Nhiều người cho rằng: “ Để thành công, những kiến thức chuyên nghành, tiếng anh, tin học, điểm số cao, bằng cấp là yếu tố quyết định. Vì thế, khi ngồi trên ghế giảng đường, họ chỉ tập trung nhiều vào học…học…và học. Một số khác lại nói rằng: “ Đại học cần khám phá và tìm hiểu tiềm năng, năng lực thực sự của bản thân là gì ? Cần cố gắng học hỏi, trau dồi và thực hành những kỹ năng quan trọng của cuộc sống như: Khám phá năng lực bản thân; Tư duy sáng tạo; Xác định mục tiêu, lập kế hoạch và quản lý thời gian; Kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm..; Kỹ năng giải quyết Stress, thư giãn, vượt qua khủng hoảng; Kỹ năng trong tình yêu và những kinh nghiệm trong cuộc sống…! Hãy đi tìm câu trả lời cho chính mình!
Kỹ năng là gì?
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng..để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống.
Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng, có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn 2 lý thuyết về: Phản xạ có điều kiện ( được hình thành trong thực tế cuộc sống cá nhân) và Phản xạ không điều kiện ( là những phản xạ tự nhiên mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra, trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, Kỹ năng làm việc nhóm…
Có những loại kỹ năng nào?
Người ta phân kỹ năng thành hai loại cơ bản là: Kỹ năng cứng và Kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng mà chúng ta có được do được đào tạo từ nhà trường hoặc tự học, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Kỹ năng mềm là loại kỹ năng mà chúng ta có được từ hoạt động thực tế cuộc sống hoặc thực tế nghề nghiệp. Kỹ năng mềm là loại kỹ năng vô cùng phong phú và quan trọng. Để thành công trong cuộc sống, chúng ta cần có hai loại kỹ năng cứng và kỹ năng mềm..cần phải vận dụng linh hoạt và phù hợp hai loại kỹ năng cơ bản này trong cuộc sống và công việc. Hiện nay, nhiều ý kiến khoa học cho rằng: Kỹ năng mềm quyết định 75% sự thành đạt.
Kỹ năng mềm là gì?
Kỹ năng "mềm" (soft skills) là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: Khám phá năng lực bản thân; Tư duy sáng tạo; Xác định mục tiêu, lập kế hoạch và quản lý thời gian; Kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm..; Kỹ năng giải quyết Stress, thư giãn, vượt qua khủng hoảng; Kỹ năng trong tình yêu và những kinh nghiệm trong cuộc sống..là những thứ thường không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Chúng quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.
Kỹ năng “mềm” liên quan tới tập hợp các đặc tính con người, thái độ xã hội, thói quen cá nhân, tính thân thiện, sự lạc quan, sử dụng ngôn ngữ.. mà dựa vào đó con người được đánh giá theo nhiều mức độ khác nhau.
Kỹ năng mềm thiên khá nhiều về yếu tố bẩm sinh, tuy nhiên phần lớn con người nếu chịu khó rèn luyện thì vẫn có thể nâng cao đáng kể kỹ năng của bản thân. Điều này thực sự cần thiết, bởi vì kỹ năng mềm là một trong những yếu tố quan trọng nhất đưa bạn đến thành công.
Kỹ năng cứng?
Kỹ năng “cứng” (hard skills) ở nghĩa trái ngược thường xuất hiện trên bản lý lịch, khả năng học vấn của bạn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn. Bạn nghĩ rằng người ta sẽ rất ấn tượng với hàng loạt các bằng cấp của bạn, một số lượng lớn các kinh nghiệm có giá trị và những mối quan hệ ở vị trí cao. Nhưng chỉ những điều đó thôi có thể không đủ để giúp bạn thăng tiến trong công việc. Bởi bên cạnh đó, bạn còn cần phải có cả những kỹ năng “mềm” vì thực tế cho thấy người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang bị. Chìa khóa dẫn đến thành công thực sự là bạn phải biết kết hợp cả hai loại kỹ năng này.
Kỹ năng cứng tạo tiền đề, và kỹ năng mềm tạo nên sự phát triển. Chính vì trong giáo dục của Việt Nam không coi trọng vào đào tạo kỹ năng mềm nên các bạn SV khi ra trường thường thiếu kinh nghiệm làm việc, cách giao tiếp, ứng xử và tác phong chuyên nghiệp.
Có những bạn năng động, tự tìm kiếm các cơ hội để học tập trau dồi các kĩ năng mềm cho bản thân, nhưng cũng có những bạn vì không biết tầm quan trọng của kĩ năng mềm nên chỉ nghĩ rằng học giỏi là đủ và chắc chắn cho một tấm vé khi vào đời. Bạn học giỏi chuyên môn, nhưng chưa chắc bạn có thể uyển chuyển trong các công việc, đó là bạn đã thiếu kĩ năng mềm. Bạn học không giỏi, nhưng bạn có thể làm được ra kết quả dù công việc có thay đổi sao đi nữa, đó là bạn có kĩ năng mềm.
Thực tế cho thấy người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang bị.
Hãy nhớ rằng, xã hội này là một xã hội thay đổi, cần sự uyển chuyển chứ không cần sự cứng nhắc. Và một điều nữa, tuỳ ngành nghề mà độ cân bằng giữa kỹ năng cứng và mềm có sự chênh lệch. Nếu như các ngành nghề thiên về xã hội thì cần nhiều về kĩ năng mềm hơn, trong khi các ngành nghề kỹ thuật cần nhiều kĩ năng cứng hơn. Nhưng để phát triển được nghề nghiệp của mình, thì không thể có sự chênh lệch quá lớn giữa cứng và mềm.
Làm thế nào để có kỹ năng?
Bản thân chúng ta sinh ra chưa có kỹ năng về một khía cạnh cụ thể nào ( trừ kỹ năng bẩm sinh), nhất là những kỹ năng trong cuộc sống. Đa số kỹ năng mà chúng ta có được và hữu ích với cuộc sống của chúng ta là xuất phát từ việc chúng ta được đào tạo. Và nền tảng của sự thành công trong cuộc sống là do 98% do được đào tạo và tự đào tạo rèn luyện kỹ năng, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh tham gia vào sự thành công của chúng ta.. Tất cả đều phải rèn luyện và nỗ lực không ngừng.
9 kỹ năng "mềm" cơ bản (Theo Sean Hawitt - Chuyên gia tư vấn nghề nghiệp ):
1. Có ý chí chiến thắng, có quan điểm lạc quan
Bạn có lạc quan, vui vẻ không? Bạn sẽ tạo được niềm sự thích thú và say mê công việc đó chứ?
- Tất cả chúng ta đã từng nghe lời khuyên hãy nhìn cốc nước còn đầy một nửa tốt hơn là nhìn nó đã vơi đi một nửa. Ở nơi làm việc, cách nghĩ lạc quan này có thể giúp bạn phát triển trên một chặng đường dài. Tất cả mọi cái nhìn lạc quan đều dẫn đến một thái độ lạc quan và có thể là một vốn quý trong môi trường làm việc, đánh bại thái độ yếm thế và bi quan.
- Chìa khóa để có một thái độ lạc quan là bạn giải quyết một sự trở ngại hay thách thức như thế nào khi gặp phải. Ví dụ, thay vì than phiền về khối lượng công việc gây stress, hãy nghĩ về nó như một cơ hội để thể hiện khả năng làm việc tích cực và hiệu quả của bạn.
2. Có tinh thần đồng đội, hòa đồng với tập thể
Bạn có khả năng làm việc tốt theo nhóm? Bạn đóng góp tích cực và đôi khi như kiêm vai trò là người lãnh đạo?
- Các nhà tuyển dụng rất thích những nhân viên thể hiện được khả năng làm việc tốt trong tập thể. Hòa đồng với tập thể không chỉ có nghĩa là có tính cộng tác mà còn thể hiện được khả năng lãnh đạo tốt khi có thời điểm thích hợp.
- Có thể tới một lúc nào đó, sự xung đột xuất hiện trong tập thể của bạn, hãy tỏ ra chủ động dàn xếp. Khi bạn thấy tập thể của mình đang bị sa lầy trong một dự án, hãy cố gắng xoay chuyển tình thế, đưa cách giải quyết theo một hướng khác. Và bạn làm gì nếu bình thường bạn không làm việc trong một nhóm? Hãy cố gắng tỏ ra sẵn sàng hợp tác trong công việc và thiết lập nên các mối quan hệ công việc với mọi đồng nghiệp nếu có thể. Học cách nói những điều bạn nghĩ như thế nào và thể hiện bằng ngôn ngữ cử chỉ ra sao.
3. Giao tiếp hiệu quả
Bạn có phải là người vừa biết nói chuyện, vừa biết lắng nghe? Bạn có thể chia sẻ những tình huống trong công việc và yêu cầu của mình với các đồng nghiệp, khách hàng… một cách tích cực và xây dựng.
- Kỹ năng giao tiếp tốt là một thế mạnh đối với bất cứ ai trong công việc. Giao tiếp là phương tiện cho phép bạn xây dựng cầu nối với đồng nghiệp, thuyết phục người khác chấp nhận ý kiến của bạn và bày tỏ được nhu cầu của bạn.
- Nhiều điều nhỏ nhặt bạn đã từng thực hiện hàng ngày - có thể có những điều bạn không từng nghĩ đến lại có một sự ảnh hưởng rất lớn tới kỹ năng giao tiếp của bạn. Sau đây là những điều bạn nên lưu ý khi giao tiếp với những người khác:
•Nhìn thẳng vào mắt người đối diện.
•Đừng tỏ ra bồn chồn.
•Tránh những chuyển động cơ thể khiến bạn bị tách ra khỏi họ.
•Đừng nói chuyện chỉ để nói, hãy tập trung vào một vấn đề.
•Phát âm một cách chính xác.
•Sử dụng ngữ pháp chuẩn thông thường.
- Nói chung, bạn nên để ý tới cách sử dụng từ ngữ của mình để tạo ấn tượng với người đối thoại. Cũng đừng quên rằng một trong những kỹ năng giao tiếp là biết lắng nghe.
4. Tự tin:
Bạn có thực sự tin rằng mình có thể làm được công việc này? Bạn có thể hiện thái độ bình tĩnh và tạo sự tự tin cho người khác? Bạn có khuyến khích được mọi người đặt các câu hỏi cần thiết để đóng góp ý kiến xây dựng?
- Trong hầu hết các trường hợp, khi bạn muốn gây ấn tượng với một ai đó, sự tự tin là một thái độ rất hiệu quả. Trong khi sự khiêm nhường khi bạn nhận được lời tán dương là rất quan trọng thì sự thừa nhận thế mạnh của mình cũng quan trọng không kém. Hãy tin chắc rằng bạn có sự nhận biết và kỹ năng để có thể bày tỏ được sự tự tin của mình.
5. Mài dũa kỹ năng sáng tạo
Bạn có thể thích nghi được với những tình huống và những thách thức mới? Bạn có sẵn sàng đón nhận những thay đổi và đưa ra những ý tưởng mới?
v - Tính sáng tạo và lối suy nghĩ thông minh được đánh giá cao ở bất cứ công việc nào. Thậm chí công việc mang tính kỹ thuật nhất cũng đòi hỏi khả năng suy nghĩ thoát ra khỏi khuôn khổ. Vì vậy đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của việc giải quyết vấn đề theo cách sáng tạo.
-Bạn có thể đang phải làm một công việc chán ngắt, buồn tẻ, hãy cố gắng khắc phục nó theo cách hiệu quả hơn. Khi một vấn đề khiến người ta phải miễn cưỡng bắt tay vào làm, hãy nghĩ ra một giải pháp sáng tạo hơn. Nếu không được, ít ra bạn đã từng thử nó.
6. Chấp nhận và học hỏi từ những lời phê bình
Bạn có thể biến những lời phê bình thành những kinh nghiệm và bài học cho bản thân? Bạn có thể học hỏi và tự phát triển để trở thành một người chuyên nghiệp?
- Đây là một trong những kỹ năng mang tính thử thách nhất, và cũng chính là kỹ năng gây ấn tượng nhất đối với người tuyển dụng. Khả năng ứng xử trước lời phê bình phản ánh rất nhiều về thái độ sẵn sàng cải thiện của bạn. Đồng thời có khả năng đánh giá, nhận xét mang tính xây dựng đối với công việc của những người khác cũng mang ý nghĩa quan trọng không kém. Hãy nhận thức xem bạn thủ thế như thế nào khi phản ứng trước những lời nhận xét tiêu cực. Đừng bao giờ ném đá vào những lời phê bình mang tính xây dựng mà không nhận thấy rằng ít nhất nó cũng có ích một phần. Khi bạn đưa ra lời nhận xét với người khác, hãy thể hiện sao cho thật khéo léo và chân thành. Cố gắng dự đoán trước phản ứng của người nghe dựa vào tính cách của họ để có cách nói phù hợp nhất.
7. Thúc đẩy bản thân và dẫn dắt người khác
- Một điều rất quan trọng đối với nhà tuyển dụng là làm sao để biết được bạn có là người năng động và hay đề ra các sáng kiến hay không? Điều này có nghĩa là bạn liên tục tìm ra những giải pháp mới cho công việc của mình khiến cho nó hấp dẫn hơn thậm chí đối với cả những công việc mang tính lặp đi lặp lại.
- Sự sáng tạo có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy, nó khiến bạn đủ dũng cảm để theo đuổi một ý tưởng vốn bị mắc kẹt trong suy nghĩ và cuối cùng là bạn vượt qua được nó. Dẫn dắt những người khác theo cùng một hướng để đạt một mục đích chung, và người lãnh đạo giỏi là người có thể lãnh đạo được người khác bằng chính tấm gương của mình.
8. Đa nhiệm vụ và xác định trước những việc cần làm
v Bạn năng động và sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề chắc chắn sẽ nảy sinh trong quá trình làm việc? Bạn sẽ đảm nhận giải quyết công việc hay "nhường phần" cho người khác?
- Ở công sở ngày nay, một nhân viên tốt là một nhân viên có khả năng kiêm nhiệm thêm một số công việc khác, hay nhiều dự án cùng một lúc. Liệu bạn có thể theo dõi được tiến trình của các dự án khác nhau hay không? Bạn có biết lựa chọn để ưu tiên những việc quan trọng nhất không? Nếu có thể, bạn được gọi là người đa năng.
- Đừng than phiền rằng bạn phải làm thêm các công việc khác. Hãy thể hiện khả năng đa kỹ năng của bạn. Chắc chắn cái bạn nhận lại sẽ là rất lớn như kinh nghiệm hay các mối quan hệ mới.
9. Có cái nhìn tổng quan
- Có cái nhìn tổng quan về công việc có nghĩa là có khả năng xác định được các yếu tố dẫn tới thành công. Điều này cũng có nghĩa là nhận ra các nguy cơ tiềm ẩn và thời điểm nó xảy ra. Ví dụ như bạn làm việc trong lĩnh vực quảng cáo và phải xây dựng một chiến dịch để quảng cáo cho một nhãn hiệu xà bông. Nếu nhìn một cách tổng thể, bạn có thể nhận thấy rằng mục đích không chỉ là bán được hàng, mà còn làm thỏa mãn và thuyết phục khách hàng về chất lượng sản phẩm. Thêm vào đó, bạn còn phải tạo thêm giá trị cho công ty của bạn bằng cách chứng minh rằng tính sáng tạo độc nhất chỉ bạn mới có thể tạo ra.
Lời kết:
Giáo dục của chúng ta ngày nay tập trung nhiều vào giảng dạy văn hóa, dạy logic, suy luận…mà bỏ qua những khía cạnh hoạt động tinh thần ( cảm xúc, tình cảm ), bỏ qua giáo dục cho mọi người một nền tảng sâu hơn về giá trị sống và kỹ năng sống. Giáo dục về giá trị sống? Để chúng ta biết thế nào là tôn trọng, yêu thương chính bản thân mình và những người khác. Ý thức được giá trị cốt lõi này, chúng ta sẽ trang bị nhận thức và bản lĩnh tốt hơn. Giáo dục về kỹ năng sống? Chúng ta sẽ có bản lĩnh, tự tin, chấp nhận và đương đầu với những khó khăn, thử thách, bão tố cuộc đời.
Nhiều người nghĩ rằng giá trị sống, kỹ năng sống là những điều rất căn bản mà ai cũng biết, chẳng hạn: Phải biết hòa đồng với tập thể, biết lắng nghe, biết giao tiếp, biết ra quyết định… Nhưng họ đã lầm, mấy ai quan tâm tới tầm quan trọng của những kỹ năng này, giữa biết và áp dụng chúng là hai chuyện khác nhau. Trên thực tế, ta có miệng không có nghĩa là ta nói được ngay, ta có tay không có nghĩa là biết viết. Tất cả đều phải rèn luyện và nỗ lực không ngừng!
Sưu tầm từ: http://www.hce.edu.vn/hsv/
_____________________________________
Tản mạn về tư duy phản biện
Ngày xửa ngày xưa, trong một thế giới 2d có một đôi bạn thân, đó là hình vuông và hình tròn. Một ngày kia hình tròn bỏ đi mà không nói lời từ biệt với hình vuông.
Hình vuông đau khổ vì sự ra đi của người bạn thân, nhưng bỗng một ngày hình cầu xuất hiện. Hình vuông vẫn giữ cái nhìn của thế giới 2d và nghĩ rằng hình cầu chính là hình tròn, người bạn thân của mình.
Ai là người mù?
Câu chuyện xảy ra vào mùa xuân năm ngoái, khi tôi quyết định tận dụng kì nghỉ sau kỳ học mùa xuân của mình ở quê và gặp được một anh Tây có khả năng chém tiếng Việt ở level bá đạo. Và dưới đây là trích đoạn cuộc nói chuyện của hai anh em:
- Em chắc đã nghe kể về câu chuyện thầy mù xem voi rồi.
- Anh đang nói về chuyện 5 hay 6 ông thầy mù đi sờ voi và mỗi ông kết luận một kiểu phải không?
- Ừ, về cá nhân anh rất thích câu truyện cổ này của Việt Nam, em nghĩ sao về nó?
- Theo em, nó dạy ta phải có cái nhìn tổng quan trên nhiều mặt để có được kết luận chính xác nhất, giống như trong câu chuyện con voi đầy đủ là tập hợp của tất cả các bộ phận mà mấy ông mù đó sờ thấy. Ngoài ra phải biết bỏ qua những định kiến thì mới có thể thoát ra được cái nhìn thiển cận của cá nhân.
- Vậy sao? Thế làm sao em nghĩ mấy ông mù không thể thấy tất cả toàn diện của một con voi và sao em biết em đã nhìn ra tổng thể của con voi?
- Thế này nhé, các ông ấy có bốn giác quan, em có năm giác quan, nhiều hơn các ông ấy đôi mắt. Nên em nhìn thấy toàn bộ con voi, còn các ông ấy thì không. Hiểu rồi, vậy là khi có một sinh vật phát triển hơn chúng ta và nó có 6 giác quan thì nó sẽ “nhìn” ra con voi đầy đủ hơn chúng ta?
- …
Và đó là bài học đầu tiên của tôi về thứ được gọi là “tư duy phản biện”. Tôi không có những trải nghiệm phong phú như anh bạn ngoại quốc, không phải một chuyên gia nghiên cứu hay đơn giản chưa thể gọi là một cá nhân có tư duy phản biện sắc bén. Nhưng nếu bạn hỏi tôi về tư duy phản biện, ít ra trên khía cạnh cá nhân tôi sẽ nói với bạn đó là một khả năng quan sát một sự vật, sự việc hay lĩnh vực dưới nhiều khía cạnh khác nhau để có thể bao quát hơn và hiểu rõ hơn về vấn đề. Nếu không có điều gì tuyệt đối có thể tồn tại, thì cũng không có đúng nhất, chuẩn xác nhất, chính xác nhất, vì nếu có thì khi đạt được đến “cảnh giới” đó rồichúng ta sẽ không cần mất công đặt ra những câu hỏi, mất công tìm kiếm, học hỏi, nghiên cứu và phát triển. Đơn giản vì chúng ta đã phát triển đến đẳng cấp gọi là “nhất” rồi.
Vậy tại sao lại cần phản biện?
“Một kỹ năng có thể thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội mà một công dân chân chính cần có”.
Nhà tôi có rất nhiều ô tô, rồi quần áo đủ loại, máy móc đủ thứ, thậm chí là la liệt máy bay. Tất cả đều nhờ đôi tay của em trai tôi, mỗi lần về nhà là lại nghe mẹ với cô phàn nàn, kêu nó dẹp cái đống lộn xộn nó bày ra, nhưng tôi với ông lại rất hứng thú với bộ sưu tập của thằng em. Tôi nhớ ngày trước thằng em tôi là một đứa rất biết nghe lời. Chẳng hiểu sao một ngày nó lấy cái kéo của ông và cho ra lò chiếc xe đầu tiên từ một chiếc lá si dài cùng lắm chỉ bằng ngón trỏ của tôi. Thế là từ đấy trở đi mẹ nói không nghe, cô đe không được. Giờ thì “bệnh” của nó nặng hơn, không cây cảnh nào trong vườn của ông thoát được trừ mấy cây hoa mẹ trồng, hết cắt rồi lại chuyển sang vẽ, nhưng khổ nỗi nếu nó chỉ vẽ trên giấy đã may. Đằng này cả con chó Bill cũng vằn vẹo như con chó lai hổ. Đồ đạc đủ mọi hình khối màu sắc, nhiều nơi khiến tôi có cảm tưởng đây là khu vực sinh sống của thổ dân da đỏ.
Bạn có nghĩ rằng đó là một sự khác biệt lớn? Dù sao em tôi vẫn giữ được những thứ tôi đã đánh mất. Tôi không có nhiều hứng thú đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm sự khác biệt dưới mọi góc nhìn, mọi khía cạnh khác nhau của sự vật như thời còn “trẻ trâu”. Chính sự phản biện là nguồn lực lớn nhất thôi thúc chúng ta phải tìm kiếm, phải hoài nghi, giữ cho mỗi chúng ta ham muốn được học hỏi khám phá những điều mà chúng ta quan tâm. Và đó chính là sức mạnh lớn nhất của tư duy phản biện.
Áp dụng tư duy phản biện
Tôi còn nhớ một câu chuyện về nhà sáng chế tài ba lỗi lạc trong lịch sử, đó là Thomas Edison. Ông đã thất bại 2000 lần trước khi chế tạo ra chiếc bóng đèn điện. Khi được hỏi,ông đã nói rằng mình đã tìm ra 2000 cách khác nhau để tạo ra chiếc bóng đèn. Bằng cách nào mà 1999 lần trước Edison biết rằng đây chưa thực sự là chiếc bóng đèn sáng nhất, bởi vì không tồn tại chiếc bóng đèn tốt nhất, sáng nhất.
Bạn có bao giờ tự đặt ra cho mình những câu hỏi đại loại như “Có những cách làm nào khác, làm thế nào để tốt hơn nữa?”.
Muốn áp dụng được tư duy phản biện, bạn không thể không trang bị cho mình những câu hỏi phản biện. Dưới đây là một số câu hỏi bạn có thể áp dụng trong quá trình phản biện hay tự phản biện, lưu ý đây chỉ là những câu hỏi phổ thông nhất và không thể sử dụng cho tất cả mọi tình huống.
- Tại sao lại đưa ra được kết luận đó?
- Dựa vào đâu mà bạn có khẳng định điều đó?
- Bạn lấy thông tin này từ đâu?
- Tại sao điều này lại quan trọng?
- Điều gì có thể giải thích cho hiện tượng này?
- Còn những phương án nào khác, làm thế nào để tốt hơn nữa?
Hãy thường xuyên rèn luyện kỹ năng phản biện và đừng quên áp dụng đúng câu hỏi vào đúng lúc, đúng chỗ, đúng tình huống bạn nhé.
________________________________
copy fb Viet Hung
"Những con mèo hoang bắt chước chúa sơn lâm hay là sự bắt chước ngu ngốc tinh thần phê bình và luận chiến của Marx"
Một số thành phần tân Marxist, tự hào rằng mình giống Marx, phê phán và công kích cá nhân không khoan nhượng, thực ra là sự hèn kém trong lý luận, sự yếu đuối trong logic, và sự thất bại trong nhân cách và trong phê phán chân chính.
Marx, con sư tử của tư duy phê phán thực hành, dưới con mắt làng xã của trẻ trâu trí thức Việt Nam, đã trở thành mẫu hình nguỵ biện cho thói chửi bới đặc sệt làng xã của một nền văn minh và trí thức kém phát triển.
Những phê bình của Marx hùng hồn đanh thép, xác đáng đến đâu thì những trí thức trẻ trâu Việt Nam cánh tả lại thô lỗ, bậy bạ và nguỵ biện bấy nhiêu. Một bên là biển cả dậy sóng, một bên là miệng cống tuôn trào của sự thô bỉ, thói hống hách ngông cuồng, sự ngạo mạn ngu dốt.
Marx không lôi những nguỵ biện như nguỵ biện từ thẩm quyền , như đọc chưa mà bàn. Nhưng các trẻ trâu tân Marxist thì rất khoái chủ nghĩa khoe sách đã đọc này.
Tôi vẫn thích Marx và các luận chiến của Marx mà tôi đọc được đến ít nhất 70%, nhưng còn thói công kích cá nhân đến tởm lợm của những hậu thế bắt chước, thì 100% bài bác,có nghe thì cũng chẳng khác nào nghe chửi nhau mua vui.
Engels, rất khiêm tốn: nói rằng hậu thế sẽ chỉ trích chúng ta hơn chúng ta chỉ trích các tiền bối, đôi khi với một thái độ khá khinh miệt. Ông đã đúng với độ khinh miệt tăng dần đều của một bộ phận hậu thế, nhưng hậu thế, thích chỉ trích hơn là là tự chỉ trích, tự nhấn chìm mình vào một loại phê phán mang tính phê phán của Bauer, mà Marx đã phê phán.
Và rốt cuộc, cún con vẫn là cún con, không biến thành sư tử được :"D
Những phê bình của Marx hùng hồn đanh thép, xác đáng đến đâu thì những trí thức trẻ trâu Việt Nam cánh tả lại thô lỗ, bậy bạ và nguỵ biện bấy nhiêu. Một bên là biển cả dậy sóng, một bên là miệng cống tuôn trào của sự thô bỉ, thói hống hách ngông cuồng, sự ngạo mạn ngu dốt.
Marx không lôi những nguỵ biện như nguỵ biện từ thẩm quyền , như đọc chưa mà bàn. Nhưng các trẻ trâu tân Marxist thì rất khoái chủ nghĩa khoe sách đã đọc này.
Tôi vẫn thích Marx và các luận chiến của Marx mà tôi đọc được đến ít nhất 70%, nhưng còn thói công kích cá nhân đến tởm lợm của những hậu thế bắt chước, thì 100% bài bác,có nghe thì cũng chẳng khác nào nghe chửi nhau mua vui.
Engels, rất khiêm tốn: nói rằng hậu thế sẽ chỉ trích chúng ta hơn chúng ta chỉ trích các tiền bối, đôi khi với một thái độ khá khinh miệt. Ông đã đúng với độ khinh miệt tăng dần đều của một bộ phận hậu thế, nhưng hậu thế, thích chỉ trích hơn là là tự chỉ trích, tự nhấn chìm mình vào một loại phê phán mang tính phê phán của Bauer, mà Marx đã phê phán.
Và rốt cuộc, cún con vẫn là cún con, không biến thành sư tử được :"D
_______________________________
KỶ LUẬT VÀ TỰ DO
Có thể thấy rất rõ, nếu chỉ biết tiếng Việt, ta chỉ có 1 lựa chọn là nói chuyện với 90 triệu người Việt Nam, nhưng nếu biết tiếng Anh ta có thể tự do nói chuyện, chia sẻ với vài tỷ người trên thế giới, đọc được nhiều sách hơn, cảm nhận được thế giới rộng rãi hơn. Chuyện sau khi học tiếng Anh mà ta vẫn chỉ thích nói tiếng Việt thì cũng không sao, đó là lựa chọn của ta, nhưng ít nhất ta đã tự do lựa chọn. Thế nên học là để trở thành người tự do, tự do trong các lựa chọn và trong các quyết định sống của mình. Người trí thức trong nghĩa này chính là những người đi tìm tự do, tự do tư tưởng, tự do sống.
Thế nhưng tự do có vấn đề gì không? Tại sao một số thì ủng hộ tự do, một số thì e dè với tự do? Có lẽ là do mối liên hệ giữa tự do và kỷ luật. Tự do thì không kỷ luật? và ngược lại kỷ luật thì mất tự do?
Tạm chưa trả lời hai câu hỏi này, hãy nhìn vào 1 ví dụ điển hình. Ta học piano để muốn được tự do chơi những bản nhạc mà mình yêu thích và đắm mình trong không gian âm nhạc. Để có được thành quả là cái tự do chơi nhạc, thì ta phải trải qua một quá trình học tập kỷ luật. Càng rèn luyện chăm chỉ, kỷ luật thì càng tự do. Những bước chân đầu tiên có vẻ như phần kỷ luật nhiều hơn, nhưng càng bước, càng trở thành thói quen thì kỷ luật trở thành niềm vui, trở thành tự do. Thế nên tự do và kỷ luật không hai, cũng chẳng một, ta không thể thích cái này mà ghét cái kia, ta hạnh phúc với cả hai.
Cũng như vậy, tập thể dục, sống lành mạnh, học chăm chỉ, yêu hớn hở, làm việc tích cực, luôn là sự song hành của tự do và kỷ luật. Thiếu vắng tự giác và nhận thức, kỷ luật là ghánh nặng, có được động lực đúng kỷ luật thăng hoa thành thành quả, thành tự do. Vậy hãy học, sống, yêu trong tự do một cách kỷ luật và kỷ luật một cách tự do. Người tự do!
_______________________________
"Như các bạn đều biết, học vấn không phải là việc chỉ có đọc và cứ đọc thật nhiều sách là đủ. Bản chất của học vấn phụ thuộc vào khả năng ứng dụng. Có học vấn mà không ứng dụng được vào cuộc sống thực tế thì chẳng khác gì vô học.
...
Nếu nhìn vào thực trạng giờ học ở các trường thành phố thì thấy học sinh có vẻ siêng năng học tập lắm, cứ đà này xem ra tất cả sẽ trở thành học giả. Nhưng nếu thu hết sách giáo khoa, vở chép của chúng, và “trò ở đâu trả về quê đấy” thì sự thể sẽ ra sao? Chắc là khi cha mẹ, bè bạn hỏi đến thì học sinh chỉ còn nước: “Học vấn để quên tại Tokyo mất rồi”.
...
Nếu nhìn vào thực trạng giờ học ở các trường thành phố thì thấy học sinh có vẻ siêng năng học tập lắm, cứ đà này xem ra tất cả sẽ trở thành học giả. Nhưng nếu thu hết sách giáo khoa, vở chép của chúng, và “trò ở đâu trả về quê đấy” thì sự thể sẽ ra sao? Chắc là khi cha mẹ, bè bạn hỏi đến thì học sinh chỉ còn nước: “Học vấn để quên tại Tokyo mất rồi”.
Theo như suy nghĩ của tôi, bản chất thực sự của học vấn là phải động não suy nghĩ, chứ không phải chỉ là đọc sách một cách đơn thuần. Và để ứng dụng sống động suy nghĩ đó vào cuộc sống thực tế thì cần phải biết trù tính, lo liệu. Tức là phải quan sát sự vật. Phải suy đoán đạo lý của sự vật. Phải đưa ra chính kiến, cách nghĩ cách làm của bản thân mình. Ngoài ra đương nhiên là còn phải đọc sách, phải viết sách. Phải nói lên ý kiến của mình cho người ta nghe. Phải tranh luận. Biết vận dụng tổng hợp các biện pháp như vậy thì mới được gọi là nghiên cứu học vấn.
Quan sát sự vật, suy luận, đọc sách là cách để tích luỹ tri thức.
Bàn bạc, tranh luận là cách để trao đổi tri thức.
Viết, diễn thuyết là cách để mở rộng tri thức."
Bàn bạc, tranh luận là cách để trao đổi tri thức.
Viết, diễn thuyết là cách để mở rộng tri thức."
"Kiến thức, hành động của con người, không phải cứ huyên thuyên lý luận viển vông, khó hiểu mới là cao.
...
Kiến thức, hành động của con người, không nhất thiết cứ phải có tri thức phong phú, nghe nhiều biết rộng sẽ được coi là uyên bác. Trên đời này, có không ít người, dù đã đọc cả chục ngàn cuốn sách, giao tiếp với đủ hạng người mà vẫn không có được kiến thức riêng cho bản thân.
...
Nói tóm lại, điều tôi muốn nói là kiến thức, phẩm hạnh của con người không thể trở nên thanh cao nếu chỉ có nói toàn lý luận cao xa, hoặc chỉ có nghe nhiều, biết rộng, mà không hành động gì cả."
...
Kiến thức, hành động của con người, không nhất thiết cứ phải có tri thức phong phú, nghe nhiều biết rộng sẽ được coi là uyên bác. Trên đời này, có không ít người, dù đã đọc cả chục ngàn cuốn sách, giao tiếp với đủ hạng người mà vẫn không có được kiến thức riêng cho bản thân.
...
Nói tóm lại, điều tôi muốn nói là kiến thức, phẩm hạnh của con người không thể trở nên thanh cao nếu chỉ có nói toàn lý luận cao xa, hoặc chỉ có nghe nhiều, biết rộng, mà không hành động gì cả."
"Những kẻ suốt dời chỉ biết học suông thì chí quá thấp."
__ Fukuzawa Yukichi
"Để nâng cao kiến thức và phản ánh điều đó trong hành động thì phải làm thế nào? Bí quyết là phải suy nghĩ, so sánh trạng thái của sự vật, nhắm tới giai đoạn phát triển cao hơn, kiên quyết không được tự thoả mãn. Tuy nhiên nếu chỉ lấy một yếu tố hay một hiện tượng để phân tích và so sánh thôi thì không đủ. Mà phải phân tích mọi “sở trường”, “sở đoản” của các yếu tố, các hiện tượng nằm trong tình thế, hình thái sự vật ở cả hai phía."
__ Fukuzawa Yukichi
"Nếu một người bắt đầu bằng một sự chắc chắn, anh ta sẽ kết thúc trong sự hoài nghi; nhưng nếu bắt đầu bằng nội dung nghi ngờ, anh ta sẽ kết thúc trong sự chắn chắn."
__ Francis Bacon
"Nếu con người tin tưởng sự vật một cách mù quáng thì sự giả dối, ngụy tạo sẽ tràn lan. Chân lý chỉ sinh ra từ sự hoài nghi... Tôi không nghĩ rằng chân lý được sinh ra từ tín ngưỡng. Một khi con người còn tin vào những điều không phải là sự thật thì thế giới ngụy tạo còn tồn tại mãi."
"Những tiến bộ của văn minh đểu ra đời từ sự phát hiện chân lý trong quá trình nghiên cứu mọi sự vật tự nhiên xung quanh ta. Nguyên nhân phát triển của nền văn minh phương Tây cũng xuất phát từ tinh thần hoài nghi. Galile tìm ra thuyết Trái đất quay quanh Mặt trời vì nghi ngờ thuyết Mặt trời quay quanh Trái đất. Newton tìm ra quy luật vạn vật hấp dẫn từ việc quan sát trái táo rơi. Watt phát minh ra máy hơi nước do để ý tới hơi khói bốc ra từ phích nước. Tất cả đều đạt tới chân lý xuất phát từ sự hoài nghi trước các hiện tượng, sự vật.
Và không phải chỉ có khoa học tự nhiên, những tiến bộ của khoa học xã hội cũng vậy. Từ chỗ hoài nghi chế độ chiếm hữu nô lệ, nên đã dề xuất Luật cấm buôn bán nô lệ. Và về sau, Thomas Clark đã chấm dứt thảm cảnh này. Hoài nghi về Công giáo Roma, Martin Luther đã thực hiện cải cách tôn giáo. Nhân dân Pháp vì căm giận sự bạo ngược của tầng lớp quý tộc nên đã làm cuộc cách mạng Pháp. Nhân dân mười ba bang Hoa Kỳ đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành độc lập vì hoài nghi những luật lệ của Anh quốc... Nước Anh với học thuyết mậu dịch tự do được cả giới kinh tế trên toàn cầu thừa nhận. Nhưng tại Hoa Kì, các học giả lại chủ trương học thuyết bảo hộ mậu dịch, thể hiện lập trường coi trọng việc nuôi dưỡng và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.
Tại phương Tây, cứ một học thuyết ra đời thì lại có học thuyết mới phản biện lại. Những cuộc tranh luận với các ý kiến, học thuyết khác nhau diễn ra liên tục không ngừng."
Và không phải chỉ có khoa học tự nhiên, những tiến bộ của khoa học xã hội cũng vậy. Từ chỗ hoài nghi chế độ chiếm hữu nô lệ, nên đã dề xuất Luật cấm buôn bán nô lệ. Và về sau, Thomas Clark đã chấm dứt thảm cảnh này. Hoài nghi về Công giáo Roma, Martin Luther đã thực hiện cải cách tôn giáo. Nhân dân Pháp vì căm giận sự bạo ngược của tầng lớp quý tộc nên đã làm cuộc cách mạng Pháp. Nhân dân mười ba bang Hoa Kỳ đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành độc lập vì hoài nghi những luật lệ của Anh quốc... Nước Anh với học thuyết mậu dịch tự do được cả giới kinh tế trên toàn cầu thừa nhận. Nhưng tại Hoa Kì, các học giả lại chủ trương học thuyết bảo hộ mậu dịch, thể hiện lập trường coi trọng việc nuôi dưỡng và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.
Tại phương Tây, cứ một học thuyết ra đời thì lại có học thuyết mới phản biện lại. Những cuộc tranh luận với các ý kiến, học thuyết khác nhau diễn ra liên tục không ngừng."
"...nếu không hoài nghi, không trăn trở đối với cách làm cũ đã diễn ra suốt bao năm qua thì sẽ không có cải cách và thay đổi."
__ Fukuzawa Yukichi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét