Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là thành tích cao nhất của tư tưởng cận đại trước Marx. Triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh, kinh tế học Anh, đó là ba nguồn gốc chính của chủ nghĩa Marx.
Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hegel
Marx lấy lại của Hegel phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ Marx thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong biện chứng pháp của Hegel đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Hegel đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hegel lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của tinh thần.
Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel lại nắm được cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu được điểm này thì cần phải xét đến nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel.
Nguồn gốc lịch sử chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel
Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức từ Kant; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong - hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.
Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan.
Trong bản đề án về Feuerbach[1] gồm 11 điểm, Marx viết rằng trong chủ nghĩa duy vật trước kia người ta chỉ nắm được vật chất về phần tĩnh của nó, tức là trong phạm vi nó được phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con người. Còn phần hoạt động thì chủ nghĩa duy vật cũ chưa nắm được. Vì vậy nó chỉ được đề cao trong phạm vi tinh thần, duy tâm. Nhưng tương đối với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc đề cao này cũng đã là một bước tiến bộ. Vì lao động tinh thần được nêu lên đó cũng phản ánh được phần nào phương thức sản xuất mới, và thực ra nó cũng bắt nguồn từ lao động thực sự.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.
Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte[2] đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.
Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái «tôi» và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).
Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.
Với Schelling[3], phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa. Phương pháp mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và bao gồm cả tự nhiên. Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự nhiên xuất phát là từ cùng một nguồn gốc: đó là «Tuyệt đối». Tự nhiên không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách quan không nằm trong chủ quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối.
Tư tưởng của Schelling đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ lung tung sau khi chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một cách lung tung.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó, và xây dựng một chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu cầu mới đó được phản ánh trong triết học của Hegel.
Triết học của Hegel vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn. Phương pháp của Hegel phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hegel lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là ở chỗ đó.
NỘI DUNG
TRIẾT HỌC HEGEL
Tác phẩm Hegel có 2 cuốn chủ yếu:
1. Hiện tượng luận của tinh thần
2. Luận lý học.
Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tượng của tinh thần và cuốn dưới nói về hệ thống phạm trù. Nhưng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu tượng như của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hegel không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được và trình bày theo quá trình biện chứng của nó, nhưng trước khi đi đến trình độ đó, phải thanh toán những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái niệm, chưa thực hiện lý luận triết học. Hegel phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hegel.
*
* *
Trong cuốn Hiện tượng luận của tinh thần (Phenomeno- logie des Geistes), Hegel phê phán mọi tư tưởng triết học trước đó, qua mọi hình thái ý thức theo quá trình biện chứng của nó cho đến luận lý học của Hegel, tức là biện chứng pháp duy tâm mà Hegel quan niệm.
Cuốn hiện tượng luận của tinh thần có tám chương:
Ch. 1 - Ý thức cảm giác
|
Ý thức nhằm đối tượng
|
Ch. 2 - Tri giác
| |
Ch. 3 - Trí tuệ
| |
Ch. 4 - Ý thức bản ngã
|
Ý thức bản ngã
|
Ch. 5 - Lý tính
|
Ý thức bản ngã phát triển
|
Ch. 6 - Tinh thần
| |
Ch. 7 - Tôn giáo
|
Ý thức bản ngã của tinh thần
|
Ch. 8 - Khoa học tuyệt đối
|
Chương I - Ý THỨC CẢM GIÁC
Ý thức cảm giác là cái ý thức nhằm cái trước mắt: cái này, ở đây, bây giờ. Theo ý tứ của nó thì nó nắm được thực tại tuyệt đối. Thường những chủ nghĩa chống triết học duy tâm dựa vào cái mà tôi nắm ở đây, bây giờ, để mà phê phán những lý luận cao siêu của các triết gia. Chúng ta phân tích nội dung thực tế của cái ý thức cảm giác ấy.
1 - Phân tích đối tượng của ý thức cảm giác:
Cái này, ở đây, bây giờ là cái gì? có nhắc đến thế giới không?
Xét theo nội dung thì nó luôn luôn biến chuyển vì thế «tôi» không nắm được gì hết. Thực tế, ta chỉ nắm được cái đại thể: lúc nào cũng là lúc bấy giờ, chỗ nào cũng là ở đây, cái gì cũng là cái này. Vậy ta không nắm được cái cá thể. Chủ nghĩa cảm giác có thể trả lời: Đối tượng biến chuyển luôn luôn, nhưng vẫn là tôi nắm nó.
2 - Xét cái tôi ấy là gì?
Tôi nhằm cái này. Cái tôi nhằm như vậy tưởng là vững chắc, nhưng bên cạnh có người khác cũng nhằm cái này, vì ai cũng là tôi cả nên tôi ấy vẫn là đại thể. Cho nên ý thức cảm giác cũng không căn cứ được vào cái tôi cá thể.
3 - Quan hệ giữa chủ quan và khách quan
Chủ quan cũng như khách quan không phải là cá thể. Vậy quan hệ giữa chủ quan và khách quan có phải là cá biệt không?
Phân tích quan hệ ấy trong cảm giác thì chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cái thái độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối tượng trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái đại thể. Khi tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút, v. v... Vậy quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.
Kết luận là ý thức cảm giác tưởng là nắm được một cá biệt rất là vững chắc. Nhưng thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhưng nó không nắm được cái mà nó phải nắm là cái đại thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác - chủ nghĩa kinh nghiệm - chống lại chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không do kinh nghiệm trực tiếp mà nắm được, mà phải do khái niệm mới nắm được. Hegel phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật.
Phê phán:
Lập luận này nổi tiếng vì nó thanh toán chủ nghĩa kinh nghiệm từ bên trong. Bước đầu thì công nhận nó, nhưng phân tích thì thấy nó tự mâu thuẫn với nó. Biện chứng pháp Hegel nêu mâu thuẫn nội tại trong khái niệm.
Nhưng nói rằng tôi không nắm được cái này, bây giờ, ở đây, thế thì giả sử rằng chúng ta đã có một ý thức hiểu biết cao hơn, cho phép chúng ta phê phán cảm giác.
Chính Hegel cũng phải nhận điều đó. Lập luận của Hegel là lộn ngược: cái trước đi sau, cái sau đi trước, nói rằng phải có cái đại thể rồi ta mới có cái cá thể. Nhưng làm sao ý thức tự nó cảm giác có thể tự phê phán được? Muốn phê phán thì phải có cái cao hơn ý thức cảm giác, vì tự nó thì ý thức cảm giác bao giờ nó cũng ở trong phạm vi cá thể. Ít nhất ta phải có cái khả năng định nghĩa rồi thì chúng ta mới biết cái này, ở đây, bây giờ là tất cả cái này, ở đây, bây giờ. Do đó chúng ta mới phê phán được. Hegel lại cho rằng chính cái ý thức cảm giác tự nó phê phán nó.
Đi sâu hơn trong lịch sử tinh thần, chúng ta đã có lúc chỉ có ý thức cảm giác. Đến lúc nào đó chúng ta mới nắm được đại thể. Từ ý thức cảm giác đến khái niệm đại thể, phải qua một quá trình. Trong đời sống động vật, con vật chỉ nắm được cái trước mắt thôi. Đến lúc có kỹ thuật sản xuất, chúng ta mới có một phương thức hoạt động nhất định được lặp lại nhiều lần, do đấy chúng ta nắm được cái đại thể. Đại thể đây căn bản là kỹ thuật sản xuất cũng có ý nghĩa đại thể.
Có kỹ thuật sản xuất mới có ngôn ngữ, tức là nội dung mình nói. Mỗi chữ là một ý nghĩa đại thể. Trong quá trình lịch sử của người ta có một biện chứng pháp thực tế, duy vật thông qua hành động vật chất của người ta, gây ra mâu thuẫn trong ý thức cảm giác đó, phải có mâu thuẫn trong thực tế. Hegel đã đảo ngược quá trình biện chứng duy vật thành quá trình duy tâm. Ông phản ánh một cách trừu tượng và hạn chế (giới hạn nó trong tinh thần) đảo ngược (đáng lẽ phải đi từ vật chất đến tinh thần thì lại đi từ tinh thần đến vật chất).
Chương II - TRI GIÁC
Ý thức cảm giác tự nó mâu thuẫn với nó. Tri giác là ý thức nắm đối tượng với thuộc tính đại thể của nó. Cái bàn với hình thể, màu sắc, trọng lượng. Những thuộc tính ấy định nghĩa cái nội dung thực tại của đối tượng khách quan. Trong tri giác tôi đã nắm được nội dung chân chính của đối tượng. Tôi đã định nghĩa được rồi. Nhưng phân tích cái nội dung ấy, chúng ta thấy có mâu thuẫn giữa thuộc tính với vật thể cá biệt. Nếu thực chất của nó là thuộc tính đại thể thì tôi không nắm được cái gì cá biệt cả. Ví dụ: Tôi nói cây này màu xanh, nhưng xanh này lại khác xanh của các vật khác.
Thành ra trong tri giác vẫn có mâu thuẫn, và do đó bước đầu phải trở lại cảm giác. Những thuộc tính lại trở lại cá biệt mà không phải là đại thể nữa. Nhưng trong cảm giác ấy lại có mầm mống để phát triển nội dung theo chân lý của nó. Là vì nếu chúng ta đặt thuộc tính ấy là thực tế khách quan. Nếu có gì thiếu sót thì ta cho nó là của chủ quan. Vì sai lầm chủ quan cho nên tưởng thuộc tính của nó lúc thế này lúc thế khác, nhưng khách quan thì vật thể có thuộc tính nhất định của nó. Nếu cho rằng sai lầm là chủ quan của ta, thì chúng ta đã đặt được chân lý ở vật thể tri giác. Nhưng mọi vật thể lại liên quan với nhau: nội dung chân chính của vật thể là do quan hệ của nó với vật khác. Quan hệ có thể hiểu biết được, quan hệ lý tính chứ không phải cái này, cái kia với những thuộc tính của nó. Mâu thuẫn đó đưa đến một hình thức cao hơn, tri giác, tức là trí tuệ có thể hiểu biết, tính toán ngoài cảm giác.
Phê phán:
Chương này là một lập luận chứng minh rằng chân lý không do cảm giác hay tri giác mà do trí tuệ. Nó nhằm đánh đổ chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật. Nhưng trong nội dung chân chính của nó có phải là nó đánh đổ duy vật không? Có phải tri giác trong quá trình mâu thuẫn tinh thần tự nó phủ định nó mà lên trí tuệ không? Sự thực Hegel đã phản ánh một sự thực. Trong lịch sử tinh thần một lúc nào đấy, người ta đã định nghĩa thực tế khách quan bằng những quan hệ toán lý. Bắt đầu từ văn hóa phục hưng, người ta đã không định nghĩa bằng thuộc tính tri giác mà bằng những quan hệ toán lý.
Sở dĩ khoa học cận đại đã phải định nghĩa thực tế khách quan bằng toán lý vì trong thực tế gặp nhiều mâu thuẫn. Nếu chỉ dựa vào thuộc tính thì không thể đi đến một hệ thống duy lý.
Hegel đã phản ánh một nội dung lịch sử có thật. Nhưng vì đâu có sự chuyển biến từ tri giác lên trí tuệ, bắt đầu thời khoa học phục hưng.
Những mâu thuẫn ấy không phải do tinh thần mà do thực tế biến chuyển của cơ sở sản xuất. Với tổ chức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những công trường thủ công, chính cái đối tượng là những vật liệu, những sản phẩm được sắp xếp theo những quan hệ của nó; tổ chức sản xuất không nhằm sản xuất một vật thể với thuộc tính này hay thuộc tính kia, nó phải phối hợp vật này hay vật kia trong một quá trình biến chuyển cơ giới.
Ví dụ như dệt vải: nếu theo kiểu thủ công, nó có những phường kéo sợi, phường nhúng sợi, chải sợi, nhuộm, dệt... Mỗi một phường ấy nhằm một sản phẩm nhất định, một số thuộc tính nhất định, chứ nó không nhằm quan hệ giữa các sản phẩm từ trình độ này lên trình độ khác. Trái lại, ở công trường nó có trải qua một số trạng thái kế tiếp nhau một cách duy lý. Quá trình sản xuất được theo những quan hệ giữa trạng thái này với trạng thái kia.
Vấn đề: từ dây thép đến cái đinh phải qua một số hình thái nhất định.
Chính sách sản xuất ấy cung cấp một hiểu biết theo trí tuệ. Đấy là nguồn gốc khoa học cận đại. Hegel phản ánh một cách trừu tượng quá trình sản xuất ấy. Do tính chất trừu tượng hẹp hòi nên ý nghĩa biện chứng pháp đã bị đảo ngược. Ý nghĩa đó là quá trình thay đổi vật chất quy định hình thái ý thức. Hegel chỉ thấy cuộc biến chuyển trong phạm vi tinh thần. Theo Hegel, nội dung chân chính chỉ là quan hệ trí tuệ phủ định vật chất. Nhưng trong biện chứng pháp Hegel có một hạt nhân duy lý tức là phương thức vận dụng mâu thuẫn, một nội dung căn bản duy vật mà Hegel xuyên tạc, duy tâm hóa.
Chương III - TRÍ TUỆ
Với trí tuệ, chúng ta nắm được chân lý cao, nhưng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy lại tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể hiểu biết được ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí tuệ, chúng ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một thế giới siêu giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính ngoài chúng ta.
Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhưng quan hệ toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý thức. Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta tưởng là ở ngoài ta.
Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tượng khách quan mâu thuẫn với nội dung đối tượng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan. Thế giới khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã, và chính thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hegel đã đi thêm một bước nữa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm.
Phê phán:
Lập luận biện chứng này là gì?
l) Thực tế trong lịch sử loài người, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế giới khách quan bằng toán lý. Nhưng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế giới vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần chủ quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhưng hoạt động tính toán của chúng ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong kinh nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính toán chỉ là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình lao động máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới vật chất.
2) Đến trình độ trí tuệ, Hegel nói chính đối tượng ý thức ấy là mình (ý thức biến thành ý thức bản ngã).
Điểm này cũng phản ánh một hiện tượng thực tế. Vì ý thức bản ngã là gì? làm sao mà tôi có ý thức bản ngã được.
Trong quá trình lịch sử, ý thức bản ngã phát triển với hoạt động sở hữu hóa. Tôi là tôi có của. Quá trình sở hữu hóa có thể cá thể hay tập thể. Thời thị tộc, tôi tức là tôi tập thể. Bản ngã có tính chất cá thể xuất hiện với chế độ sở hữu cá thể, tách biệt người này với người kia. Của của tôi không phải là của của anh. Quá trình sở hữu hóa tự phát đến chế độ tư bản mới có tính chất tự giác. Chính đấu tranh của giai cấp tư bản chống giai cấp phong kiến nhằm chế độ tư hữu mới, có ý thức, đấu tranh chống lại những đặc quyền của giai cấp phong kiến. Trái lại, đấu tranh của nô lệ chống chủ nô, hay phong kiến mới chống Nhà nước chủ nô cũ, không có ý thức rõ rệt về nội dung thực sự, tức là thay đổi chế độ sở hữu. Sở dĩ bọn tư bản có ý thức như vậy là vì lần đầu tiên có một tổ chức sản xuất mà người chỉ huy sản xuất có thể nắm được rõ rệt quá trình của nó. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một phương thức có ý thức, bọn tư bản tính toán quá trình sản xuất một cách chi tiết. Tất nhiên không phải là tính toán toàn bộ, họ chỉ trong phạm vi cục bộ tư hữu thôi, chứ không phải toàn bộ, cho nên sinh ra hẹp hòi, duy tâm, trừu tượng. Nhưng trong giới hạn ấy, nó có nắm được quá trình sản xuất. Trong giới hạn ấy, bọn tư bản nắm được hoạt động của con người theo hình thức kỹ thuật trừu tượng. Vì họ nắm được như vậy, cho nên ý thức sở hữu của họ rất rõ rệt.
Chính tổ chức sản xuất với cách vận dụng trí tuệ của nó gây ra ý thức sở hữu và cuộc đấu tranh giai cấp của tư bản chống phong kiến.
Hegel đã phản ánh quá trình này trong phạm vi tinh thần. Hegel nói: những mâu thuẫn của trí tuệ đưa đến ý thức bản ngã. Thực tế, nó là quá trình phương thức tư bản chủ nghĩa chuyển lên đấu tranh chống phong kiến, tranh giành quyền tư hữu tư bản chủ nghĩa. Nó là một quá trình thực tế trong lịch sử. Nhưng Hegel đã phản ánh một cách hẹp hòi nên kết luận lộn ngược: thế giới là chúng ta tức là không có thế giới, chỉ có chúng ta.
Triết học Hegel là duy tâm tuyệt đối, nhưng nó thông qua cả nội dung cụ thể của lịch sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản ánh lịch sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất hiện trong phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên.
Phương pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển theo mâu thuẫn là một phương pháp rất đúng mà Hegel đã vận dụng trong phạm vi duy tâm, một cách trái ngược, nhưng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã bị xuyên tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hegel lại quan niệm là quá trình phát sinh của ý thức tự ngã. Nhưng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy trong phạm vi tinh thần với những khái niệm trừu tượng, thực tế Hegel đã diễn tả những hình ảnh phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp tư bản.
Chương IV - Ý THỨC BẢN NGÃ (tức là tự ý thức, B.T)
Có thể nói đây là chương nổi tiếng nhất của quyển Hiện tượng luận tinh thần. Chương này được sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần:
Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã.
Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã.
Phần I gồm ba tiết:
1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn;
2 - Chiến đấu sống chết;
3 - Chủ nô và nô lệ.
Phần II gồm 3 tiết:
1 - Khắc kỷ;
2 - Hoài nghi;
3 - Tâm hồn gian khổ.
Phần thứ I phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình chuyển biến của chế độ nô lệ. Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ (tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do tính của con người. Theo Hegel, những người theo đạo Gia-tô là những người có tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ được cứu thế, nhưng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây nên đòi hỏi cứu thế. Hegel đã diễn tả quá trình lịch sử đó trong phạm vi tinh thần.
Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã
1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn
Biện chứng pháp của ý thức nhằm đối tượng đã đi tới chỗ nhận thấy rằng thế giới khách quan mà ý thức tưởng là có ngoài ta, thực ra cũng chỉ là ta. Đến trình độ trí tuệ, thế giới cũng chỉ là quan hệ toán lý do ý thức đặt ra, nó là một hệ thống quan hệ chủ quan có giá trị khách quan. Như thế, đối tượng khách quan cũng chính là mình thôi. Tức là ý thức chuyển lên ý thức bản ngã. Cái mà tôi trông thấy cũng là tôi thôi. Hình thức đơn giản nhất của ý thức bản ngã Hegel giới thiệu là lòng ham muốn. Trong lòng ham muốn, chúng ta phủ định đối tượng tức là cái mà ta ham muốn. Ham muốn cho là đối tượng độc lập ngoài mình là của mình, do đó mà mình đòi hỏi nó, đem nó hấp thụ vào mình. Lòng ham muốn phủ định vật thể bên ngoài. Đó là hình thức đơn giản nhất ở trình độ sinh vật của ý thức bản ngã. Ý thức bản ngã gặp đối tượng thì lại chỉ thấy mình. Nhưng trong lúc ý thức bản ngã phát triển với hình thức ham muốn, thì nó gặp mâu thuẫn ở chỗ một khi lòng ham muốn đã được thỏa mãn rồi thì lại ham muốn nữa, đối tượng khách quan bao giờ cũng tái lập. Vậy bản ngã, thực tế, không bao giờ phủ định được đối tượng khách quan như ý muốn. Trái lại, đối tượng khách quan cứ xuất hiện mãi, do đó mà lòng ham muốn cũng cứ kéo dài. Điều đó chứng tỏ lòng ham muốn không đủ để phủ định khách quan. Trong quá trình ham muốn chỉ có ý phủ định khách quan, nhưng thực tế không phủ định được nó. Mâu thuẫn đó chỉ giải quyết được bằng cách khách quan tự nó phủ định nó, nó công nhận nó không phải là nó, mà là mình. Ý thức bản ngã chỉ có thể được thỏa mãn bằng quá trình công nhận: ý thức bản ngã được ý thức bản ngã khác công nhận. Nói nôm na là hai người phải công nhận quyền sống của mỗi bên. Chỉ trong trường hợp hai bên công nhận lẫn nhau như thế mới thiết lập được một cách chân chính ý thức bản ngã, tức là sự tin tưởng ở mình. Tin tưởng ấy có thực hay không là do chỗ người ta có công nhận mình hay không. Quá trình được công nhận xuất hiện như thế nào? Nó xuất hiện trong cuộc chiến đấu sống chết.
2 - Chiến đấu sống chết
Theo Hegel, buổi đầu hai người gặp nhau, mỗi người tự tin tưởng ở mình và chỉ tin tưởng ở mình thôi, chưa bên nào công nhận bên nào cả. Lúc đó, bên này còn cho bên kia là một vật cần phải phủ định và tiêu diệt. Bên này tiêu diệt bên kia, vì nó chỉ trông thấy có nó. Trong khi tiêu diệt bên kia thì tự nó cũng phải chịu cái nguy hiểm là nó cũng có thể bị tiêu diệt, nghĩa là trong chiến đấu nó cũng có thể chết. Cuộc đấu tranh của đôi bên là đấu tranh vì muốn được công nhận. Mỗi bên phải tiêu diệt bên kia, đồng thời cũng có thể bị tiêu diệt. Có thế mới chứng minh rằng mình mới xứng đáng được công nhận. Nói một cách nôm na, cuộc đấu tranh đó là đấu tranh vì danh dự. Đấu tranh là đấu tranh sống chết, vì nó nhằm cái chết bên kia, đồng thời chứng minh rằng mình không sợ chết. Nhưng đây xuất hiện mâu thuẫn: nếu trong chiến đấu, một bên chết đi hoặc cả hai bên đều chết, thì không còn ai để công nhận, vì bên kia đã chết rồi. Hoặc nếu cả hai bên chết thì hết vấn đề. Đó là mâu thuẫn nội bộ mà bước đầu chỉ có thể giải quyết được bằng cách một bên này công nhận một bên kia. Bên được công nhận tập trung ý nghĩa của ý thức bản ngã, tức là ý nghĩa danh dự của con người. Bên được công nhận đó là chủ nô. Bên phải công nhận thì nhận phần vật chất, biến thành nô lệ. Như thế là phần tinh thần thì thuộc về chủ nô, phần vật chất thì thuộc về nô lệ. Nô lệ chịu làm nô lệ cho chủ nô là đã công nhận phần tinh thần của mình ở bên kia tức là bên chủ nô rồi. Còn bên chủ nô lệ là bên được công nhận thì sử dụng nô lệ như là vật thể của mình.
3 - Chủ nô và nô lệ
Biện chứng pháp của chủ nô là bộc lộ mâu thuẫn trong con người chủ nô. Đối với chủ nô, ý thức bản ngã là tinh thần, nó chỉ biết nó, nó coi vật thể tức thế giới vật chất như là của nó. Nó phủ định thế giới vật chất bằng cách sử dụng nô lệ, bắt nô lệ phải biến thế giới vật chất thành một thế giới cho nó có thể hưởng thụ được, tức là thông qua người nô lệ nó phủ định tính chất khách quan của thế giới vật chất trong quá trình hưởng thụ, làm cho vật thể không còn tính chất độc lập bên ngoài mà chỉ có trong phạm vi mình hưởng thụ nó. Xét bề ngoài thì như thế, nhưng xét bề trong thì cái gì cho phép chủ nô phủ định, hưởng thụ vật thể khách quan? Đó là công trình lao động của nô lệ. Nhờ công trình lao động ấy mà vật thể khách quan đã biến thành một vật thể cho chủ nô hưởng thụ. Chân lý là ở người nô lệ. Đó là nguyên nhân phủ định thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan thành vật thể hưởng thụ. Đó là chân lý của ý thức bản ngã của chủ nô. Tức sự hưởng thụ của chủ nô.
Về phía nô lệ, khi công nhận bên kia làm chủ thì đã bị mất tinh thần rồi. Tinh thần của mình đã chuyển sang chủ nô. Mình chỉ còn là vật thể dưới quyền sử dụng của tinh thần của chủ nô. Như thế cũng chỉ là bề ngoài, vì xét đến nội dung thực sự, thì chính trong lúc anh ta tưởng là mất tinh thần tức là mất quyền làm người của mình, thì thực tế anh ta đã run sợ, chứng tỏ có ý thức sâu sắc về ý thức bản ngã. Anh ấy là vật thể đương bị đe dọa. Vật thể đương bị đe dọa chính là anh ta, là mình. Ý thức bản ngã mà tự cảm thấy trong lúc run sợ lại được thành hình vững chắc trong công trình lao động, vì trong cương vị nô lệ anh ta chỉ lao động mà không được hưởng thụ. Trong công trình lao động ấy, anh ta đã tạo ra một con người mới, có quyền lực thực sự đối với giới vật chất. Quyền lực của chủ nô đối với vật chất chỉ là bề ngoài, vì phải thông qua lao động của nô lệ. Chỉ có nô lệ với công trình lao động thực sự của họ, họ mới có quyền thực tế đối với thế giới bên ngoài. Họ mất tinh thần, nhưng thực tế họ đã tự tạo một tinh thần có giá trị thực sự. Cái lý của hưởng thụ mà chủ nô tưởng là của nó, thì thực chất là của nô lệ, do lao động của họ gây nên.
Phê phán:
Đó là một biện chứng pháp được nhiều ảnh hưởng về mọi mặt. Biện chứng pháp này trong triết học Âu châu, ngoài phần sử dụng của Marx, bọn triết gia tư sản cũng đem sử dụng với mục đích khác.
Ta thấy Hegel có phân tích sâu sắc một quá trình diễn biến tư tưởng, phản ánh một quá trình lịch sử thực, tức là sự xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, và cuộc suy vong của giai cấp chủ nô, và thắng lợi cuối cùng của nô lệ, tuy rằng trong lịch sử, nó là thắng lợi hữu hạn. Cái thắng lợi đó là cái mà Hegel gọi là chân lý của ý thức chủ nô. Chủ nô tưởng là đã tập trung hết cả quyền lực vào mình, nhưng thực tế thì quyền lực là về bên nô lệ.
Chế độ nô lệ tự nó mâu thuẫn với nó, và tự nó phủ định nó. Nhưng trong lúc giới thiệu quá trình diễn biến trong phạm vi tinh thần, Hegel hoàn toàn không đếm xỉa gì đến cơ sở thực tế của nó. Hegel đã trình bày quá trình diễn biến một cách hoàn toàn trừu tượng, thành ra chỉ có trong tinh thần thôi. Do đó, Hegel không những không biết gì đến cơ sở thực tế, mà thực ra lại đảo lộn ý nghĩa chân chính trong tinh thần nữa. Lập luận của Hegel có một phần nói đúng, nhưng chính phần đúng đó cũng bị đảo ngược. Đảo ngược như thế nào?
l) Trước nhất, ở chỗ nói lòng ham muốn là biểu hiện của ý thức bản ngã phủ định vật thể bên ngoài, phủ định tính chất khách quan của vật thể, cho vật thể là của mình, là mình. Ở đây, Hegel có mô tả trạng thái ham muốn trong tinh thần. Trong lúc ham muốn, có thể cắt nghĩa là có phủ định tính chất khách quan của vật ta ham muốn, có lôi nó về mình, nhưng trạng thái đó ở đâu ra? Phải chăng là ở quá trình hoàn toàn duy tâm như Hegel trình bày? Thực tế, trước khi có lòng ham muốn thì cũng đã có kinh nghiệm hưởng thụ. Nếu chưa có thì làm sao có ham muốn được. Chỉ ham muốn cái đã từng hưởng thụ. Kinh nghiệm hưởng thụ, xét tới cùng, cũng là xuất phát từ một quá trình vật chất, một quá trình sinh lý. Từ quá trình sinh vật trong cơ thể, và trong những quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh, mới gây ra những kinh nghiệm hưởng thụ, mới biết cái gì là hưởng thụ được. Trong tinh thần, khi lòng ham muốn phủ định tính chất khách quan, độc lập của vật thể, cho nó là mình thôi, thì nó cũng chỉ là lặp lại một quá trình đã có trong thực tế. Khi đã có ham muốn thì mới phủ định tính chất khách quan của đối tượng ham muốn. Cái mà Hegel cho là cơ sở của chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ là sự phản ánh quá trình vật chất. Hegel vì không trông thấy cơ sở thực tế của ý thức ham muốn, thành ra đến lúc chuyển lên vấn đề công nhận thì cũng không làm sao thấy được những lý do thực tế đã đưa đến đó.
2) Hiện tượng chiến đấu sống chết thì có trong kinh nghiệm lịch sử thật. Chiến đấu vì muốn được công nhận. Vì muốn được công nhận thì phải tiêu diệt bên kia, và tự mình cũng nhận phần có thể bị tiêu diệt. Nhưng có phải chỉ vì muốn được công nhận trong ý thức bản ngã của mình mà hai bên tiêu diệt lẫn nhau, chiến đấu với nhau đến chết không? Trong tinh thần có trạng thái chiến đấu đó, nhưng nội dung thực tế có phải như thế không? Trong lịch sử ta thấy rằng:
Chiến đấu sống chết lúc đầu không phải là giữa hai cá nhân mà là giữa hai thị tộc với nhau. Ý thức danh dự đây là của tập thể, tức là của thị tộc. Chứ không phải của cá nhân. Cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ cơ sở sản xuất của thị tộc ấy. Nếu không có cơ sở sản xuất ấy, thì không hiểu vì đâu các thị tộc chiến đấu với nhau. Cuộc chiến đấu phát triển thì nó có ý thức chiến đấu sống chết, vì muốn được công nhận. Đó là quá trình duy tâm trong quá trình thực tế; nhưng thực chất của nó vẫn dựa trên cơ sở vật chất. Hegel vì đã tuyệt đối hóa một hiện tượng duy tâm, nên nói rằng hai bên phải tiêu diệt lẫn nhau, và nhận rằng mình cũng có thể bị tiêu diệt. Vì tuyệt đối hóa hiện tượng ấy nên Hegel đã đi tới đề cao chiến đấu vì chiến đấu, lấy chiến đấu sống chết làm điều kiện tất yếu của danh dự con người. Do đấy, sẽ cho rằng chiến tranh có một giá trị huyền bí; đã làm người là phải có chiến tranh; có chiến tranh mới có giá trị. Đây là một đoạn mà bọn phản động ở Pháp, Đức, Ý đã lợi dụng để tuyên truyền chiến tranh từ 100 năm lại nay.
3) Về nguồn gốc chế độ nô lệ, theo cách trình bày của Hegel, thì sở dĩ có chủ nô và nô lệ là vì cần được công nhận. Như thế thì bên được phải để cho bên kia sống để công nhận nó. Trong thực tế, sở dĩ bên thắng để cho bên bại sống làm nô lệ là vì trình độ sản xuất đã phát triển tới một mức nhất định. Nếu kỹ thuật chưa đến mức dùng nô lệ có lợi thì sẽ không có chuyện dùng nô lệ, mà tù binh bắt được hoặc bị giết đi, hoặc không bị giết thì được kết nạp trong thị tộc. Hegel đã bỏ qua hoàn toàn điều kiện bóc lột của chế độ chiếm hữu nô lệ, do đó đã duy tâm hóa tính chất bóc lột, cho rằng chủ nô đã tập trung phần tinh thần, và nô lệ thành vật thể của chủ nô. Hegel có mô tả những trạng thái tâm lý đã có trong chế độ nô lệ, như: coi nô lệ là vật thể, chỉ có chủ nô mới có tinh thần. Nhưng hiện tượng tâm lý đó là do chế độ áp bức bóc lột gây ra, chứ không phải chế độ áp bức bóc lột xuất hiện từ tinh thần ấy. Hegel đã lộn ngược vấn đề. Do đấy, đã bỏ qua cái quá trình đấu tranh giai cấp thực sự giữa chủ nô và nô lệ, bỏ qua những thủ đoạn áp bức bóc lột của bọn chủ nô, bỏ qua tinh thần chiến đấu và lịch sử chiến đấu của giai cấp nô lệ. Phần nội dung chân chính trong biện chứng pháp của Hegel là có trông thấy chân lý của hưởng thụ của chủ nô chính là do công trình lao động của nô lệ. Nhờ đó mà Hegel đã có ảnh hưởng. Nhưng Hegel lại trình bày phần chân chính đó một cách rất trừu tượng, tách rời khỏi quá trình đấu tranh tích cực của nô lệ chống chủ nô, chỉ trông thấy phần huấn luyện con người của giai cấp nô lệ. Do đó mà nói rằng chính công trình lao động trong cương vị nô lệ, tức quá trình lao động cưỡng bách, đã tạo ra con người mới có sức cải tạo thiên nhiên thực sự. Điều đó có phần đúng, nhưng trình bày trừu tượng như thế thì hình như chế độ nô lệ là một điều kiện tất yếu để tạo ra con người có tài năng thiết thực. Như thế là Hegel đã duy tâm hóa chế độ nô lệ, không biết rằng tuy trong lịch sử chế độ nô lệ có đóng vai trò tiến bộ trong một giai đoạn nào đó, nhưng đây chỉ là do điều kiện lịch sử, tức là sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. Chế độ nô lệ chỉ tiến bộ trong điều kiện lịch sử ấy, chứ không phải do sự cưỡng bách lao động mới tiến bộ, mới tạo ra con người có tài năng. Sở dĩ lao động lúc đầu tiên phải cưỡng bách, là vì có thế mới nâng cao mức lao động hơn cái mức ở chế độ thị tộc. Nhưng cưỡng bách nhất định không phải là một bản chất của lao động. Vì duy tâm hóa điều kiện lịch sử này, nên cho rằng cưỡng bách là một điều kiện để tạo ra con người có kỷ luật, có tài năng. Đấy là điểm rất sai của Hegel. Thực tế, ta đã thấy trong những điều kiện lịch sử khác, chế độ thị tộc có thể chuyển sang một chế độ không có áp bức bóc lột mà vẫn không phải thông qua chế độ nô lệ. Thực tế, không phải là phải có áp bức bóc lột người ta mới tạo cho con người có kỷ luật, tài năng. Lập luận của Hegel chính là di tích của quan niệm thống trị cũ. Bề ngoài, Hegel hình như có đề cao giai cấp mới, mà thực sự có đề cao thật, nhưng xét thực chất thì Hegel đề cao nó một cách rất trừu tượng, rất duy tâm. Hegel đã đề cao công trình lao động của nô lệ với hình thức cưỡng bách của nó, mà không phải đề cao công trình lao động của nô lệ trong phần chống cưỡng bách ấy. Lối đề cao của Hegel cũng tựa như một số người cho rằng có chế độ thực dân thì ta mới có một số kỹ thuật, mới học tập được một số kiến thức. Như thế là đã phê phán chế độ thực dân trong phạm vi chế độ thực dân. Đó là một sai lầm nguy hại. Chính Hegel vì đã đề cao công trình lao động nô lệ trong phạm vi nô lệ, trong cương vị người nô lệ, thành ra không có giải pháp thực tế. Nếu đã nhận giai cấp nô lệ là chân lý của giai cấp chủ nô, chủ nô có được cái gì là nhờ nô lệ cả, thì sẽ không thể duy trì được mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ. Nhưng Hegel không đi xa hơn kết luận tiêu cực ấy. Đến lúc cần một giải pháp tích cực, thì Hegel chỉ có thể đưa ra những giải pháp duy tâm của giai cấp chủ nô đã đề ra cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ, tức là khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ.
Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã
Nhờ công trình lao động của nô lệ, đời cổ đại đã xây dựng được một thế giới mới có tính chất nhân tạo, trong đó ý thức bản ngã có thể hưởng được tự do, nghĩa là lúc trông thấy vật thể bên ngoài, nhận thấy vật thể bên ngoài cũng là nó. Tự do là sống trong một thế giới mà mình tự nhận mình trong thế giới ấy, những vật thể trong thế giới ấy đã mất tính chất độc lập với ta mà là những vật thể của mình thôi. Sống trong thế giới ấy tức là hưởng được đời sống tự do, không bị cái gì đối lập, cưỡng bách mình. Hegel đã trình bày hình thức tự do đó trong phạm vi tinh thần, qua ba chủ nghĩa sau đây:
1 - Khắc kỷ (Stoicisme)
Theo chủ nghĩa khắc kỷ thì thế giới căn bản là lý tính, nghĩa là nó không phải cái gì ngoài mình mà là cái mình có thể và cần phải công nhận vì nó có lý và tốt. Tất cả những sự việc xảy ra, dù có một vài sự việc làm hại đến cá nhân một vài người chúng ta, nhưng xét đến toàn bộ thế giới thì nó là tốt. Nó tốt vì nó là ý chí của Thượng đế. Những người nhận thức được điểm đó tức là hiền nhân theo quan niệm chủ nghĩa khắc kỷ. Theo quan niệm đó, hiền nhân bao giờ cũng sung sướng vì họ sống trong một thế giới mà cái gì cũng tốt cả. Nhưng đây lại xuất hiện mâu thuẫn. Nói rằng cái gì cũng tốt cả có phần đúng, nhưng chỉ là hình thức thôi. Cụ thể, một việc tốt là một việc thế nào? Vì sao tốt? Chủ nghĩa khắc kỷ không trả lời được. Nó chỉ nói chung chung rằng thế giới là tốt, tốt là vì ý muốn của Thượng đế. Thứ tự do theo chủ nghĩa khắc kỷ chỉ là hình thức. Trước một sự việc khó khăn, hiền nhân theo chủ nghĩa khắc kỷ chỉ có cách là chịu đựng. Do đó, khắc kỷ có nghĩa là chịu đựng. Với thái độ khắc kỷ ấy, thực ra không thể thực hiện được một trình độ tự do thực sự. Nói là tự do nhưng thực tế là phải chịu đựng. Nó chỉ nói một cách chung chung rằng hiền nhân dù có chịu đựng tốn đến bao nhiêu chăng nữa cũng là sướng. Có hai vị tiền nhân nổi tiếng của chủ nghĩa khắc kỷ là Marc Aurele[4] thuộc giai cấp chủ nô, và Epictète[5] thuộc nô lệ. Hai ông đều được cho là sướng ngang nhau, nhưng nói thế chỉ là nói suông thôi, quyền tự do của ý thức bản ngã là nhận thấy trong mọi sự vật bản ngã của mình. Quyền tự do ấy phải được chứng minh cụ thể trong mọi sự việc, chứ không phải nói một cách chung chung như chủ nghĩa khắc kỷ được.
2 - Hoài nghi (Scepticisme)
Là chủ nghĩa phủ định tính chất khách quan độc lập của mọi sự việc để thực hiện quyền tự do của bản ngã. Nó thiết lập quyền ý thức bản ngã trong mọi sự việc khách quan. Chủ nghĩa hoài nghi phủ nhận hết tất cả. Cái gì nó cũng hoài nghi. Nhưng nó lại được sung sướng trong việc phủ định tất cả. Trong khi phủ định tất cả sự việc, tự nó lại có ý thức rằng nó không phụ thuộc sự việc nào, vì nó đã phủ định tất cả mọi việc. Ví dụ: nó phủ định các kiến thức, cho rằng những vật ta trông thấy chưa chắc đã có mà có thể chỉ là mơ mộng. Trong lúc phủ định vật thể như vậy, nó có ý thức rằng nó cao hơn tất cả. Nó có quyền phủ định giá trị của mọi nhân vật, không công nhận một giá trị của ai hết. Cho mình là cao hơn hết. Chính trong lúc phê phán, tự mình hưởng cái cảm tưởng rằng mình là cao nhất. Nhưng chính ở đây xuất hiện mâu thuẫn. Thực sự cái sung sướng mà chủ nghĩa hoài nghi hưởng được có thực không? Thực tế hoài nghi cũng không nắm được gì cả. Nó chỉ gây được một cảm tưởng chủ quan thôi, chứ không nắm được một chân lý nào hết.
Phê phán:
Trên đây là lập luận của Hegel. Lập luận đó có ưu điểm là phê phán bên trong, bộc lộ mâu thuẫn của mỗi chủ nghĩa, nhưng phê phán như thế chưa đủ. Nếu nói rằng tự do chủ nghĩa khắc kỷ là hình thức thì nó có phần đúng. Nó có phản ánh một hiện tượng có thực trong lịch sử: chủ nghĩa khắc kỷ chính là tiêu biểu cho những giai cấp thống trị cũ (gồm quý tộc và lái buôn chủ nô) trong giai đoạn chế độ nô lệ đã bị nguy cơ sâu sắc. Cương vị của những giai cấp chủ nô lung lay rất nhiều rồi. Cụ thể, rất nhiều chủ nô phải biến thành nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp hóa, tức là thời kỳ các thành thị Hy Lạp mất độc lập, phải phụ thuộc những đế quốc Hy Lạp hóa (sau cùng là đế quốc La Mã). Rất nhiều chủ nô ở thành thị Hy Lạp bị La Mã bắt về La Mã làm nô lệ. Nhưng trong cương vị nô lệ mới của họ, họ vẫn giữ cái kết quả đào tạo trước, nghĩa là người nô lệ mới này trước là chủ thì nay vẫn được phục vụ theo nghề chuyên môn của họ. Ví dụ giáo sư Hy Lạp, dù bị La Mã bắt về làm nô lệ, nhưng họ vẫn được làm nô lệ với nghề giáo sư. Do đó, trong thời đại ấy, ý thức của giai cấp chủ nô cũ đã được mở rộng, nghĩa là nó quan niệm rằng nó cũng có thể làm nô lệ được. Quan niệm đó được phản ánh trong chủ nghĩa khắc kỷ: dù nó có làm nô lệ, thì trong cương vị nô lệ ấy nó vẫn sướng. Đó là nguyên nhân mà chủ nghĩa khắc kỷ đề cao cương vị nô lệ, cho rằng hiền nhân dù ở cương vị nô lệ ấy nó vẫn sướng. Nhưng đó chỉ là cách duy trì cương vị cũ trong phạm vi tâm hồn. Thực tế, dù chủ nô cũ có bị làm nô lệ, thì tư tưởng vẫn là tư tưởng chủ nô. Nó vẫn tự cho mình là cương vị chủ nô. Cái tự do đầy thực tế là tự do hình thức như Hegel đã chứng minh. Nhưng phải nói rõ bản chất nó chính là tự do của chủ nô cũ.
Trong cách trình bày của Hegel, chủ nghĩa hoài nghi đứng về mặt khái niệm thì đối lập với chủ nghĩa khắc kỷ, nhưng yêu cầu căn bản chỉ là một. Đó là ý thức cho rằng thực chất đối tượng không phải là cái gì xa lạ đối với mình nữa, mà chỉ là mình đây. Nhu cầu đó xuất phát từ một cơ sở thực tế, nó phát triển ở một thời đại mà trình độ văn hóa đã khá cao: con người đã có thể cải tạo được thế giới tự nhiên, do đó thấy mình tự do trong thế giới khách quan ấy. Hegel cũng đã quan niệm được đó là do công trình lao động của giai cấp nô lệ. Nhưng xuất phát từ một biện chứng pháp duy tâm, Hegel cho chủ nghĩa hoài nghi là thực hiện yêu cầu của chủ nghĩa khắc kỷ: chủ nghĩa khắc kỷ tin tưởng ở chân lý một cách trừu tượng, không chứng minh trong chi tiết sự việc; thực chất khách quan là chứng minh trong chi tiết sự việc: thực chất khách quan là mình. Chủ nghĩa hoài nghi thực hiện được yêu cầu đó: trong lúc hoài nghi và phủ định mọi sự vật, nó tự đặt nó cao hơn mọi vật. Nhưng Hegel cũng không bộc lộ được nội dung thực sự của hiện tượng ấy. Khắc kỷ là ý thức của giai cấp chủ nô bị đe dọa nhưng vẫn đứng về phía chính quyền, tin tưởng rằng cái gì cũng tốt vì nó vẫn giữ được nốt phần quyền lợi cũ; nhưng đến lúc đó bị đe dọa hơn nữa, nó không thể đứng về phía chính quyền, thì nó lại khẳng định cương vị chủ nô cũ một cách tiêu cực: nó phủ định tất cả để đặt mình cao hơn tất cả những cái mà nó phủ định. Do chỗ Hegel chỉ phân tích trong tinh thần cho nên ông nhận định trái ngược giá trị của chủ nghĩa hoài nghi. Thực tế, trong lúc hoài nghi tất cả các giá trị cũ thì nó đã phủ định được các tư tưởng mê tín của giai cấp thống trị, do đấy đã giải phóng được tư tưởng một phần nào, tạo điều kiện xây dựng tư tưởng mới. Nó đã đại biểu được phần nào đấy, một cách gián tiếp, cho những phong trào chống chế độ chủ nô ở thời nô lệ tan rã. Hegel có công nhận sự tan rã của chế độ nô lệ, nhưng vẫn đứng về phe thống trị, vì ông trình bày rằng khi nó phủ định tất cả thì nó lại nắm được giá trị chân lý.
3 - Tâm hồn gian khổ
Phái hoài nghi đi từ lập trường nọ sang lập trường kia, đi từ tư tưởng cá thể phủ định từng sự việc linh tinh chuyển lên ý thức đại thể cho rằng mình nắm được tất cả, bao quát được tất cả. Nhưng xét nội dung thực sự thì chính cái đại thể ấy cũng chỉ là cá thể, vì khi phủ định hết sự việc nọ đến sự việc kia, thì nó phải phủ định cả nó nữa. Cho nên chính chủ thể cũng nằm trong những đối tượng bị phủ định, mặc dầu vẫn có cảm tưởng là mình nắm được tất cả. Cái mà Hegel gọi là kinh nghiệm của chủ nghĩa hoài nghi (là chính nó) cũng bị phủ định nốt (tôi phủ định giá trị của mọi người, nhưng tôi cũng chỉ là một người, vậy tôi cũng phủ định giá trị của tôi). Rút kinh nghiệm ấy ra, thì trong cùng một ý thức có hai điểm đối lập: một mặt là cá thể: cá nhân luôn luôn sai lầm, luôn luôn biến chuyển lúc thế nọ lúc thế kia; mặt khác là đại thể: trong khi phủ định thì nắm được tất cả. Vì không thống nhất được mâu thuẫn trong con người (cá thể và đại thể) gây ra một tâm trạng mà Hegel kêu bằng tâm hồn gian khổ. Cái đó Hegel nhằm tâm trạng của các tín đồ đạo Gia Tô luôn luôn thấy mình ở trên hai lập trường:
Lúc mình tự nhận là xấu, là có tội, thì đồng thời mình thông cảm được với Thượng đế, được cứu thế. Nhưng chỉ được cứu thế trong lúc có tội, nếu không thấy có tội thì không được cứu thế. Tư tưởng được cứu thế là tư tưởng có tội: hai tư tưởng luôn luôn khăng khít với nhau, nhưng không thống nhất với nhau. Đứng về mặt khái niệm, tâm trạng ấy được phát triển theo 3 điểm:
+ Mình vừa là cá thể, vừa là đại thể: mình tự nhận mình là cá thể nhưng có ý thức đại thể, nhưng đại thể ấy rất xa xôi đối với mình (Thượng đế). Mình không xứng đáng với Thượng đế, vì mình chỉ là cá nhân vô giá trị, mình có tội.
+ Trong lúc nhận mình có tội thì lại có ý thức về cái đại thể xa xôi ấy: mình tự nhận mình trong Thượng đế, Thượng đế cũng là ta đây: tức là Thượng đế đã giáng thế với hình thức chúa Gia tô.
+ Chúa giáng thế thành người cũng như ta, vậy chân lý đã là ta, ta cũng là chân lý; tức là được cứu thế.
Ba điểm trên nói tóm lại tương ứng với 3 mệnh đề của đạo Gia tô:
- Người có tội xa Thượng đế;
- Thượng đế giáng thế;
- Nhân loại được cứu thế.
Do quan hệ giữa đại thể và cá thể, tâm hồn gian khổ diễn biến theo ba giai đoạn:
- Lòng nhiệt tín (nhiệt tâm tin tưởng);
- Lao động và hưởng thụ;
- Tự phạt và cấm dục (cấm dục: cấm cái gì mà mình muốn).
a - Lòng nhiệt tín
Do cái quan hệ giữa người và thần: xa nhau nhưng gần nhau; chỉ gần nhau trong lúc xa nhau, trong lúc gần nhau lại xa nhau. Mình chỉ gần Thượng đế khi nào mình nhận thấy rằng mình có tội. Mà càng gần như thế thì lại càng thấy xa, tức là thấy mình không xứng đáng. Do mâu thuẫn nội bộ ấy, xuất hiện thái độ tin tưởng một cách tuyệt đối và nồng nàn. Tuy mình không có một nhận định chính xác về Thượng đế, nhưng tâm hồn hướng về Thượng đế (Hegel gọi là tư tưởng âm nhạc hay tiếng chuông trong tâm hồn). Trong lúc tâm hồn đi tìm Thượng đế thì nó gặp Thượng đế trong con người cụ thể của chúa Gia tô, thấy Thượng đế cũng là người, cũng như mình và tưởng mình được cứu thế. Nhưng Thượng đế là người thì phải chết, và thực tế chúa Gia tô đã chết và ta không thể nắm được Thượng đế. Chỉ còn có cách đi tìm mồ Thượng đế (phong trào Thập tự chinh thời Trung Cổ). Nhưng cái mồ chỉ là đống đất, vậy cuối cùng thì vẫn không thống nhất được với Thượng đế.
b - Lao động và hưởng thụ
Sau khi có kinh nghiệm rằng không thể thống nhất được với Thượng đế, ta thấy ta chỉ là người thôi. Nhưng con người này đã thông qua cái cảm tín rằng nó có giá trị chân lý, vì nó là người của Thượng đế. Nó thể hiện cái cảm tín trong lao động và hưởng thụ. Đến đây lại xuất hiện mâu thuẫn: nó thống trị thế giới bằng lao động và hưởng thụ, nhưng lại với cương vị là người của Thượng đế: nó công nhận sự thành công của nó trong quá trình lao động là do Thượng đế ban ơn (grâce divine). Mâu thuẫn này được giải quyết bằng thái độ thứ ba.
c - Tự phạt và cấm dục
Nó có lao động, nhưng do Thượng đế ban ơn. Công lao của nó là Thượng đế ban ơn, cho nên nó phải kìm hãm tư tưởng tự cao tự đại về thành tích của nó, bằng cách tự phạt và cấm dục để xứng đáng với ơn của Thượng đế.
Phê phán:
Ba thái độ ấy có thật trong quá trình phát triển đạo Gia tô, biểu lộ trong công trình kiến trúc văn nghệ v. v... Lòng nhiệt tín biểu hiện trong phong trào đi tìm mồ Chúa, bao tín đồ đã hy sinh của cải và tính mạng. Lao động hưởng thụ là công trình phát triển sản xuất tương đối trong thời kỳ Trung Cổ, gây cơ sở cho chủ nghĩa tư bản. Thái độ tự phạt và cấm dục cũng biểu hiện trong tác phong tôn giáo trong thời Trung Cổ. Hegel đã có công mô tả quá trình diễn biến trên một cách đặc biệt cụ thể và sâu sắc, nhưng chỉ mô tả trong tinh thần và một cách trái ngược. Mâu thuẫn trong con người của đạo Gia tô không phải xuất phát từ một biện chứng pháp trong tinh thần, từ ý thức hoài nghi lên ý thức nhiệt tín... Sự đấu tranh tư tưởng, giữa đại biểu của phái hoài nghi trong thời Cổ đại tan rã với phái tín ngưỡng Gia tô, là biểu hiện cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô cũ và những lớp sắp chuyển sang phong kiến có lôi cuốn nhân dân. Sự đấu tranh của giai cấp nô lệ biểu hiện gián tiếp trong tư tưởng tín ngưỡng của giai cấp địa chủ mới. Giai cấp nô lệ đấu tranh đã bắt đầu buộc chúng phải công nhận một số quyền lợi của người nô lệ. Ở thôn quê, nô lệ được giải phóng trở thành lệ nông[6]. Ở thành thị cũng có phong trào giải phóng nô lệ, vì bọn chủ không thể nuôi được, vì nuôi thì rất lộn xộn và không lợi gì cho chúng. Một mặt, chúng có giải phóng cho nô lệ, nhưng mặt khác, chúng lại đặt ra nhiều điều kiện: chúng bắt lệ nông nộp tô và phục dịch rất cực khổ. Do đó, quan hệ bóc lột người từ chỗ vô điều kiện chuyển sang chế độ bóc lột có điều kiện; nô lệ được công nhận giá trị làm người với hình thức ban ơn của chủ nô cũ, và để đáp lại sự ban ơn đó người lệ nông phải nộp tô. Đó là quá trình biến chuyển từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến: quan hệ bóc lột vô điều kiện của chủ nô đối với nô lệ nay thành một số quan hệ cá nhân: chủ và tớ, ban ơn và biết ơn. Quan hệ này có một phần nào tiến bộ so với quan hệ cũ, nhưng nó lại thiết lập một chế độ bóc lột mới, và có bóc lột theo lối mới thì mới có lợi.
Trong phạm vi tư tưởng, quan hệ bóc lột mới xuất hiện như thế nào? Quan hệ ban ơn tức là ý thức cho rằng người ta có giá trị chân lý, có quyền làm người. Quyền này lại xa xôi do ở đâu đưa đến chứ không phải là do lao động của nô lệ mà ra, mà là do chủ nô ban ơn. Con người là cá nhân vô giá trị không xứng đáng với đại thể, nhưng phần nào cũng nắm được cái đại thể (có ý thức đại thể) do ở chỗ Thượng đế đã giáng thế cứu thế nhân loại. Nhưng cũng không cứu thế đồng loạt, có người được cứu thế, có người không. Hegel không quan tâm đến cơ sở thực tế đó nên trình bày tâm hồn gian khổ một cách trừu tượng và trái ngược. Thực tế, cái đại thể xuất phát từ cái cá thể: do công trình lao động mà con người đã xây dựng nên cái ý thức giá trị về mình. Hegel lại cho nó xuất phát từ đại thể, do đấy mà cái cá thể không xứng đáng, cái đại thể lại rất xa xôi, tức là quyền lợi của giai cấp thống trị vẫn được bảo đảm. Hegel công nhận con người có lao động và có phát triển sản xuất, nhưng Hegel cho sở dĩ có là do có ý thức đại thể trong tâm hồn gian khổ mà lao động một cách tích cực như thế.
Do sự phát triển của sức sản xuất, ý thức bản ngã không thể nằm mãi trong tâm hồn gian khổ, vì nó có ý thức rằng nó nắm được thế giới. Hegel phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp từ cuối thời Trung Cổ của giai cấp tư sản đang lên chống phong kiến, đề cao giá trị con người mới. Hegel lại lật ngược vấn đề, biến thành một hiện tượng duy tâm, cho rằng sự tin tưởng ở con người mới là sự tin tưởng của ý thức bản ngã tự cho mình là thế giới. Cả một phong trào duy vật, nhân văn chủ nghĩa và cách mạng tư tưởng trong thời Phục hưng, Hegel biến thành một quá trình duy tâm: lý tính tin tưởng mình là thế giới đấy.
Chương V - Lý tính
Lý tính là ý thức bản ngã tin tưởng rằng mình là tất cả sự vật trong thế giới. Ở đây, tư tưởng duy tâm của Hegel lên đến cao độ: ý thức chủ quan nhận thấy mình trong tất cả sự vật.
Biện chứng pháp của lý tính thông qua 3 giai đoạn:
1 - Lý tính thực nghiệm,
2 - Lý tính thực tiễn gồm có 3 giai đoạn nhỏ:
a) Hưởng lạc và định mệnh;
b) Luật của lương tâm và tự cao điên cuồng;
c) Đạo đức và thời cuộc.
3 - Lý tính trong cái thực hiện của mình gồm có:
a) Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy;
b) Lý tính lập pháp;
c) Lý tính kiểm pháp.
Quá trình diễn biến của lý tính phản ánh quá trình đấu tranh giai cấp trong thời đại tư sản đang lên.
1 - Lý tính thực nghiệm (tiếp thu kinh nghiệm)
Lý tính thực nghiệm là ý thức tin tưởng mình là mọi sự vật, trong thế giới chỉ có mình thôi. Nó phát triển bằng tư tưởng thực nghiệm, tìm tòi mình trong tự nhiên, vì tin tưởng trong tự nhiên chỉ có mình. Do đó mà phát triển khoa học thực nghiệm.
Lòng tin tưởng của nhân loại vào mình đã thành lập trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, nhưng gặp mâu thuẫn khi chuyển lên vấn đề người: lúc nó đặt vấn đề con người là gì? tư tưởng là gì (tâm lý học)? Khoa học tự nhiên quan niệm người là một vật tự nhiên, nó là một bộ óc như vậy làm sao nó lại tư tưởng được (nó tự nhận nó trong vật ấy được). Do mâu thuẫn ấy, ý thức lý tính chuyển sang một lập trường mới: lý tính thực tiễn. Nó không thể nhận thấy nó trong tự nhiên, cho nên nó phải tự thực hiện nó trong tự nhiên.
2 - Lý tính thực tiễn thông qua 3 giai đoạn:
a - Hưởng lạc và định mệnh
Chủ yếu là hưởng lạc trong luyến ái, phát triển trong thế kỷ XVII, XVIII. Tư tưởng hưởng lạc là một hình thái tư tưởng cao hơn trình độ ham muốn, vì nó bao hàm ý thức bản ngã: đã tin tưởng mình là tất cả sự vật, mình thống trị thế giới. Nhưng nó lại gặp một ý thức khác (một người khác) cùng tin tưởng như thế. Hai bên rất xa cách nhau, vì mỗi người mang một thế giới trong đầu óc. Mỗi cá nhân đều tự giác về quyền lợi tuyệt đối của mình, nhưng lại gặp một cá nhân khác cũng tự giác. Như thế chỉ còn một cách giải quyết là gây ra một cái thông cảm để phá cái ngăn trở giữa cá nhân và cá nhân. Cái cản trở đó bị phá bỏ trong sự hưởng lạc. Sự hưởng lạc đó không phải chỉ nhằm hấp thụ đối tượng vào mình, mà có ý thức phá bỏ xa cách giữa cá nhân và cá nhân để gây nên một ý thức đại thể. Trong hưởng lạc, cá nhân thông cảm với toàn bộ thế giới, tìm sự giải phóng con người trong cái hưởng lạc đó, và đặt cho mình một giá trị tuyệt đối: đưa cá nhân lên đại thể. Đến đây lại xuất hiện mâu thuẫn: đại thể đây không có ý nghĩa cụ thể, thông qua một cách chung chung, không nắm được điểm nào dứt khoát; rất trừu tượng. Đó chính là cái định mệnh. Thực tế, trong cái hưởng lạc không đạt được mức cao hơn, do định mệnh hai bên thông cảm với nhau mà hưởng được hạnh phúc, nhưng không biết dựa vào đâu, không hiểu vì sao có cái định mệnh ấy? Định mệnh là một khái niệm nghèo nàn không có nội dung. Nhưng trong cái nghèo nàn ấy, lý tính cảm thấy mình không còn là cá nhân hưởng lạc mà mình có giá trị đại thể. Do mâu thuẫn này, ý thức lại chuyển lên một hình thức cao hơn: luật của nhân tâm và tự cao điên cuồng.
b - Luật của lương tâm và tự cao điên cuồng
Đến đây, thấy trong lương tâm mình có luật đại thể mà mình có bổn phận thực hiện. Lương tâm chống lại thời cuộc, tức là cái thế giới xấu. Ta tốt, ta chống lại thế giới xấu. Nhưng đến đây, những lương tâm cá nhân lại mâu thuẫn với nhau, đi đến tự cao điên cuồng chỉ cho mình là tốt, và chống lại tất cả người khác. Luật của lương tâm căn bản chỉ là cá nhân, lương tâm của mỗi người khác nhau, không ai giống ai, nhưng ai cũng cho mình là tốt cả. Kinh nghiệm ấy cho ta thấy phải hy sinh cá nhân chuyển lên đạo đức.
c - Đạo đức và thời cuộc
Đạo đức không phải là lương tâm cá nhân, mà là lương tâm phải hy sinh cá nhân thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đức tính chống lại thời cuộc, vì thời cuộc là xấu, thời cuộc chỉ là một số cá nhân làm theo quyền lợi của họ. Ai hy sinh cá nhân thì phải thắng. Nhưng trong lúc anh nói anh chống lại thời cuộc thì anh cũng chỉ làm một số việc biểu hiện tài năng của anh, mà tài năng thì nó có nội dung khách quan của nó. Quá trình phát huy tài năng là một quá trình khách quan không phải do hy sinh cá nhân. Tài năng được thực hiện như thế nào? Thực tế thời cuộc tạo điều kiện cho tài năng phát triển; tài năng cũng là một yếu tố của thời cuộc, cũng do thời cuộc mà có. Cho nên nó không chống lại được thời cuộc. Đúng hơn, ý thức đạo đức cá nhân thực hiện trong sự việc, chân lý của nó là sự việc nó không thoát khỏi thời cuộc. Do mâu thuẫn đó, lý tính lại chuyển sang một hình thái cao hơn.
3. Lý tính trong cái thực hiện của mình
a - Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy
Cá nhân chỉ biết có mình thôi, không biết người khác, nhưng khi phát huy tài năng thì mỗi cá nhân lại làm công việc chung. Công việc của nó làm có ý nghĩa tinh thần: do đó gọi là giới động vật của tinh thần: mỗi sự nghiệp cá nhân là một bộ phận của sự nghiệp chung; nó tưởng là nó làm cho nó thì nó đã làm cho tập thể, nhưng thực tế thì nó lại cũng làm cho cá nhân nó. Mâu thuẫn đó Hegel kêu là lừa dối. Nhưng mà trong quá trình mâu thuẫn ấy, chúng ta đi đến ý thức cái mà ta nhầm chính là sự việc ấy đấy. Như thế, ý thức không phải là cá nhân, vì sự việc ấy có ý nghĩa đại thể. Nếu đã nhận thức được điểm ấy, thì ý thức đặt quy luật cho thế giới: đó là lý tính lập pháp.
b - Lý tính lập pháp
Đặt luật có giá trị phổ cập, nhưng cũng chỉ dựa vào cá nhân thôi, vì nó thấy nó có cơ sở đặt luật cho mọi người. Điểm này Hegel nhắm luận lý cảm tính của Rousseau[7], định ra luật pháp dựa vào cảm tính, cảm tính cho cái gì tốt là tốt, cái gì xấu là xấu. Nhưng lại có mâu thuẫn, vì cảm tính mỗi người một khác, không thể dựa vào cảm tính mà đặt luật pháp được. Nó chỉ có thể xem xét đặt luật này đúng hoặc sai: lý tính kiểm pháp.
c - Lý tính kiểm pháp
Điểm này Hegel nhắm luận lý của Kant với mệnh đề căn bản: «Hành động thế nào để cho châm ngôn hành động của mình có thể được đề ra thành một quy luật đại thể cho mọi người». Nhận xét lề lối hoạt động đó là lý tính kiểm pháp. Nhưng các mệnh đề của Kant cũng chỉ là hình thức chung của mọi quy luật thôi, không cho phép phân biệt đúng hay sai. Thí dụ: ta có quyền lấy của người không? Theo tiêu chuẩn trên thì có thể có và cũng có thể không, tùy theo ta có nhận chế độ sở hữu hay không. Thành ra không thể dựa vào lý tính cá nhân với bất kỳ hình thức nào để thực hiện cái tin tưởng của lý tính ấy: mình là thế giới ấy đấy. Nếu cái tin tưởng đó đúng, mình không còn là cá nhân mà là ý thức đại thể. Nó là ý thức tinh thần, là ý thức của xã hội.
Phê phán:
Đây Hegel đã trình bày trong tinh thần ý nghĩa của một số chủ nghĩa lớn trong thời đại cách mạng tư sản:
1. Chủ nghĩa khoa học thực nghiệm.
2. Chủ nghĩa hưởng lạc.
3. Chủ nghĩa cá nhân duy tâm, lấy cá tính làm quy luật cải tạo thế giới (chủ nghĩa anh hùng thưởng phạt theo cá tính của mình).
4. Chủ nghĩa đạo đức, phải hy sinh cá nhân chống lại thời cuộc để thực hiện đức tính, phát triển trong giai đoạn cao nhất của Cách mạng Pháp 1789 thời Robespierre[8] lãnh đạo.
5. Ngoài ra, Hegel cũng phản ánh luận lý cá nhân chủ nghĩa của Montaigne[9], một phần nào của Descartes[10], luận lý tình cảm của Rousseau, cuối cùng là luận lý của Kant. Nội dung rất phong phú. Mâu thuẫn Hegel nêu lên là mâu thuẫn có thật trong lịch sử tư tưởng và trong lịch sử nói chung. Ví dụ: mâu thuẫn đặc tính với thời cuộc là mâu thuẫn có thật giữa bọn Robespierre và giai cấp tư sản. Robespierre đề cao đức tính cũng chỉ là phục vụ tư sản, mà quyền lợi tư sản lại chỉ là quyền lợi cá nhân.
Nội dung tuy phong phú nhưng chỉ diễn tả trong tinh thần: nói chung là mâu thuẫn giữa cá thể và đại thể, nhưng ta không hiểu vì sao mâu thuẫn lại diễn biến như vậy, cuối cùng đức tính phải đầu hàng thời cuộc. Hegel đã tách rời cơ sở thực tế. Cả công trình xây dựng lý tính trên cơ sở duy vật lại được trình bày một cách duy tâm: trình bày để chứng minh chủ nghĩa duy tâm; biện chứng pháp của Hegel đã đảo ngược cái ý nghĩa chân chính của phong trào cách mạng tư sản: ý nghĩa duy vật.
Mâu thuẫn căn bản, đứng về mặt duy tâm mà Hegel nêu ra trong quá trình diễn biến của lý tính là mâu thuẫn giữa sự tin tưởng của bản ngã (ý thức cho mình là tất cả thế giới khách quan) và mặt khác là sự thực rằng ý thức bản ngã vẫn là cá nhân. Mâu thuẫn là: cái mà nó tin tưởng thì thực tế nó chưa thực hiện được. Từ mâu thuẫn đó, nó chuyển lên hình thức bản ngã đại thể tức là cái tôi đại thể. Hegel gọi cái tôi đại thể đó là tinh thần. Mâu thuẫn trên thực tế ở đâu ra?
Trong thời tư bản chủ nghĩa, ngay trong lúc đang lên của nó đã có mâu thuẫn giữa cá nhân chủ quan và đại thể khách quan. Nhưng mâu thuẫn đó không phải xuất phát từ tinh thần như Hegel tưởng.
Theo Hegel, trong lý tính thực nghiệm có mâu thuẫn ở chỗ nó tưởng nó có thể tìm thấy được nó trong thế giới vật chất, nhưng thực tế nó không tìm được. Do đó, phải chuyển sang một lập trường mới là lý tính thực tiễn.
Hegel có phản ánh một phong trào tư tưởng có thực, như sau: một mặt thì phát triển khoa học thực nghiệm, một mặt lại phê phán khoa học thực nghiệm, cho khoa học thực nghiệm chỉ nắm được một số quy luật chết, không nắm được bản chất con người. Chỉ trong hoạt động thực tiễn, mình mới thực hiện được tính chất nhân bản. Ví dụ: trong quyển Faust của Goethe[11] đã biểu hiện một tinh thần chán nản đối với khoa học, và đòi hỏi một hoạt động thực tiễn. Như câu: «Khoa học thì xám, nhưng cây của đời sống bao giờ cũng xanh». Đó là một xu hướng đã phát triển nhiều trong tư tưởng tư sản. Với tư tưởng này, thì một mặt phát triển khoa học, nhưng một mặt lại phê phán khoa học, đi vào hoạt động chủ quan chống lại khoa học.
Sở dĩ như thế, vì thực tế khoa học máy móc không thỏa mãn được những nhu cầu của người ta, thành ra nó bắt buộc người ta phải tìm con đường giải phóng bằng cách phản lại khoa học, nó đòi hỏi cái mà Goethe đã gọi là «cây sống xanh tươi». Nhưng có phải chỉ vì mâu thuẫn tinh thần trong bản chất khoa học tự nhiên mà đi đến giải pháp đó không? Có phải vì khoa học tự nhiên lúc bấy giờ có tính chất máy móc mà phải đi tìm con đường giải phóng trong con đường phản lại khoa học không?
Thực tế, những người đi vào con đường hoạt động phản lý hồi đó phần lớn không phải là những nhà khoa học. Sở dĩ khoa học tự nhiên hồi đó còn có tính chất máy móc như thế, là vì nó bị một cơ sở thực tế nào đó chi phối. Hegel đã không xét đến cơ sở thực tế của khoa học tự nhiên, mà chỉ quan niệm theo cách hiểu biết trong phạm vi tinh thần, giải thích khoa học tự nhiên theo kiểu duy tâm của Kant (quan niệm xây dựng đối tượng khách quan theo quy luật chủ quan). Vì thế mà Hegel nói đến chuyện tìm chủ quan trong thực nghiệm. Thực tế, trong giai đoạn tư sản đang lên, sự phát triển của khoa học tự nhiên không phải là do việc đi tìm mình trong tự nhiên, mà trái lại là tìm tự nhiên trong thế giới khách quan. Nó là thế giới quan duy vật, chứ không phải là duy tâm. Lúc đó, sở dĩ hướng về thế giới khách quan vì trong thực tế đã xuất hiện một phương thức hiểu biết mới theo toán lý, gây cơ sở để hiểu biết tự nhiên. Phương thức hiểu biết mới đó sở dĩ xuất hiện trong ta, căn bản lại do kinh nghiệm mới trong phương thức sản xuất mới của tư sản. Phương thức hiểu biết mới đó có hiệu lực hơn phương thức hiểu biết cũ, nó giúp con người hiểu biết sâu sắc hơn trước. Hiệu lực của phương thức hiểu biết mới chỉ là kết quả của hiệu lực thực tế của phương thức sản xuất mới. Hegel không thấy ý nghĩa thực tế đó mà chỉ nắm phần xuất hiện của phương thức hiểu biết mới, rồi cho rằng nó là ý thức đi tìm mình trong tự nhiên. Hegel đã biến phong trào duy vật thành một phong trào duy tâm. Do đó, đi đến kết luận rằng: vì mình không tìm thấy mình trong tự nhiên, nên phải tự thực hiện mình chống lại thế giới.
Thực tế có hiện tượng chán nản khoa học tự nhiên thật, nhưng cản bản là do mâu thuẫn trong thực tế gây ra, chứ không phải do mẫu thuẫn trong tinh thần. Không phải là chuyện nhà khoa học tự cảm thấy trong tinh thần chán nản mà đi vào hoạt động chủ quan. Khoa học có tiến bộ là nhờ có phương thức sản xuất mới, nhưng trong phương thức sản xuất mới vẫn có thiểu số; có mâu thuẫn là: về mặt sản xuất thì có tính chất xã hội, nó mở rộng phạm vi sản xuất, nhưng về quan hệ sản xuất thì lại có tính chất tư hữu, cá nhân. Do đó, trong phương thức sản xuất mới đó tuy có cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất, nhưng lại không có cơ sở để tổ chức quan hệ sản xuất cho hợp lý. Nó có một phần nào có tổ chức hợp lý, nhưng đó chỉ là trong phạm vi đơn vị cá thể, chứ xét toàn bộ xã hội thì nó không có cơ sở để tổ chức hợp lý được, vì nguyên lý của nó là cá nhân tự do cạnh tranh. Do đó mà nó đặt vấn đề giải quyết trên cơ sở cá nhân, và hoạt động thực tiễn có tính chất cá nhân chủ quan. Vì có tính chất cá nhân chủ quan nên nó mới đối lập với khoa học. Đó là mâu thuẫn căn bản trong xã hội tư bản (hoạt động thực tiễn mâu thuẫn với hoạt động khoa học). Do mâu thuẫn căn bản đó mới xuất hiện trong tinh thần hiện tượng chán nản đối với khoa học, đi tìm chân lý ở đời sống thực tiễn chủ quan.
Xét lại những hiện tượng hoạt động cá nhân chủ quan mà Hegel đã mô tả, như hiện tượng chủ nghĩa hưởng lạc, mâu thuẫn trong chủ nghĩa hưởng lạc, luật của nhân tâm (lấy lương tâm cá nhân để cải tạo xã hội), đạo đức hy sinh cá nhân nhưng vẫn trên lập trường cá nhân... là những hiện tượng có thực mà Hegel mô tả đúng đắn phần lớn, nhưng những hiện tượng đó xuất hiện trên một cơ sở xã hội thực tế, chứ không phải xuất hiện do một biện chứng pháp tinh thần. Cơ sở thực tế đấy chính là điều kiện hoạt động trong các giai đoạn của cách mạng tư sản.
Ở giai đoạn còn non, hoạt động đối lập có tính chất cách mạng tư sản ở chỗ nó lấy hưởng lạc cá nhân làm trung tâm để chống lại những ràng buộc của phong kiến. Ở Âu châu vào thế kỷ XVII, XVIII, có cả một phong trào như thế. Ở Việt Nam, tuy yếu tố tư bản chủ nghĩa chưa phát triển bằng Âu châu hồi đó, nhưng những tác gia như Hồ Xuân Hương cũng đã đi theo hướng đó.
Đến mức cao hơn, lúc giai cấp tư sản thấy có đủ sức cải tạo xã hội (không phải chống lại xã hội cũ bằng thỏa mãn cá nhân nữa), thì mới lấy luật nhân tâm để chống lại xã hội cũ.
Đến giai đoạn thứ ba tức là lúc nó đặt vấn đề hy sinh cá nhân để cải tạo xã hội. Hiện tượng đó có thực trong xã hội (như lúc Cách mạng Tư sản Pháp tiến lên nắm chính quyền), nhưng hiện tượng đó vẫn là do một cơ sở thực tế: lúc tư sản lên cầm chính quyền, cần hy sinh cá nhân để nắm chính quyền, nhưng chưa ổn định được tổ chức chính quyền. Do đó mà nó còn đối lập với thế giới, chủ quan vẫn đối lập với khách quan. Dù có hy sinh cá nhân nhưng vẫn đối lập với thế giới. Thực tế, đạo đức hy sinh cá nhân như vậy nhất định phải thua thời cuộc. Hegel đã giải thích hiện tượng mâu thuẫn giữa đạo đức và thời cuộc, trong đó thời cuộc thắng, đạo đức thua, bằng cách cho rằng đạo đức dù chống lại thời cuộc, nhưng đạo đức vẫn phải phát triển tài năng trong thời cuộc, thời cuộc là điều kiện để phát triển tài năng.
Nói như Hegel thật là trừu tượng. Thực tế, những hy sinh cá nhân của tư sản là nhằm thỏa mãn quyền lợi cá nhân trong toàn bộ giai cấp của họ. Vì như thế người chủ trương đạo đức đó cuối cùng cũng phải thua bọn đầu cơ. Bọn chủ trương đạo đức chỉ là đặt điều kiện cho bọn đầu cơ làm giàu để rồi thắng mình. Và cuối cùng, mình cũng không giữ được lập trường đạo đức ấy nữa. Ở Pháp, Robespierre chủ trương thực hiện đạo đức thì rút cuộc cũng bị thất bại. Hegel đã không thấy nguồn gốc thực tế đó mà chỉ thấy bề ngoài của hiện tượng, do đó đi đến kết luận: cá nhân tự thấy mình trong thời cuộc, vậy tự nó nó phủ định nó. Nói như thế là phủ định hoàn toàn phần đạo đức chân chính mà giai cấp tư sản đã thực hiện được trong giai đoạn cách mạng của nó. Vì phủ định như thế, nên khi đến mặt thứ ba của quá trình phát triển của lý tính (lý tính trong sự thực hiện của mình), Hegel nhận rằng lý tính không phải là cái gì ngoài khách quan mà chính lý tính là khách quan ấy. Lập trường ở đây vẫn là cá nhân. Nó quan niệm thực chất của bản ngã là đời sống khách quan, sự nghiệp của mỗi người. Chân lý chủ quan chính là thực tế khách quan ấy. Ở đây, Hegel có ưu điểm lớn là đã mô tả được mâu thuẫn căn bản trong đời sống cá nhân của xã hội tư bản. Trong lúc cá nhân chỉ nhằm quyền lợi cá nhân của nó thì thực tế nó có phục vụ xã hội, hành động của nó vẫn có ý nghĩa đại thể. Trái lại, cái mà nó làm để phục vụ xã hội thì lại chỉ là phục vụ cá nhân. Nhận xét của Hegel là đúng, vì phương thức sản xuất tư sản dựa vào quyền lợi cá nhân. Do quyền lợi cá nhân mà nó làm phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Động cơ phát triển xã hội của tư sản là động cơ cá nhân. Nhưng cũng do đấy mà xuất hiện mâu thuẫn: không bao giờ chúng ta nắm được cái giá trị tập thể của hoạt động cá nhân, vì bao giờ cũng chỉ là nhằm quyền lợi cá nhân. Mâu thuẫn đó xuất phát từ phương thức sản xuất tư sản. Mâu thuẫn đó chỉ giải quyết được bằng cách đánh đổ phương thức sản xuất tư sản, để thay vào một phương thức sản xuất mới là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hegel vì đặt vấn đề trong tinh thần nên không giải quyết được. Vì nếu chỉ thấy mâu thuẫn ấy trong tinh thần, thì cũng chỉ giải quyết trong tinh thần, tức là đặt vấn đề bản ngã trong tinh thần là bản ngã đại thể, bản ngã của mọi người. Đó là một giải pháp hoàn toàn duy tâm. Từ đó, Hegel đã chuyển lên hiện tượng tinh thần, cho rằng tinh thần là bản ngã đại thể, thực tế đã nắm được đối tượng khách quan, thấy rằng chủ quan là khách quan.
Trong thực tế lịch sử, có hiện tượng ấy thực. Đó là giai đoạn xây dựng chế độ tư sản, mỗi người với tính chất chủ quan cá nhân của mình, chống lại chế độ cũ, xây dựng một lý tưởng có giá trị đại thể. Nhưng một khi xây dựng được rồi thì nó củng cố Nhà nước tư sản, bằng tư tưởng rằng: bây giờ không có đối lập nữa giữa chủ quan và khách quan, không có đối lập giữa cá nhân và xã hội nữa, vì xã hội cũ đã bị tiêu diệt. Bây giờ trong xã hội mới, chủ quan là khách quan, lý tưởng chủ quan đã được thực hiện rồi, mọi người đều là một trong xã hội mới ấy. Đó là tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản lúc đã nắm được chính quyền. Họ muốn dung hòa mọi mâu thuẫn trong một lý thuyết bình đẳng có tính chất hình thức. Chính đó là cái mà Hegel đã gọi là tinh thần.
Hegel đưa vấn đề tinh thần ra với danh nghĩa giải quyết mâu thuẫn giữa chủ quan và khách quan; nếu xét cơ sở thực tế của nó, thì ta thấy cách đưa ra như thế thực tế là nhằm xóa nhòa những mâu thuẫn mới, mặc dù có giải quyết mâu thuẫn cũ. Chỗ nó tiến lên tinh thần là chỗ nó che lấp những mâu thuẫn mới của thực tế. Hegel lấy hiện tượng dùng để che lấp đó làm chân lý. Đó là những cái mà tư sản đặt làm lý tưởng để che lấp những mâu thuẫn mới trong thực tế. Chủ nghĩa tinh thần của Hegel về nhà nước và xã hội đã có rất nhiều ảnh hưởng, vì nó biện chính đề cao nhà nước tư bản, đồng thời nó cũng biện chính cho nhà nước của chủ nô cũ. Nó biến nhà nước ấy thành tinh thần, thành chân lý, để dung hòa mọi cá nhân trong xã hội, dung hòa cá nhân và xã hội. Có thể nói, sau này trong thế kỷ XIX, thế kỷ XX, mọi chủ nghĩa đề cao nhà nước mà không xét đến tính chất giai cấp của nhà nước ấy, đề cao nhà nước một cách chung chung (tức nhà nước cũ) đều bắt nguồn từ chủ nghĩa nhà nước của Hegel, cái mà Hegel gọi là tinh thần.
Chương VI - TINH THẦN
Biện chứng pháp của tinh thần là biện chứng pháp duy tâm của những hiện tượng tinh thần nhằm biện chính chế độ nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo Hegel, tinh thần tức là lý tính đã tìm thấy mình trong thực tế, thấy thực tế là mình. Nó khác với lý tính ở trên (ở chương V) là tin tưởng chủ quan nhưng chưa thực hiện được. Ở đây, ý thức bản ngã đã tìm thấy mình trong thực tế; thấy thực tế là mình tức là đã thông cảm được với thế giới, thông cảm được giữa chủ quan và khách quan: tức là tinh thần. Có tinh thần là nắm được thế giới khách quan như mình: cái mà mình thấy xung quanh mình chính là mình, cái gì cũng là mình cả. Theo Hegel, tinh thần ấy diễn biến như sau:
1 – Tinh thần tự nhiên
Lúc đầu, nó xuất hiện một cách trực tiếp tự nhiên, tự nhiên con người ấy có tinh thần, con người sống một đời sống mà mình thấy mình thông cảm với thực tế khách quan. Xã hội mà thực hiện được tinh thần tự nhiên như thế là xã hội thành thị Hy Lạp.
Hegel đã theo truyền thông văn nghệ và tư tưởng cổ đại. Theo những tài liệu ấy, đời sống của người cổ Hy Lạp không có mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Họ thấy một cách tự nhiên không phải cố gắng cái ý nghĩa tập thể. Họ tự nhiên thấy mình thỏa mãn trong đời sống tập thể. Phân tích hiện tượng điều hòa tự nhiên trong đó ta thấy vẫn có mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn thống nhất trực tiếp. Đó là mâu thuẫn giữa gia đình và nhà nước. Gia đình là đời sống cá thể của mọi người, nhà nước là đời sống đại thể. Gia đình cung[12] cấp công dân cho nhà nước. Trái lại, nhà nước là điều kiện cho gia đình phát triển sinh sống. Lúc nào mà gia đình phát triển mâu thuẫn đối với nhà nước, nghĩa là lợi ích cá thể của mình trái với lợi ích của nhà nước, thì chiến tranh xuất hiện để củng cố quyền nhà nước đối với gia đình. Khi có chiến tranh, gia đình phải hy sinh cho nhà nước, và nhà nước phải củng cố, nhưng tuy thế trong đó vẫn có những mâu thuẫn để đi đến tiêu diệt xã hội, tiêu diệt sự điều hòa của xã hội Hy Lạp. Các thành thị tiêu diệt nhau, nhưng lại thống nhất hình thức. Cụ thể: nó thống nhất trong nhà nước La Mã. Dân không còn là công dân. Một mặt, họ thực hiện được đời sống cá nhân không bị ràng buộc trong đời sống tập thể, vì khi có đế quốc La Mã thì không có đời sống tập thể nữa, nó chỉ là một đại thể hình thức, mỗi một cá nhân thực hiện đời sống riêng biệt của mình. Nhưng mặt khác, nó lại bị tổ chức nhà nước đàn áp, tiêu diệt mất nội dung; nó chỉ còn là đời sống riêng biệt có tính cách hình thức. Hiện tượng điều hòa giữa cá nhân và tập thể một cách tự nhiên đã bị tiêu diệt. Cá nhân có quyền sống, cụ thể là có quyền tư hữu, không bị ràng buộc bởi tập thể, nhưng quyền tư hữu đó chỉ là trừu tượng, đã bị tổ chức nhà nước tiêu diệt mất nội dung. Vì thực tế là người nào cũng bị áp bức. Do hiện tượng ấy, cá nhân mà xuất hiện như thế thực ra không thực hiện được ý nghĩa chân chính trong đời sống cá nhân của nó, mà chỉ thực hiện bên ngoài thôi. Hegel gọi đó là hiện tượng tha hóa. Đời sống không còn tính chất điều hòa tự nhiên nữa. Thế giới là ngoài nó, nhưng thế giới ngoài nó mà lại phải nhận là thế giới của nó. Chính nó là thế giới của chủ nghĩa gia tộc đời Trung Cổ, quan niệm rằng con người sống ở đời như thế là sống trong nhà tù, cho rằng mình là người ở trên trời bị đầy xuống trần gian.
Phê phán:
Tinh thần điều hòa trực tiếp, giữa cá nhân và xã hội, giữa chủ quan và khách quan, có phát triển trong giai đoạn Hy Lạp, và có củng cố chế độ nhà nước ở Hy Lạp thực, nhưng nguồn gốc của nó là ở đâu?
Đây, có thể nói Hegel đã hoàn toàn bỏ qua cơ sở là chế độ chiếm hữu nô lệ. Hegel không biết đến cơ sở thực tế, vì không muốn nói đến. Vì nói đến thì không còn tinh thần điều hòa ấy nữa. Chính tinh thần điều hòa ấy là một cách che lấp cái chế độ nô lệ; biện chính chế độ ấy bằng cách che lấp chế độ ấy.
Sở dĩ trong một thành thị các công dân có liên đới với nhau một cách chặt chẽ, đến nỗi không ai đặt vấn đề đời sống cá nhân ngoài đời sống xã hội, chính là vì họ cùng nhau bóc lột nô lệ. Họ không liên đới với nhau thì họ sẽ bị nô lệ chống lại. Sự điều hòa giữa gia đình và nhà nước, giữa quyền lợi tư và chung xuất phát từ đấy. Nhà nước được củng cố, chiến tranh thôn tính các nhà nước khác, chỉ còn lại một nhà nước La Mã, nhưng nhà nước La Mã lại xa cá nhân, nó không phải là nhà nước mà mọi công dân đã đóng góp với tất cả tâm hồn của mình. Trái với nhà nước Hy Lạp trước đó là nhà nước mà mọi người công dân cảm thấy là của nó. Còn nhà nước La Mã thì họ thấy chỉ là một bộ máy quan liêu xa họ. Sở dĩ chiến tranh có tác dụng hai mặt đối lập như vậy chính vì: một mặt chiến tranh là một phương thức để phát triển chế độ nô lệ (có chiến tranh mới bắt được tù binh làm nô lệ), trong thành thị mọi công dân đều liên đới với nhau trong công việc bắt nô lệ ấy; nhưng một mặt khác, bắt nô lệ mãi thì những nước đến cướp nô lệ dần dần cũng chuyển lên chế độ nô lệ. Thế giới nô lệ to quá đối với thế giới thị tộc. Nó không có cơ sở để đi cướp nô lệ nữa, thành ra nó phải sống một cách tự túc. Lúc đó là lúc bắt buộc nó phải tan rã. Sở dĩ các thành thị thôn tính lẫn nhau đi đến một nhà nước hoàn toàn quan liêu không được ai ủng hộ (có thể nói nhà nước La Mã là hoàn toàn không được dân ủng hộ, nó chỉ sống bằng bộ máy quan liêu của nó), căn bản là do sự phát triển của chế độ nô lệ bắt buộc nó phải tự thôn tính nó. Vì đến một lúc nào đó, điều kiện bắt nô lệ khó hơn, do đó mà các thành thị chủ nô phải đi bắt lẫn nhau. Cuối cùng, chính những phần tử giàu có trong lớp trên của giai cấp chủ nô bắt buộc phải bóc lột tầng lớp dưới, biến dân tự do thành nô lệ. Đó tức là lúc nhà nước La Mã không được quần chúng tự do ủng hộ nữa. Hegel đã hoàn toàn bỏ qua thực tế đó, chỉ lấy tinh thần lý tưởng hóa của chế độ chiếm hữu nô lệ. Hegel có thấy nó qua rồi, nhưng vẫn cứ duy trì cái tốt đẹp bề ngoài của nó, để sau này Hegel đặt vấn đề tái lập trong điều kiện khác. Biện chứng pháp tinh thần của Hegel thực hiện trong ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Thực hiện một cách tự nhiên cá nhân, không đặt vấn đề mình là ngoài tự nhiên.
- Giai đoạn 2 là giai đoạn tha hóa: đối lập cá nhân và tập thể, con người và thế giới, xem thế giới là nơi người bị đầy đọa.
- Giai đoạn 3: lý tưởng qua giai đoạn tha hóa thì trở lại tinh thần cũ.
Nhưng Hegel không thấy rằng chính tinh thần cũ có cơ sở thực tế của nó là chế độ áp bức, bóc lột nô lệ. Chính tư tưởng ấy là tư tưởng mà Hegel muốn tái lập. Ta phê phán không phải vì Hegel muốn tái lập, mà vì thực tế tư tưởng ấy đã là lý tưởng của giai cấp tư sản Âu Tây, trở lại đời sống con người và tự nhiên nhưng quan niệm theo kiểu duy tâm.
Thực tế, lịch sử văn minh Hy Lạp có thực hiện những giá trị chân chính, nhưng những giá trị ấy có phải là tinh thần thân mật trực tiếp liên đới giữa cá nhân và tập thể không? Điểm đó phải xét lại. Thực tế, những giá trị mà ta còn công nhận trong văn minh Hy Lạp là những hiện tượng lịch sử đấu tranh giai cấp, chống áp bức bóc lột một cách có ý thức. Trong đó có những cuộc đấu tranh của nô lệ chống chủ nô. Chính cuộc đấu tranh giai cấp có ý thức đó đã được diễn tả trong văn nghệ, triết học. Nó là một cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm, đấu tranh chống tôn giáo, chống triết lý duy tâm. Nghệ thuật Hy Lạp với tính chất điều hòa cuối cùng là đề cao nhân loại chống mơ hồ tôn giáo. Trái lại, theo cách hiểu biết cũ thì cho rằng giá trị của thành thị Hy Lạp không phải là đấu tranh giai cấp có ý thức, mà là sự thống nhất của những công dân trong sự liên đới áp bức bóc lột nô lệ, thành ra là ngoài thì nó xuất hiện với một hình thức điều hòa, nhưng thực ra chỉ là kết quả của một tổ chức nhà nước đặc biệt tinh vi. Như thế, cái mà Hegel đề cao chính là phần mơ hồ trong tư tưởng Hy Lạp. Còn cái mà Hegel bỏ qua là phần chân chính, thiết thực, phần đấu tranh. Hegel mô tả thành thị Hy Lạp như một thiên đường đã mất với đế quốc La Mã và đạo Gia tô, mà xã hội tư bản cần phải trở lại. Thực tế, nó không phải là một thiên đường, mà chính xã hội Hy Lạp là xã hội lần đầu tiên đã xuất hiện chủ nghĩa nhân văn chống chủ nghĩa tinh thần mà Hegel đề cao. Do chỗ hoàn toàn bỏ qua cơ sở thực tế một cách có ý thức, do chỗ diễn tả một cách rất ngược giá trị lịch sử Hy Lạp, Hegel đi đến kết luận: chuyển sang đế quốc La Mã về thế giới Trung Cổ, con người đã thực hiện được mình bằng cách tha hóa, nghĩa là thực hiện mình ngoài mình, tức là mất thiên đường. Những hiện tượng Hegel nêu ra chỉ là diễn biến bên ngoài của lịch sử chuyển biến từ nô lệ sang phong kiến. Trong đó có một công cuộc giải phóng rất vĩ đại. Phần giải phóng vĩ đại đó bị Hegel cho là hiện tượng tha hóa. Thế giới gọi là tha hóa chính là thế giới mà lần đầu tiên người nô lệ đã thực hiện được phần nào quyền sống, quyền làm người của mình. Ý thức cá nhân mà Hegel cho là bị tha hóa, chỉ còn quyền lợi cá nhân mất tính chất tập thể, do đó trước mặt nó chỉ còn nhà nước quan liêu mà nó không thông cảm được, chính là người dân mới, là nhân dân trong đó không phân biệt dân tự do và nô lệ nữa. Nếu chỉ nhìn hiện tượng, nhớ lại thiên đường cũ như Hegel, thì thế giới là tha hóa thật, nhưng chính trong thế giới tha hóa, những giá trị thiết thực để thể hiện. Lịch sử của thế giới tha hóa chính là lịch sử của lao động và đấu tranh của nhân dân.
2 -Tinh thần tha hóa
Tinh thần tha hóa là lý tính tự nhận mình trong thế giới với hình thức xa biệt: thế giới là cái gì khác mình, trong đó chúng ta bị đày đọa. Thế giới tha hóa ấy qua ba giai đoạn:
1 - Giai đoạn rèn luyện.
2 - Giai đoạn sáng suốt.
3 - Giai đoạn ý thức luân lý.
Ba giai đoạn đó tượng trưng cho 3 giai đoạn lịch sử thế giới Gia Tô, tức là:
- Giai đoạn Trung Cổ mà con người phải lao động nhưng không có ý thức về giá trị lao động đó. Lao động với hình thức hoàn toàn bị áp bức bóc lột. Nhưng trong lúc bấy giờ có xây dựng yếu tố văn hóa mới. Giai đoạn đó gọi là giai đoạn rèn luyện con người.
- Giai đoạn 2 là giai đoạn đang lên của tư sản, nhưng nghiên cứu với hướng mới: đấu tranh giữa chủ nghĩa cũ và chủ nghĩa mới, chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư bản. Chứ không phải đấu tranh giữa cá nhân chống phong kiến nữa, không phải là đấu tranh giai cấp với hình thức cá nhân mà là đấu tranh giai cấp có tổ chức, có ý thức giữa các chủ nghĩa, cụ thể là giữa chủ nghĩa Gia Tô và chủ nghĩa Sáng Suốt (Philosophie des Lumières).
Cuối cùng là giai đoạn ý thức luân lý, là luân lý nhằm giải quyết những vấn đề nhân tâm sau khi cách mạng tư sản thành công. Mọi vấn đề nhân tâm như tự do, bình đẳng và bác ái đều đặt vào chỗ đánh đổ phong kiến, thực hiện chế độ lý tưởng mới; nhưng sau khi cách mạng tư sản được thực hiện thì nó phải hủy lý tưởng ấy, vì mang lại một thế giới không có tự do, bình đẳng và bác ái nữa. Lúc đó, tư tưởng tư sản tìm cách thực hiện lý tưởng ấy trong nhân tâm bằng luân lý. Lý tưởng của luân lý ấy nhằm thực hiện được đời sống lý tưởng tự nhiên, của cái mà người ta tưởng là có trong quốc gia thành thị Hy Lạp.
Phê phán:
Cụ thể, ta thấy chính triết học Đức là một sự cố gắng thực hiện trong tâm hồn cái lý tưởng của cách mạng tư sản Pháp mà nó không thực hiện được trong thực tế.
Đây, nói chung Hegel có mô tả một số hiện tượng có thật: cụ thể là công trình rèn luyện của nhân dân dưới sự áp bức bóc lột của nhà nước Trung Cổ, của Đạo Gia Tô. Qua sự rèn luyện ấy, đi đến đấu tranh giai cấp có ý thức, có tổ chức giữa chủ nghĩa Gia Tô và chủ nghĩa triết học sáng suốt. Hegel có nêu ra một số hiện tượng và mô tả nó một cách sâu sắc, đặc biệt có nêu mâu thuẫn giữa nhà nước phong kiến và tiền tệ, của cải tức là lực lượng kinh tế mới, chứng minh rằng nhà nước phong kiến chống lại hoạt động kinh tế hàng hóa nhưng chính nó lại sống nhờ hoạt động đó. Nhưng có thể nói: trong lúc duy tâm hóa cả công cuộc xây dựng của nhân dân dưới chế độ phong kiến để đi tới cách mạng tư sản, không những Hegel đã tách rời cơ sở thiết thực của phong trào, đồng thời đã đảo ngược những giá trị chân chính xuất hiện trong phong trào. Do đó, Hegel đã bỏ qua cái hoạt động. Hegel có mô tả thực tế lịch sử thật, nhưng mô tả lộn ngược, cuối cùng đi đến chứng minh rằng: cách mạng tư sản (tức chủ nghĩa triết học sáng suốt) tự nó phá hủy nó. Nó thất bại trong thực tế, và nó chỉ có thể thực hiện được trong phạm vi tinh thần thôi. Hegel đã đảo ngược thực tế thực sự. Đó là một bước lùi xuất phát từ thực tế cách mạng tư sản Pháp, nhưng Hegel lại cho là một bước tiến. Thực tế cách mạng tư sản Pháp có thất bại thật, nghĩa là có cách mạng thành công nhưng những ý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái đã thua, thất bại đó là do bản chất của chế độ mới, chứ không phải vì cách mạng đó thất bại trong thực tế nên nó phải làm lại trong tinh thần.
Phần tha hóa
Cái vận mệnh chân chính của người ta, quan niệm theo chủ nghĩa Gia Tô, là ở trên trời chứ không phải ở thế gian này. Thế giới này là một thế giới ngoài mình: tha hóa dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn đầu tiên và chủ yếu là mâu thuẫn giữa chính phủ và của cải, giữa chính quyền phong kiến và kinh tế hàng hóa. Mâu thuẫn đó diễn biến trong tư tưởng bằng những nhận xét về cái tốt và cái xấu. Cái tốt đây là cái giá trị của tư tưởng phong kiến, và cái xấu tức là hành động của giai cấp thương nhân. Nhưng mặt khác, chính quyền phong kiến lại dùng tiền để củng cố nhà vua, dùng tiền để mua chuộc một bọn tay sai ủng hộ mình. Như vậy, thực chất của chính quyền phong kiến cũng chỉ là của cải thôi. Và của cải là giá trị chân chính đã xây dựng nên chính quyền đó. Nhưng chính quyền đó lại đối lập với kinh tế hàng hóa. Mâu thuẫn chuyển đến một nhận xét trái ngược lại, cho cái tốt là kinh tế hàng hóa, và cái xấu là chính quyền phong kiến. Mâu thuẫn đây biểu hiện ở sự đấu tranh giữa lý tính thuần túy và tín ngưỡng: giữa tư tưởng duy lý, máy móc của tư sản và tín ngưỡng tôn giáo. Phong trào đấu tranh này phát triển nhiều nhất trong triết học Pháp thế kỷ XVIII (triết học sáng suốt). Trong cuộc đấu tranh này, lý trí thuần túy có phê bình và đả phá nhưng không tìm hiểu tôn giáo. Tính chất máy móc đó biểu hiện trong sự phê bình sự tích các thánh. Tuy rằng những sự tích này có tính chất phản tự nhiên, nhưng khi người ta đã tin thì người ta khẳng định và công nhận tính chất chân lý của nó, và người ta tìm thấy chân lý của đời sống trong câu chuyện ấy. Sự phê phán của phe duy vật có tính chất máy móc, nhưng nó thắng là vì thế giới mới là thế giới của nó. Nó thắng không phải vì lý luận của nó sâu sắc hơn, nhưng căn bản vì kinh nghiệm của thế giới mới thích hợp với nó. Phe tín ngưỡng dần dần mất tự tin, vì nó sống một cuộc đời không thích hợp với tín ngưỡng đó nữa.
Thế giới mới đó là gì? Hegel định nghĩa đó là cái thế giới ích lợi. Mọi sự việc trong thế giới đó được định nghĩa bằng giá trị lợi ích của nó. Nó khác với thế giới của thời Trung Cổ là thế giới đánh giá bằng sự trung nghĩa. Trong thế giới tư sản, khái niệm ích lợi nhằm quan hệ giữa sự việc này với sự việc kia, theo những thuộc tính cụ thể. Quan hệ máy móc đó là cơ sở của lý tính thuần túy, xét mọi sự vật theo quan hệ thực dụng của nó, không đặt vấn đề nó phục vụ cho một lý tưởng gì, mà chỉ xét tính chất của nó bằng cái tác dụng cụ thể của nó. Với kinh tế hàng hóa phát triển thế kỷ XVIII, trong cái thế giới mới đó, mọi việc được đánh giá bằng sự lợi ích, tức là theo giá trị hàng hóa. Phái tín ngưỡng thua vì không còn cơ sở tư tưởng ở thần thoại nữa. Giá trị của đời sống trong thế giới là một giá trị có thực, tức là tính chất ích lợi của mọi sự việc, nó quy định mối quan hệ giữa mỗi cá nhân với toàn thể xã hội. Trong quan hệ đó, mỗi cá nhân được đồng nhất với toàn thể xã hội. Vì nếu ta xét hệ thống quan hệ lợi ích đó, thì ta thấy đó chính là cái lợi ích cho toàn thể, tức là mọi người có quyền bình đẳng về nguyên tắc; mọi việc được xác định theo tác dụng thực tế của nó. Trước kia, mọi vật được quy định theo giá trị thần thánh của nó. Vận mệnh của mỗi người là do Chúa quy định không thay đổi. Trái lại, trong thế giới mới, mọi người được bình đẳng về hình thức, nghĩa là mỗi cá nhân có thể tự coi mình là thống nhất với toàn thể xã hội. Vì quyền sử dụng mọi vật của xã hội cũng là quyền của mỗi cá nhân, vì sự vật đó ích lợi cho tất cả mọi người.
Thực hiện quyền bình đẳng ấy là làm cách mạng tư sản, đánh đổ chế độ phong kiến, xây dựng một chế độ mới trong đó mọi người có quyền bình đẳng đối với những sự vật ích lợi đó. Hegel phản ánh quá trình cách mạng tư sản Pháp, nhưng thực tế làm thế nào tổ chức xã hội mới? Trong xã hội mới đó, mỗi người đều có quyền tự do coi mình là đồng nhất với xã hội. Mỗi người với cái ý thức đại thể của mình thì không phải là cá nhân nữa. Nhưng quyền bình đẳng đó chỉ thực hiện được khi nào phá bỏ được tính chất cá nhân của mọi người. Nếu như vậy thì đi đến kinh nghiệm cách mạng Pháp trong giai đoạn khủng bố với Robespierre. Tại sao lại có sự khủng bố đó? Vì trong một chế độ đã công nhận mọi người là bình đẳng, thì không ai có quyền đưa cá nhân mình ra để chống lại chế độ xã hội. Ai dám đưa cá nhân mình ra chống lại xã hội thì người đó phải chết thôi. Hegel rút ra kết luận rằng nếu thế thì không thể thực hiện được một cách thực tế ý thức đại thể. Vì trong thực tế, nó chỉ thực hiện được bằng cách phá cá nhân, bằng cách chém giết người. Do đó nó thất bại, phải trở lại đời sống bên trong, tức là thực hiện ý thức đại thể trong chủ quan, không còn đặt vấn đề thực hiện tinh thần trong xã hội nữa.
Phê phán
Lý luận của Hegel phản ánh cái phản ứng của giai cấp tư sản Đức lúc cách mạng Pháp bước vào giai đoạn quyết định (khủng bố). Những người trước kia thông cảm với cách mạng Pháp như Hegel và Schelling, lúc còn trẻ hào hứng đã hô hào «trồng cây tự do», để hưởng ứng cách mạng Pháp, bấy giờ đã đổi hướng. Lúc Robespierre lên cầm quyền, dùng chính sách khủng bố, thì hầu hết phong trào tư sản tiến bộ ở Đức thụt lùi, và bắt đầu đi tìm tự do trong tâm hồn, trong đời sốg bên trong. Đây là bước ngoặt trong tư tưởng Hegel, và cũng là bước ngoặt trong tư tưởng tư bản nói chung. Nó chuyển từ hướng cách mạng sang hướng bảo thủ, từ hướng duy lý đi tìm thực tế khách quan đến hướng tín ngưỡng đi tìm đời sống bên trong.
Tai sao có bước ngoặt ấy? Nghiên cứu biện chứng pháp của thế giới tha hóa, ta thấy Hegel có phản ánh đúng đắn sự diễn biến tư tưởng trong quá trình cách mạng tư sản. Từ lúc đảo lộn những nhận xét về tốt và xấu trên cơ sở kinh tế hàng hóa đã nảy nở trong chế độ phong kiến, giai cấp tư sản xây dựng được một triết học duy vật máy móc mà Hegel gọi là trí tuệ thuần túy. Rồi triết học máy móc đó thắng được tín ngưỡng, vì kinh nghiệm của đời sống mới không còn thích hợp với tín ngưỡng nữa. Nhưng vì sao tư tưởng duy vật máy móc ấy có tính chất cách mạng mà nó lại thụt lùi trước chính sách khủng bố của Robespierre? Hegel có phản ánh quá trình diễn biến tư tưởng trong cách mạng Pháp, nhưng với cái giá trị mà tự nó nhận định cho nó. Hegel cũng có phê phán nó là máy móc, khi nó không tìm hiểu tôn giáo và phê phán ra ngoài vấn đề, nhưng căn bản Hegel vẫn đứng trên lập trường của giai cấp tư sản. Căn bản, Hegel vẫn công nhận rằng thế giới hàng hóa là cơ sở chân chính để xây dựng một xã hội tự do, bình đẳng, trong đó mỗi cá nhân có cái quyền của toàn thể. Nhưng đến lúc thấy rằng lý tưởng không thực hiện được, thì Hegel mang lý tưởng ấy thực hiện trong tinh thần, qua tôn giáo và triết học duy tâm. Thực ra, Hegel có phê bình tư tưởng cách mạng tư sản, nhưng lại đứng trên lập trường tư sản. Hegel tin tưởng vào giá trị của tư tưởng đó và tìm cách duy trì nó, nhưng không tìm hiểu căn bản vì sao nó không thực hiện được trong thực tế.
Bước ngoặt đó là lúc giai cấp tư sản thấy cách xây dựng xã hội đó không thực hiện được lý tưởng của nó, hay thực hiện một cách trái ngược hẳn, nên nó đem cái tư tưởng tự do, bình đẳng ấy thực hiện trong tâm hồn. Nói một cách khác, sau khi nhận thấy rằng cái tự do, bình đẳng ấy đưa đến chính sách khủng bố, thì giai cấp tư sản trở lại với ý thức bản ngã của tinh thần, tức là tôn giáo và triết học duy tâm. Nhưng bước chuyển biến này còn trải qua một kinh nghiệm khác được Hegel diễn tả trong một đoạn rất nổi tiếng, nhan đề là «Tâm hồn tốt đẹp, tội lỗi và khoan hồng»
3 - Tâm hồn tốt đẹp.
Tâm hồn tốt đẹp là những người không xét tác dụng hành động của mình mà chỉ quy định hành động đó sở dĩ tốt là vì phù hợp với lương tâm mình. Đến lúc thấy thực tế hành động có hại, thì họ chỉ biết nói rằng: lương tâm bảo tôi làm thế, còn tác dụng tốt hay xấu, tôi không biết đến. Tâm trạng này phát triển khá nhiều trong thế kỷ XIX, và sau này nó phát triển trong toàn thể thế giới. Ta có thể rút ra kết luận rằng: không thể nào tin tưởng tuyệt đối vào lương tâm chủ quan, mà phải xét tác dụng thực tế của hành động. Nếu hành động thực tế có tác hại mà ta còn lấy lương tâm để che đậy, thì lương tâm đó cũng chỉ là giả dối.
Nhưng Hegel lại kết luận khác hẳn. Hegel cũng nhận thấy rằng bám vào lương tâm chủ quan để che đậy hành động xấu là đi đến giả dối. Nhưng Hegel lại đặt vấn đề: nếu tâm hồn tốt đẹp đó thực tế có làm nên tội lỗi, thì cái người xét xử tội ấy đứng trên cơ sở nào mà định tội? Bên có tội thì nhận rằng mình có tội. Nhưng bên kết án thì cũng chỉ có thể nói rằng bên kia có tội mà thôi. Người xét xử chỉ đứng ở ngoài mà xét đoán, chứ không biết rằng trong hoàn cảnh đó người ta phải hành động như vậy. Khi người ta đã nhận tội rồi, mà mình còn kết án thì chính người kết án là người có tội. Cuối cùng phải đi đến chỗ thông cảm với tội lỗi đó, và khoan hồng người có tội vì tội đã nhận thì không thành tội nữa. Nhưng khoan hồng trên cơ sở nào? Hegel phân tích: trong lúc hai bên thông cảm với nhau như vậy thì đều có ý thức rằng cái mình là cái mình đại thể, mình thông cảm với người khác trong cùng một ý thức bản ngã đại thể. Cái mình đại thể đó chính là Thượng đế, là ông thần xuất hiện giữa hai bên, làm cho hai bên thông cảm nhau. Đó là cái tinh thần đã có ý thức về mình, cái tinh thần của xã hội thực tế. Biện chứng pháp của tinh thần thực tế trong xã hội đưa đến tôn giáo, tức là ý thức bản ngã của tinh thần. Những ông thần được thờ trong các tôn giáo là tượng trưng cho tinh thần của dân tộc, vì chỉ có ông thần mới thống nhất được mọi cá nhân trong xã hội. Mỗi bộ tộc công nhận những ông thần riêng đã có công xây dựng nên xã hội ấy. Điểm đó Hegel nhận xét đúng.
Vấn đề tôn giáo
Nhưng các ông thần ấy tượng trưng cho giai cấp nào trong xã hội? Hẳn không phải là tượng trưng cho nhân dân. Chính những ông thần ấy là tượng trưng cụ thể cho giai cấp thống trị, cho chính quyền thống trị. Trong chế độ quân chủ thì nó tượng trưng ông vua độc đoán. Ở đây Hegel vẫn đứng trên lập trường của tư tưởng mà ông ta phê phán. Hegel nhận xét rằng tôn giáo ấy có chân lý vì nó tượng trưng cho tinh thần của xã hội, nhưng Hegel không thấy rằng tôn giáo biện chính cho chế độ thống trị, bóc lột, và đặt tất cả những giá trị, thành tích của xã hội là do ông thần xây dựng nên, tức là do giai cấp thống trị tạo ra. Thực tế giai cấp thống trị đã chiếm đoạt những thành tích, những giá trị của nhân dân.
Ở đây, Hegel bắt buộc phải bỏ cả công trình phê phán từ trước (phê phán tôn giáo, bộc lộ tính chất tha hóa của nó khi nó chuyển từ đời sống thực tế lên[13] trời, trong giai đoạn tâm hồn gian khổ) là vì Hegel đã rút lui trước thực tế khách quan của cách mạng tư sản, trước chính sách khủng bố của Robespierre. Hegel đã xóa bỏ hết cả những thành tích phê phán trước, và biện chính cho một ý thức bản ngã siêu nhiên của tinh thần tức là tôn giáo.
Chương VII - TÔN GIÁO
Những hiện tượng ý thức bản ngã của tinh thần phát triển mâu thuẫn, đi đến hiện tượng cao nhất là khoa học tuyệt đối hay triết học của Hegel, chấm dứt lịch sử.
Tôn giáo hình thái báo trước triết học Hegel.
Có 3 giai đoạn trong tôn giáo:
1 - Tôn giáo tự nhiên
2 - Tôn giáo mỹ thuật
3 - Tôn giáo linh báo.
Trong quá trình phát triển của nó, tôn giáo thực hiện từng bước cái ý nghĩa của nó, tức là xây dựng một ý tưởng trong đó tinh thần có ý thức về mình. Đó là ý thức bản ngã của tinh thần còn ở trong phạm vi ý tưởng, chưa lên tới phạm vi lý tính, nhưng ý tưởng đó có giá trị lý tính, vì trong phạm vi tưởng tượng, nó đã tượng trưng cho ý thức bản ngã của tinh thần. Sự phát triển của ý tưởng đó đi từ ngoài vào trong, chuyển qua 3 giai đoạn:
1 - Tôn giáo tự nhiên
Tôn giáo tự nhiên với những yêu tinh quỷ thần được thờ trong đời Thái tổ và Thượng cổ trước Hy Lạp. Những quỷ thần đó tượng trưng cho những thị tộc và bộ tộc thời đó, nhưng tượng trưng một cách ngoài con người. Trong những tôn giáo ấy, con người tự nhận mình trong ông thần, nhưng ông thần ấy lại đè bẹp mình với cái quyền tuyệt đối, với những hình thù quái dị, khổng lồ của ông ta.
2 - Tôn giáo mỹ thuật:
Đến giai đoạn tôn giáo Hy Lạp thì ông thần biến thành người trong những tác phẩm mỹ thuật. Đó là những con người lý tưởng, tượng trưng cho ý thức bản ngã của xã hội.
3 - Tôn giáo linh báo:
Đến đạo Gia Tô thì tôn giáo thực hiện được đối tượng của nó. Ông thần của đạo Gia Tô chính là người. Cái tính chất linh báo của đạo này bộc lộ cái chân lý: thần là người và người cũng là thần. Người tin tưởng ở thần tức là tin tưởng ở mình.
Phê phán
Trong biện chứng pháp của tôn giáo, Hegel có nêu được một số điểm đúng. Thí dụ: ông cho rằng chính thần là người. Nhưng người đó là người gì? Hegel cho đó là người chân chính, là bản ngã của tinh thần, là thực chất của xã hội, là lý tưởng của mọi người trong xã hội. Nhưng thực tế, lý tưởng đây không phải là chân lý của xã hội, tinh thần đây không phải là tinh thần chân chính của xã hội, không phải là ý thức xã hội do nhân dân xây dựng nên mà là ý thức của giai cấp thống trị. Quyền thống trị của ông thần tượng trưng cho quyền thống trị của giai cấp bóc lột. Quyền thống trị đó tự nhận nó là thực chất của đời sống xã hội. Hegel biện chính cho cái quyền bóc lột của nó, và giới thiệu nó như một chân lý. Hegel có phê phán tôn giáo, nhưng đồng thời tin tưởng và tái lập tôn giáo. Do đó, Hegel đi đến kết luận rằng muốn thực hiện được chân lý của tôn giáo thì phải kế thừa tôn giáo, và xây dựng một nền triết học theo hướng của tôn giáo tức là phủ định thế giới khách quan, cho thế giới khách quan là do tinh thần tạo ra. Nhưng theo Hegel, các tôn giáo đều có khuyết điểm là trình bày chân lý ấy trong phạm vi tưởng tượng. Nếu bây giờ vượt qua được phạm vi tưởng tượng đó mà tiến đến trình độ khái niệm thì sẽ nắm được chân lý. Hegel kết luận rằng cái chân lý của đạo Gia Tô (Thượng đế là người và người là Thượng đế) phải được thực hiện trong phạm vi khái niệm, tức là xây dựng một hệ thống triết học chứng minh rằng chân lý của thế giới khách quan không phải ở trong thế giới khách quan mà ở trong ý thức, trong tinh thần thể hiện bằng khái niệm thuần túy. Cái kết luận đó là bước đầu để chuyển sang hệ thống triết học, tức là hệ thống khái niệm xây dựng toàn bộ thực tại (tự nhiên và tư tưởng) trên cơ sở tinh thần. Hegel trình bày quá trình phát triển của thực tại từ tự nhiên đến xã hội chuyển lên tinh thần, và chứng minh cụ thể rằng thực tại là tư tưởng.
Chương VII - KHOA HỌC TUYỆT ĐỐI (Triết học)
Hệ thống triết học Hegel là hệ thống khái niệm qua 3 giai đoạn:
1. Luận lý học là tư tưởng thuần túy phát triển trong phạm vi khái niệm. Kết quả của công cuộc phát triển của tư tưởng thuần tuý càng ngày càng cụ thể. Nếu mức cụ thể tuyệt đối thì biến thành tự nhiên.
2. Tự nhiên. Với những mâu thuẫn trong nội bộ phát triển chuyển lên tinh thần. Đây là tinh thần cụ thể của người ta chứ không phải là tư tưởng thuần túy nữa.
3. Tinh thần gồm 3 phần:
a) Tinh thần chủ quan (tâm lý cá nhân)
b) Tinh thần khách quan (ý thức xã hội)
c) Tinh thần tuyệt đối (mỹ thuật, tôn giáo và triết học)
Phê phán
Từ tự nhiên lên là một quá trình diễn biến cụ thể và có thực, tuy rằng quan niệm theo duy tâm. Nhưng bước quá độ chuyển từ khái niệm tư tưởng thuần túy sang tự nhiên lại là một điểm huyền bí. Theo Hegel, tư tưởng xuất phát từ khái niệm đơn giản nhất là khái niệm thực tại (phạm trù thực tại). Do những mâu thuẫn trong thực tại nó chuyển lên thực chất. Vì thực tại gồm những sự vật xuất hiện một cách trực tiếp, vậy phải có liên quan với nhau. Do những liên quan ấy, ta phải nhận định rằng nó có thực chất. Trong thực chất lại xuất hiện mâu thuẫn nội bộ: mâu thuẫn giữa thực chất và hiện tượng, giữa bên trong và bên ngoài. Nếu thực chất và hiện tượng là một, thì hai cái không còn mâu thuẫn với nhau nữa, và nó chuyển lên khái niệm, tức là thực chất có thật, thực chất nắm được thực tế. Khái niệm lên đến ý niệm thì bao gồm toàn bộ thực tế, vậy ý niệm tức là tự nhiên. Đó là bước chuyển từ ý niệm sang tự nhiên.
Marx và Lénine có phê bình đoạn chuyển biến này. Cách chuyển biến này chứng minh rằng tự nhiên là chân lý của ý niệm. Do đó, tư tưởng phải bắt đầu bằng tự nhiên chứ không thể bắt đầu bằng lý luận được. Ý nghĩa chân chính của nó là ý nghĩa duy vật, và không thể nào ta giữ được lập trường tư tưởng thuần túy. Vì chính lập trường tư tưởng thuần túy cũng bắt buộc ta phải chuyển sang tự nhiên.
Nhưng tại sao Hegel đảo lộn cái chân lý ấy, và cho rằng chính tự nhiên xuất phát từ tư tưởng thuần túy? Trở lại nguồn gốc của hệ thống triết học Hegel trong cuốn Hiện tượng luận của Tinh thần, ta sẽ thấy cơ sở của lập trường duy tâm tuyệt đối. Cơ sở đó là toàn bộ kinh nghiệm của lịch sử tư tưởng loài người từ Cổ đại đến thời kỳ cách mạng tư sản. Hegel thu thập những kinh nghiệm ấy, nhưng lại đứng về phe thống trị để mà phê phán. Hegel có bộc lộ những mâu thuẫn trong xã hội nô lệ, rồi xã hội phong kiến, nhưng Hegel đã đứng trên lập trường của chủ nô và phong kiến. Rồi sau này, Hegel lại đứng trên lập trường giai cấp tư sản mà bộc lộ những mâu thuẫn của xã hội tư bản trong đó con người bị tha hóa. Mâu thuẫn cuối cùng trong tư tưởng tư sản là mâu thuẫn giữa lý tưởng và thực tế. Trong cách mạng thì giai cấp tư sản đề ra khẩu hiệu đấu tranh chống phong kiến, để thống nhất xã hội trên cơ sở tự do bình đẳng. Nhưng trong thực tế khách quan, khi cách mạng đã hoàn thành, thì nó làm ngược lại. Trong khi trình bày và phê phán mâu thuẫn đó, Hegel vẫn đứng trên lập trường tư sản: Hegel công nhận rằng lý tưởng ấy không thể thực hiện được trong thực tế, nhưng Hegel duy trì nó, và nói rằng nó có thể thực hiện được trong tinh thần. Theo Hegel, sở dĩ nó thực hiện được là nhờ có ý thức bản ngã của tinh thần, tức là tôn giáo chuyển lên hình thái triết học duy tâm tuyệt đối. Hegel đã giải quyết những mâu thuẫn của tư tưởng giai cấp thống trị trên cơ sở giai cấp thống trị. Do đó, Hegel biện chính cho chế độ thống trị trong tinh thần, trong phạm vi tư tưởng, vậy nhất định cũng phải biện chính nó trong thực tế. Xét hệ thống triết học duy tâm tuyệt đối, ta thấy Hegel đi đến chỗ biện chính cho chế độ chính trị hiện hành, tức là chế độ quân chủ lập hiến của Nhà nước Phổ[14] lúc bấy giờ. Hegel đã bác bỏ những thành tích tương đối tiến bộ của cách mạng tư sản trong giai đoạn «tự do tuyệt đối và chế độ khủng bố» và cho rằng tự do tuyệt đối không thể thực hiện được. Rồi một khi đã phát triển hệ thống triết học, ông lại kết luận rằng chính Nhà nước Phổ đã thực hiện được tự do tuyệt đối.
Vì sao với một phương pháp tư tưởng có phần căn bản chân chính, có bộc lộ được những mâu thuẫn thực sự trong lịch sử mà Hegel lại đi đến chỗ bảo thủ, đề cao chế độ Nhà nước Phổ là chế độ phản động nhất nhì ở Âu châu, sau Nga Hoàng?
Tại sao Hegel lại kết luận rằng chính chế độ quân chủ lập hiến của Phổ đã thực hiện được ý niệm tự do tuyệt đối?
Đó là vì phương pháp biện chứng ngay từ đầu đã bị lộn ngược. Ngay từ đầu, Hegel đã đứng trên lập trường của phe thống trị mà bộc lộ mâu thuẫn, từ chủ nô đến phong kiến đến tư sản. Đến giai đoạn tư sản thống trị thi Hegel đề cao tất cả những chế độ thống trị cũ, cho rằng những chế độ ấy đều là đúng, và những tôn giáo cũ đều là chân chính cả. Trong đó còn có những phần thiếu sót mà Hegel tự đảm nhận trách nhiệm sửa chữa và hoàn thành.
Nhưng dù sao, với cách sử dụng biện chứng pháp đó Hegel cũng có nắm được những phạm trù phổ cập nhất của thực tại biển chuyến, và chính những phạm trù đó lộn lại sẽ thành cái tiền đề cho phương pháp biện chứng duy vật. Marx và Engels đã có công trình rút kinh nghiệm của biện chứng pháp duy tâm và bộc lộ phần chân chính của nó, phát triển biện chứng pháp duy vật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét