Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
- Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Nhìn chung, có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.
2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
2.1. Nguồn gốc lí luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng!........
______________________________
Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước.
Nhà nước là gì?
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ chế độ kinh tế hiện có và đàn áp các giai cấp khác.
Nhà nước là cơ quan quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, là một tổ chức quan trọng nhất trong các tổ chức chính trị của giai cấp cầm quyền dùng để thống trị xã hội.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, không đồng nghĩa với xã hội.
1. Nguồn gốc ra đời của Nhà nước.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển của lịch sử. Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại của nó không còn nữa. Trong lịch sử đã có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và sau này nhà nước cũng sẽ mất đi khi điều kiện tồn tại của nó không còn.
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy rằng xã hội nguyên thủy, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, với sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng - chủ nô và nô lệ - thì mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô thống trị bóc lột và giai cấp nô lệ bị thống trị, bị bóc lột ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô do vậy đã diễn ra ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp nô lệ và buộc họ phải tuân theo trật tự do giai cấp mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà nước xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện của nó cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên.
Như thế là bất kỳ ở đâu và lúc nào khi mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì ở đó nhà nước sẽ xuất hiện. Cũng như thế, nơi nào có nhà nước xuất hiện và tồn tại thì chừng đó ở đó có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đó là nguồn gốc ra đời của Nhà nước.
Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước sẽ xuất hiện và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
Như vậy sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan của xã hội có giai cấp đối kháng. Sau này, khi xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp đối kháng thì nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong.
Hiện tại, nhà nước của giai cấp công nhân, gọi là nhà nước chuyên chính vô sản là một hình thức nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa của nó, là nhà nước “nửa nhà nước” để tiến tới xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn nhà nước. Nhưng sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lại là một tất yếu vì nó là công cụ sắc bén trong tay giai cấp công nhân dùng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới.
2. Bản chất của nhà nước.
Nhà nước không phải là hiện tượng bẩm sinh, có sẵn, cũng không phải là được sinh ra từ bên ngoài xã hội rồi áp đặt vào xã hội; cũng không phải là cái do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào đó quyết định, mà sự ra đời và tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan do nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai cấp, làm cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích kinh tế đối kháng nhau không đi đến chỗ tiêu diệt nhau và giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự của nó, đó là trật tự duy trì chế độ kinh tế mà trong đó giai cấp thống trị vẫn tiếp tục thống trị và bóc lột giai cấp
http://giaoan.violet.vn/present/show/entry_id/7867070
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét