như thế làm triệt tiêu cuộc ganh đua hạt nhân.
Nhưng các quốc gia đồng minh sẽ ra sao ?
Sự phân tích kể trên đã bỏ qua một điểm quan trọng của chính sách đối ngoại của Mỹ : liên minh an ninh quan trọng giữa Mỹ và Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như những cam kết an ninh khác của Mỹ tại Đông Bắc Á. Mặc dù có thêm đồng minh sẽ làm tình hình phức tạp hơn, nhưng nó cũng không làm giảm sự lạc quan về sự nổi lên của Trung Quốc. Mà thay vào đó, nó đặt ra câu hỏi là các đồng minh khu vực này có thiết yếu cho an ninh của Mỹ không ?
Các cam kết về an ninh đối với đồng minh của Mỹ đã khá ổn định từ lúc chiến tranh lạnh bắt đầu. Nhưng sự nổi lên của Trung Quốc đã gây ra tranh luận về chi phí và lợi ích của chúng. Lý luận theo đường hướng nêu trên – nghĩa là nước Mỹ có được an ninh chỉ nhờ vào lợi thế sức mạnh của nó, vị trí địa lý, và kho vũ khí hạt nhân – các nhà tân cô lập (người theo chủ nghĩa cô lập kiểu mới) cho rằng Mỹ không cần có đồng minh ở Châu Âu và châu Á, vì nó không cần thiết và nguy hiểm. Nếu nước Mỹ ngăn chặn được các cuộc tấn công vào đất Mỹ, họ đặt câu hỏi tại sao nước Mỹ phải có các đồng minh để tham dự vào các cuộc chiến tranh lớn tại những đại lục xa xôi ? Bảo vệ các đồng minh của Mỹ ở châu Á có thể đòi hỏi Mỹ phải tham gia vào các va chạm chính trị và cạnh tranh quân sự, chúng sẽ làm căng thẳng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo phái tân cô lập chủ nghĩa, ngắn gọn, sự nổi lên của Trung Quốc không đe dọa tới an ninh của Mỹ, nhưng nếu duy trì các đồng minh, có thể an ninh của Mỹ sẽ bị đe dọa.
Ngược lại, những người chủ trương tham gia có chọn lọc – một phương thức tương tự như chính sách hiện nay của Mỹ – cho rằng chiến lược họ lựa chọn thích hợp với đường hướng chung của phe duy thực cơ cấu. Trong khi những người tân cô lập muốn nước Mỹ rút quân khỏi các vị trí tiền phương để tránh bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tranh khu vực, những người chủ trương tham gia có chọn lọc lý luận là sự duy trì các đồng minh ở châu Âu và châu Á là cách hay nhất để ngăn chặn các cuộc xung đột xảy ra.
Chúng ta hãy xem xét những cam kết đồng minh hiện có của Mỹ có liên quan tới sự nổi lên của Trung Quốc như thế nào, là một vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới cả chính sách khu vực lẫn chiến lược lớn của Mỹ nói chung. Nếu nước Mỹ duy trì những cam kết với các đồng minh chính yếu (2), chuyện này có vẻ xảy ra, nó sẽ cần phải mở rộng chính sách răn đe tới Nhật Bản và Hàn Quốc trong lúc phải đối mặt với một lực lượng quân đội Trung Quốc quy ước lớn hơn và có khả năng hơn. Về nhiều khía cạnh, sự thách thức này giống như tình hình lúc Mỹ phải mở rộng chính sách răn đe qua Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh. Cả hai siêu cường đều có khả năng trả đũa hạt nhân rất lớn, và nhiều người nghĩ rằng Liên Xô có lực lượng quy ước lớn hơn, có thể xâm lăng châu Âu.
Vào thời đó, các chuyên gia bàn cãi là khả năng của Mỹ liệu có đủ để răn đe một cuộc tấn công quy ước lớn của Liên Xô vào châu Âu ? Họ không đồng ý về học thuyết đáp trả mềm dẻo của NATO – nó phối hợp một lực lượng quy ước lớn cùng với một loạt các loại vũ khí hạt nhân – đã làm cho mối đe dọa hạt nhân của Mỹ khá đáng tin cậy, đủ để răn đe một cuộc tấn công bằng vũ khí quy ước của Liên Xô. Sự nghi ngờ ý muốn của nước Mỹ leo thang, phản ánh mối nguy hiểm rõ rệt là một cuộc leo thang của Mỹ sẽ gặp phải sự trả đũa hạt nhân của Liên Xô. Tuy thế, lý luận mạnh mẽ trong cuộc tranh luận này cho rằng chiến lược của Mỹ đủ để cung cấp sự răn đe thích ứng đối với một cuộc tấn công quy ước của Liên Xô. Bởi vì một leo thang hạt nhân nhỏ của Mỹ cũng trở nên một nguy hiểm lớn cho Liên Xô. Cùng một lô gich nên áp dụng đối với siêu cường Trung Quốc tương lai. Sự kết hợp một cam kết đồng minh rõ rệt, lực lượng quy ước triển khai tiền phương, và một lực lượng hạt nhân lớn có thể sống sót (sau trận đánh phủ đầu), sẽ cho phép nước Mỹ răn đe các cuộc tấn công của Trung Quốc vào Nhật Bản hoặc Hàn Quốc.
Có vẻ người ta sẽ củng cố thêm sự răn đe của Mỹ bằng một quan hệ tương đối tốt giữa Mỹ và Trung Quốc. Những người lo rằng Mỹ không thể mở rộng chính sách răn đe qua Tây Âu vì họ tin rằng Liên Xô là một quốc gia rất xét lại (3), có khuynh hướng muốn lật đổ tình hình nguyên trạng (status quo) và muốn chấp nhận rủi ro lớn trong quá trình lật đổ này. Hầu như hoàn toàn không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc theo đuổi một mục tiêu đầy tham vọng như vậy, do đó việc mở rộng chính sách răn đe hiện nay dễ dàng hơn thời chiến tranh lạnh. Và ngay cả trong một tình hình khó có khả năng xảy ra, nếu Trung Quốc đi theo con đường nguy hiểm đó, răn đe vẫn có thể được áp dụng, mặc dù khó khăn hơn.
Một số người duy thực bi quan lý luận rằng khi muốn có an ninh cao độ, Trung Quốc bó buộc phải theo đuổi chính sách bá quyền khu vực, tạo ra chiến tranh nhiều nơi. Nhưng tầm thước, lực lượng, địa điểm và kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc tạo ra rất nhiều khó khăn, ngăn cản không cho các cuộc tấn công này thành công. Trung Quốc không cần đẩy Mỹ ra khỏi khu vực để có được an ninh, vì một sự hiện diện tiền phương của Mỹ không làm giảm khả năng răn đe cốt lõi của Trung Quốc. Một cuộc rút lui lớn của Mỹ, không tự động nhường quyền bá chủ cho Trung Quốc, vì lúc đó, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ có lực lượng quân sự quy ước mạnh mẽ và khả năng hạt nhân của riêng họ, chúng sẽ làm giảm khả năng tấn công của Trung Quốc. Một chính sách thúc đẩy bá quyền khu vực của Trung Quốc, như thế, sẽ không cần thiết và không thực hiện được.
Sự hiện diện quân sự tiền phương của Hoa Kỳ sẽ củng cố khả năng phô trương sức mạnh (4) của Mỹ. Nó đe dọa khả năng của Trung Quốc bảo vệ đường biển của họ và đe dọa Đài Loan. Nhưng sự đồng minh của Mỹ với Nhật Bản cũng có lợi cho Trung Quốc, vì nó cho phép Nhật Bản chi phí ít cho quốc phòng. Mặc dù sức mạnh của Mỹ vượt xa Nhật Bản, Trung Quốc đã coi liên minh này có phần đóng góp cho ổn định khu vực, vì Trung Quốc sợ Nhật hơn là sợ Mỹ. Khi Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn, có thể họ sẽ ngày càng bực tức về ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Bắc Á. Nhưng nếu quan hệ Trung-Mỹ không quá căng thẳng, Trung Quốc có vẻ chấp nhận sự tiếp tục hiện diện của Mỹ tại vùng này.
Hòa giải về vấn đề Đài Loan ?
Triển vọng tránh được cạnh tranh vũ trang và chiến tranh có lẽ tốt. Nhưng sự tăng cường lực lượng quân sự Trung Quốc đòi hỏi một số thay đổi trong chính sách của Mỹ mà có vẻ Washington không hài lòng lắm. Nhất là đối với Đài Loan. Mặc dù đã mất Đài Loan trong cuộc nội chiến 60 năm về trước, Trung Quốc vẫn coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của họ, và thống nhất là mục tiêu chính của Bắc Kinh. Trung Quốc đã nói rõ là họ sẽ sử dụng tới vũ lực nếu Đài Loan đơn phương tuyên bố độc lập, và Trung Quốc đã tập trung xây dựng lực lượng quy ước (5) để tăng cường khả năng o ép Đài Loan và làm giảm khả năng can thiệp của Mỹ. Vì Trung Quốc đánh giá cao vấn đề Đài Loan, và vì Mỹ và Trung Quốc có thái độ rất khác nhau về tính hợp pháp của tình hình nguyên trạng, vấn đề đã gây ra những mối nguy hiểm đặc biệt, và thách thức trong quan hệ Mỹ-Trung, làm cho vấn đề này thuộc thể loại khác với các vấn đề về Nhật Bản và Hàn Quốc.
Một cuộc khủng hoảng về Đài Loan sẽ dễ dàng leo thang thành chiến tranh hạt nhân, bởi vì mỗi bước đi trong tiến trình chuyển biến đều có vẻ duy lý cho các tác nhân tham gia. Chính sách hiện nay của Mỹ làm giảm xác suất Đài Loan tuyên bố độc lập và đã nói rõ là Mỹ sẽ không đến cứu giúp nếu Đài Loan tuyên bố độc lập. Tuy thế, Mỹ bị áp lực phải bảo vệ Đài Loan chống lại mọi cuộc tấn công, dù nguyên do là gì chăng nữa. Trong tình hình có sự khác biệt về quyền lợi và quan điểm của các bên liên quan, và khả năng kiểm soát có giới hạn của Washington lên cách hành xử của Đài Bắc, một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra, và nước Mỹ phải chạy theo sự cố hơn là lãnh đạo chúng.
Các mối nguy cơ hiện diện từ nhiều thập kỷ. Nhưng sự cải tiến sức mạnh quân sự của Trung Quốc có thể làm cho Bắc Kinh có ý muốn leo thang khủng hoảng về Đài Loan. Ngoài việc kiện toàn khả năng vũ khí quy ước, Trung Quốc đang canh tân các lực lượng hạt nhân để tăng thêm khả năng sống sót và trả đũa, sau khi bị Mỹ tấn công trước. Lý thuyết về răn đe tiêu chuẩn cho rằng khả năng hiện tại của Washington tiêu diệt hầu hết lực lượng hạt nhân của Trung Quốc đã củng cố vị thế thương lượng của Mỹ. Sự canh tân hạt nhân của Trung Quốc có lẽ gạt bỏ sự hơn hẳn của Mỹ, làm cho Bắc Kinh mạnh bạo hơn trong những khủng hoảng tương lai hơn là trong quá khứ. Nếu Mỹ cố gắng duy trì khả năng bảo vệ Đài Loan, sẽ tạo ra chạy đua vũ trang quy ước và hạt nhân. Củng cố khả năng nhắm mục tiêu mang tính tấn công của Mỹ và khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo chiến lược có thể bị Trung Quốc coi là ý đồ xấu của Mỹ, sẽ dẫn tới những nỗ lực quân sự mới của Bắc Kinh và làm hại tới quan hệ Trung – Mỹ.
Vì những rủi ro như vậy, Mỹ nên coi lại việc cam kết với Đài Loan. Điều này sẽ cắt bỏ điểm nóng rõ rệt và đang tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc, và làm hòa dịu quan hệ giữa hai bên trong nhiều thập kỷ tới. Những người phê bình chính sách này cho rằng làm như vậy, Mỹ và Đài Loan sẽ phải chịu nhiều tổn thất trực tiếp cũng như gián tiếp. Bắc Kinh sẽ không thỏa mãn với sự nhượng bộ như vậy, mà thay vào đó, nó sẽ thèm khát hơn, và sau đó sẽ đòi hỏi nhiều hơn… cổ vũ bởi sự kiện Washington để mất uy tín trong việc bảo vệ đồng minh. Sự phê bình này sai lầm, vì nhượng bộ lãnh thổ không luôn luôn là thua thiệt. Không phải mọi đối thủ đều thuộc loại Hitler – và khi họ không phải là Hitler, thích ứng có thể là một công cụ hữu hiệu. Khi đối thủ chỉ có một mục tiêu hạn chế về đòi hỏi lãnh thổ, nhượng bộ cho họ không phải sẽ dẫn tới những đòi hỏi khác, mà làm cho họ hài lòng với nguyên trạng mới, và làm giảm bớt căng thẳng.
Tuy nhiên, vấn đề chính là Trung Quốc có mục tiêu hạn chế hay vô hạn chế. Thực sự là Trung Quốc có nhiều bất đồng với các quốc gia lân bang, nhưng hiện nay có ít lý do để tin rằng họ đang có hay đang triển khai tham vọng lãnh thổ to lớn trong khu vực, hay ngoài khu vực. Nhượng bộ về Đài Loan có nguy cơ cổ vũ Trung Quốc theo đuổi chính sách đòi hỏi hơn nữa trong những vấn đề còn đang tranh cãi, kể cả quy chế những hải đảo và hải biên tại các biển Hoa Đông và Nam Hải (biển Đông của Việt Nam). Nhưng khi tính nguyên trạng quá rõ rệt, mối nguy hiểm uy tín Mỹ bị giảm sút khi bảo vệ các đồng minh, như trường hợp Hàn Quốc hay Nhật Bản, sẽ rất nhỏ. Nhất là khi bất cứ thay đổi chính sách nào về Đài Loan được đi theo những biện pháp đối phó, (ví dụ tuyên bố mới của Mỹ về cam kết với các đồng minh khác, sự tăng cường triển khai lực lượng tiền phương, và tăng cường tập trận chung và hợp tác công nghệ với đồng minh của Mỹ).
Liệu Mỹ có nên giảm bớt cam kết với Đài Loan là cả một vấn đề phức tạp. Nếu Mỹ quyết định thay đổi chính sách, một sự giảm bớt từ từ các cam kết là cách tốt nhất, để đối chọi lại một sự đổ vỡ nhanh chóng. Nhưng vì quan hệ Đài Loan – Trung Quốc đã cải thiện trong mấy năm qua, Washington có vẻ có nhiều thời gian và không gian để thẩm định và điều chỉnh chính sách khi tình hình khu vực và thế giới biến chuyển.
Điểm lớn hơn là mặc dù sự nổi lên của Trung Quốc sẽ tạo ra một số nguy cơ, sự chuyển dịch quyền lực không làm cho quyền lợi thiết yếu của Mỹ và của Trung Quốc đối chọi nhau. Các mối nguy cơ tiềm ẩn đã không làm tăng thêm sự đụng chạm quyền lợi giữa các đại cường. Sự đụng chạm này chỉ có thể giải quyết được bằng chiến tranh đại cường. Sự khó khăn trong việc bảo vệ một số quyền lợi thứ yếu của Mỹ đang tăng lên, đòi hỏi nước Mỹ phải đánh giá lại các cam kết đối ngoại.
Mối nguy hiểm của sự phóng đại
Sự phân tích của người duy thực về việc sự chuyển giao quyền lực xảy ra như thế nào, dựa trên giả định là các Nhà nước hiểu chính xác và đáp trả tình hình quốc tế mà họ phải đối phó. Sự lạc quan duy thực trong trường hợp này dựa trên giả định là các nhà lãnh đạo Mỹ đánh giá cao, và sẽ có khả năng hành động, độ cao bất thường về an ninh mà nước Mỹ đang được hưởng. Nếu các giả định này sai trật, và nếu nước Mỹ phóng đại mối đe dọa từ Trung Quốc, nguy cơ gây ra xung đột trong tương lai có thể lớn hơn. Chẳng may, có vài lý do để lo ngại là các giả định này thật ra là sai lầm.
Ví dụ, người bình dân tin là sự nổi lên của Trung Quốc sẽ đe dọa nặng nề lên an ninh của Mỹ, và sự tin tưởng này là một sự tiên tri tự thỏa mãn lấy nó. Nếu Washington không hiểu được khả năng quân sự đang tăng của Trung Quốc không đe dọa quyền lợi thiết yếu của Mỹ, họ có thể chọn lựa các chính sách đối ngoại cạnh tranh quân sự. Điều này lại báo hiệu cho Trung Quốc biết là Mỹ có ý đồ xấu. Nếu Trung Quốc cảm thấy ít an ninh hơn, họ có thể chọn lựa những chính sách cạnh tranh hơn, và điều này làm người Mỹ cho là đe dọa hơn. Kết quả là vòng xoáy tiêu cực không phải do tình hình quốc tế tạo ra, mà bởi vì sự bất an ninh đã bị phóng đại.
Hơn nữa, các Nhà nước đánh giá quá cao sự mất an ninh của họ, và không đánh giá chính xác khả năng quân sự dùng để tự vệ. Trước Thế chiến I, nước Đức đã phóng đại sự xâm lăng dễ dàng, và từ đó nghĩ là sức mạnh đang tăng của nước Nga đe dọa tới sự tồn tại của họ. Kết quả là nước Đức đã tung ra một cuộc chiến tranh ngăn chặn không cần thiết. Trong thời chiến tranh lạnh, nước Mỹ đã phóng đại sự đe dọa hạt nhân của Liên Xô, và không đánh giá được là những cải thiện to lớn của lực lượng Liên Xô đã để cho biện pháp răn đe của Mỹ được toàn vẹn. (Khả năng trả đũa hàng loạt của Mỹ) (4). Điều này không dẫn tới chiến tranh, nhưng nó đã tạo ra nguy cơ có một cuộc chiến tranh, và tạo ra những căng thẳng và những chi tiêu không cần thiết. Washington cần chú ý không phạm một lỗi lầm tương tự khi các lực lượng quy ước và hạt nhân của Trung Quốc tăng cao, và khi những đụng độ xung quanh các vấn đề thứ cấp làm cho quan hệ căng thẳng.
Cho tới nay, chưa thấy Mỹ có phản ứng thái quá đối với sự tăng gia mạnh mẽ sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Nhưng vẫn có khả năng tiềm ẩn về vấn đề này. Ví dụ, chiến lược An ninh Quốc gia hiện nay của Mỹ kêu gọi nước Mỹ duy trì tính hơn hẳn của các lực lượng quy ước, nhưng họ không nói rõ lãnh vực nào hay khả năng nào cần phải có. Trong tương lai trước mắt, Trung Quốc sẽ thiếu khả năng phô trương lực lượng nếu so với Mỹ, nhưng sự xây dựng quân sự của họ đã làm giảm khả năng chiến đấu của Mỹ tại các vùng phụ cận của họ. Điều này sớm muộn sẽ đặt ra vấn đề là tại sao Mỹ lại cần tới tính hơn hẳn về vũ khí quy ước, những nhiệm vụ cụ thể nào mà quân đội Mỹ không thể làm được nếu không có nó, và sự thiếu khả năng thực hiện các nhiệm vụ này sẽ có hại cho an ninh của Mỹ bao nhiêu ? Nếu không có câu trả lời rõ ràng, nước Mỹ có lẽ đánh giá quá cao hậu quả của sự tăng trưởng lực lượng quân sự của Trung Quốc.
Mối nguy hiểm do sự phóng đại mối đe dọa an ninh còn lớn hơn nữa trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân. Ban kiểm tra vị thế hạt nhân 2010 của chính quyền Obama nói rằng : “ Nước Mỹ và các quốc gia lân bang châu Á của Trung Quốc vẫn quan ngại về những nỗ lực canh tân của quân đội Trung Quốc hiện nay, cả về lượng lẫn chất, đối với kho vũ khí hạt nhân của họ ”. Tuy nhiên, Ban kiểm tra này (NPR- Nuclear Posture Review) không nói rõ sự canh tân quân sự của Trung Quốc sẽ tạo ra mối nguy hiểm nào. Không có chút viễn ảnh nào là bất cứ sự canh tân nào trong tương lai trước mắt sẽ cho phép Trung Quốc phá hủy phần lớn lực lượng hạt nhân của Mỹ, và làm suy yếu khả năng trả đũa của Mỹ. Điều có ý nghĩa nhất trong sự canh tân này là làm mất lợi thế hạt nhân của Mỹ bằng cách cung cấp cho Trung Quốc một lực lượng sống sót lớn (nếu bị Mỹ tấn công phủ đầu). Từ đó, làm giảm bớt uy tín mối đe dọa của Mỹ đối với Trung Quốc là sẽ leo thang chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Báo cáo NPR nói rằng “ nước Mỹ phải tiếp tục duy trì quan hệ chiến lược ổn định với Nga và Trung Quốc ”, nhưng Trung Quốc luôn luôn thiếu loại lực lượng có thể cung cấp ổn định theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nếu nước Mỹ quyết định là an ninh của họ đòi hỏi duy trì lợi thế hạt nhân đối với Trung Quốc, họ sẽ phải đầu tư vào khả năng dùng để tiêu diệt các lực lượng hạt nhân mới của Trung Quốc. Loại hình chạy đua vũ trang này lại càng không cần thiết cho thời hiện tại, hơn là trong quá khứ. Nước Mỹ có thể duy trì khả năng răn đe ghê gớm ngay cả nếu Trung Quốc canh tân kho vũ khí của họ, và một chính sách cạnh tranh hạt nhân có thể làm giảm an ninh của Mỹ bằng cách ra hiệu cho Trung Quốc thấy là Mỹ ác cảm với Trung Quốc, từ đó làm tăng sự mất an ninh của Trung Quốc và làm tổn hại đến quan hệ Trung-Mỹ.
Không có vấn đề là sự xây dựng quân sự quy ước và hạt nhân của Trung Quốc sẽ làm giảm khả năng mà Mỹ muốn duy trì. Nhưng nước Mỹ không nên vội vã gán ghép động cơ xấu cho sự xây dựng quân sự này, mà nên nghĩ là có khả năng nó chỉ giản dị phản ánh ý muốn hợp pháp của Trung Quốc muốn tăng cường an ninh của họ. Khi Donald Rumsfeld còn làm Bộ trưởng quốc phòng, ông đã nói về việc Trung Quốc tăng cao chi tiêu quốc phòng : “ Vì không quốc gia nào đe dọa Trung Quốc, người ta tự hỏi : “ Tại sao lại đầu tư cao như vậy ? Tại sao lại tiếp tục mua vũ khí nhiều như vậy ? ”. Câu trả lời quá rõ rệt. Nếu Trung Quốc có khả năng cho một nhóm mẫu hạm chiến đấu hoạt động gần bờ biển Mỹ và tấn công vào đất nước Mỹ với những máy bay dội bom đường dài, Washington sẽ muốn có đủ sức ngăn chặn khả năng này ; và nếu nước Mỹ có một lực lượng hạt nhân dễ bị thương tổn và nhỏ như lực lượng của Trung Quốc (hiện nay vào khoảng 1/10 – 1/100 lực lượng của Mỹ), nước Mỹ sẽ cố gắng đuổi theo ngay khi nguồn lực cho phép. Những hoạt động này không bị thúc đẩy bởi một kế hoạch xấu xa nào để thống trị thế giới. Và cho tới nay có nhiều lý do mạnh mẽ để tin rằng chuyện này cũng đúng đối với Trung Quốc.
Tóm lại, sự nổi lên của Trung Quốc có thể là hòa bình, nhưng kết quả này chưa hoàn toàn được bảo đảm, ngược lại với lý luận của những người duy thực tiểu chuẩn, áp lực cơ bản do hệ thống quốc tế gây ra không nhất thiết ép buộc Mỹ và Trung Quốc phải xung đột với nhau. Vũ khí hạt nhân, cách xa nhau bằng Thái Bình Dương, và quan hệ chính trị hiện nay tương đối tốt, sẽ giúp hai quốc gia này duy trì một mức độ an ninh cao, và tránh được những chính sách bảo vệ đồng minh ở Đông Bắc Á, tuy có chút phức tạp, nhưng có cơ sở để tin tưởng là Mỹ mở rộng chính sách răn đe qua Hàn Quốc và Nhật Bản, những đối tác khu vực quan trọng nhất của Mỹ. Sự thử thách đối với Mỹ sẽ xảy ra khi họ điều chỉnh chính sách trong tình hình nếu quyền lợi thứ yếu của họ (ví dụ như Đài Loan) có gây ra vấn đề, và khi cần phải đảm bảo là nước Mỹ không phóng đại mối nguy cơ do khả năng quân sự gia tăng của Trung Quốc gây ra.
Chú thích :
(1) Song đề về an ninh (security dilemma): Trong một thế giới vắng bóng một quyền lực siêu quốc gia, có khả năng bó buộc các quốc gia tuân thủ theo luật lệ định sẵn. Khi quyền lợi va chạm, một quốc gia muốn tăng cường khả năng phòng vệ của mình bằng một loại vũ khí hay chiến lược nào đó, để giúp họ có cảm giác được an toàn hơn. Nhưng quốc gia đối thủ lại không nghĩ như vậy, mà cho là quốc gia kia muốn tấn công mình, cho nên lại tìm biện pháp tăng cường vũ trang. Kết quả là quốc gia đầu tiên sẽ thấy an ninh bị suy giảm.
Ví dụ: Trung Quốc muốn xây hàng không mẫu hạm để bảo vệ an ninh hàng hải của họ. Nhưng Hoa Kỳ lại sợ những chiến hạm này sẽ được sử dụng để tấn công Mỹ, do đó, Mỹ tăng cường thêm các loại vũ khí khác, và như thế làm cho Trung Quốc mất an ninh hơn. Vòng xoáy chôn ốc chạy đua vũ trang được khởi động.
Trong khoa học chính trị, hiện tượng song đề tù nhân thường được dùng để minh hoạ vấn đề hai quốc gia đang tham gia trong một cuộc chạy đua vũ khí. Cả hai đều lý luận rằng họ có hai lựa chọn, một là tăng tiến quân sự hay hai là thoả thuận cắt giảm vũ khí. Nhưng không nước nào có thể chắc chắn rằng nước kia sẽ tuân theo thoả thuận ; vì thế, cả hai đều bỏ tiền ra để tăng số vũ khí. Tuy hai nước đều hành động theo suy luận có lý, nhưng kết quả lại là vô lý.
(1B) Duy thực cơ cấu: Người lý luận theo thưc tế của xã hội và của cơ cấu đời sống quốc tế.
Trong quan hệ quốc tế, như Kenneth Waltz đã viết, (1979), “ cơ cấu quốc tế hoạt động như một hạn chế cho cách hành xử của một nhà nước nào đó. Chỉ những nhà nước nào tuân thủ những hạn chế này mới có thể tồn tại ”. Tương tự như trong mô hình kinh tế vi mô : Công ty nào muốn tồn tại phải định giá cả và số lượng sản phẩm theo nhu cầu của thị trường (neo-realism hay structural realism).
(2) Quyền lợi thiết yếu của Mỹ : Ví dụ an ninh của nước Mỹ, hay các đường biển chuyên chở hàng hóa của Mỹ. Quyền lợi thứ yếu : Ví dụ như Đài Loan, không phải là một bộ phận của nước Mỹ. Mỹ có bổn phận phải bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ, nhưng chưa chắc dám hy sinh tiền bạc hay nhân sự để bảo vệ an ninh cho các đồng minh thứ yếu. Hiện nay Mỹ coi Nhật Bản, Hàn Quốc là quyền lợi thiết yếu của Mỹ tại châu Á.
(3) Quốc gia xét lại : Một quốc gia muốn xét lại hệ thống trật tự thế giới, tức là muốn lật đổ hệ thống hiện hành (hệ thống nguyên trạng – status quo), để thay bằng một hệ thống mới bảo vệ quyền lợi của quốc gia mới nổi.
(4) Phô trương sức mạnh (Power projection) : Có đủ sức mang quân đội tới những nước khác để gây chiến hoặc để biểu dương sức mạnh quân sự. Ví dụ Mỹ đủ sức mang quân qua châu Á, châu Âu…
(5) Vủ khí quy ước : Vũ khí sử dụng chất nổ truyến thống, không phải là vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Khác với vủ khí hạt nhân, sử dụng chất nổ là các phản ứng hạt nhân, có tác dụng hủy diệt hàng loạt. Một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, phải có đủ vũ khí để có thể đánh trả đũa đối phương, nếu bị đánh phủ đầu. Tức là có khả năng sống sót sau khi bị tấn công phủ đầu.
(6) Chính sách răn đe : sử dụng để đe dọa đối phương, làm cho đối phương sợ, không dám gây chiến tranh. Từ 1945, nước Mỹ đã sử dụng kho vũ khí hạt nhân của họ để răn đe các nước khác, không được tấn công vào Mỹ hay quyền lợi của Mỹ ở nước ngoài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét