Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

Khái lược lịch sử triết học trước Mác và phương Tây hiện đại

Khái lược lịch sử triết học trước Mác và phương Tây hiện đại

Cấu trúc của triết học được xác lập trong quá trình tự xác định đối tượng của chính triết học và sự phân chia chính bên trong triết học đã xuất hiện những ngành của triết học như: bản thể luận- là học thuyết về tồn tại (hay là về cái đầu tiên của toàn bộ cái cơ bản); nhận thức luận- học thuyết nhận thức, lôgíc- khoa học về các hình thức của cái đúng của tư duy (tư duy liên kết, tư duy suy luận và tư duy chứng minh); triết học lịch sử, đạo đức, luân lý và mỹ học.

 CHƯƠNG I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Cấu trúc của triết học Mác-Lênin- đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và cùng với nó, trong sự thống nhất gắn bó không tách rời là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong thành phần của triết học Mác-Lênin còn có những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên, tâm lý học, lôgíc học, đạo đức học, mỹ học, chủ nghĩa vô thần khoa học và lịch sử triết học. Triết học- đó không chỉ là lý luận của biện chứng khách quan và lôgíc của nhận thức khoa học, mà còn là lý luận của học thuyết xã hội học chung, của học thuyết đạo đức học và mỹ học.

Phương pháp tư duy triết học là tư duy lý luận. Loại tư duy dựa vào việc tổng kết kinh nghiệm của nhân loại, thành quả của khoa học và của văn hoá nói chung.

Triết học Mác-Lênin, định hướng vào sự phản ánh tương ứng, chân thực các qui luật của tự nhiên và trên cơ sở đó, thấy trước những sự kiện, biến cố của tương lai. Khi áp dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật và dựa vào sự nhận thức các qui luật của sự phát triển của xã hội, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã tiên đoán được thời đại của những sự thay đổi xã hội sâu sắc rất lâu trước khi điều đó xẩy ra.

Cùng với những vấn đề trên, triết học Mác-Lênin có sự khác biệt sâu sắc với bất kỳ một khoa học chuyên ngành nào, trước hết ở chỗ, triết học là thế giới quan của giai cấp công nhân- đó là đặc thù chính của triết học Mác-Lênin. Đưa ra và phát triển thế giới quan khoa học là sứ mạng lịch sử của triết học Mác-Lênin. Hệ thống triết học đó không chỉ gắn trong mình học thuyết về bản chất và các qui luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà còn đưa ra những tư tưởng và các quan điểm về đạo đức, luân lý, nghĩa là triết học Mác-Lênin không chỉ phản ánh những qui luật của hiện thực, mà còn thể hiện mối quan hệ của con người và của các nhóm người với hiện thực đó.

II. Vấn đề cơ bản của triết học.

a. Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học nào đều là vấn đề về mối quan hệ gữa tồn tại với tư duy, giữa cái tinh thần với cái vật chất, giữa cái chủ quan với cái khách quan.

"Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại nhất, là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại" (Ph.Ăngghen: Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức/C.Mác và Ph. Ăngghen: t.21, tr.282). Cái gì sinh ra và qui định cái gì- thế giới vật chất sinh ra và qui định thế giới tinh thần, hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và qui định thế giới vật chất- đó là mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học; giải quyết mặt này như thế nào chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối lập nhau là trường phái duy vật và trường phái duy tâm.

Vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại còn chỉ ra và giải thích tính chất của mối liên hệ giữa khách thể và chủ thể nhận thức- đó là mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa Mác cho rằng, vật chất là thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài, có trước và không phụ thuộc vào ý thức, đồng thời coi ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao, khảng định ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Triết học Mác đưa ra và khảng định nguyên tắc tính nhận biết của thế giới, xem xét nhận thức và lý luận là sự phản ánh hiện thực khách quan.

b. Ngoài mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại, vấn đề cơ bản của triết học còn là mối quan hệ của con người với thế giới như là với thể thống nhất bao gồm cả chính bản thân con người, như là với phần nhận thức và với phần tự nhận thức. Nhận thức của con người về thế giới, tự nhận thức vị trí của mình trong thế giới đó là một quá trình lịch sử-xã hội, quá trình này được phát triển dựa trên cơ sở của thực tiễn lịch sử-xã hội- đó là các nguồn gốc, các mục đích và là một trong những đối tượng quan trọng của nhận thức triết học. Theo nghĩa này, học thuyết Mác-Lênin về nhận thức có sự phân biệt sâu sắc với kiểu nhận thức luận cũ mang tính tự phát, cách tiếp cận hạn hẹp, đơn lẻ và mang tính phản lịch sử. Khi bao hàm trong các nguyên tắc của mình vấn đề tồn tại và tư duy trong tính thống nhất nhưng không đồng nhất của chúng, lý luận nhận thức của triết học Mác-Lênin đã vượt qua khoảng cách giữa bản thể luận và nhận thức luận của các hệ thống triết học trước đó: Phép biện chứng duy vật "...được gọi là phép biện chứng chủ quan, tư duy biện chứng, chỉ là phản ánh sự vận động đang thống trị trong toàn giới tự nhiên..." (C.Mác và Ph. Ăngghen: t.20, tr.526)- là sự phản ánh không hoàn toàn đồng nhất với hiện thực, chỉ là sự phản ánh gần đúng, sự phát ánh đã phát triển mang trong mình dấu ấn đặc thù của nhận thức tích cực, chủ động và sáng tạo của chủ thể nhận thức.

Triết học Mác-Lênin, trong sự đối lập với chủ nghĩa duy tâm, coi lĩnh vực nhận thức không phải là lĩnh vực tuyệt đối của tinh thần đã bị tách rời khỏi thế giới và thống trị trên thế giới, mà là sự phản ánh thế giới đó. Bởi vậy, sự phân tích tư duy theo mặt nội dung của nó có nghĩa đồng thời cũng là sự phân tích chính thực tại- cái đã tạo thành nội dung của tư duy, và đó cũng chính là sự phân tích những hoạt động thực tiễn của con người.

III. Khái lược lịch sử triết học trước Mác.
1. Triết học thời cổ, trung đại. Lần đầu tiên các học thuyết triết học xuất hiện vào khoảng hơn 2.500 năm trước ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp cổ đại v.v.
- Những hệ thống triết học đầu tiên của HyLạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và tính biện chứng ngây thơ. Hình thức biện chứng đầu tiên trong lịch sử triết học là phép biện chứng cổ đại, mà đại biểu lớn nhất là Hêraclít (khoảng 540-480 tr.c.n). Thuyết nguyên tử của chủ nghĩa duy vật được Đêmôcrít (khoảng 460-370 tr.c.n) đưa ra; ý tưởng đó của ông được Êpiquya (341-279 tr.c.n) và Lu cờ ren ci phát triển. Nhà triết học đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm là Platôn (427-347 tr.c.n), ông là người phát triển biện chứng sâu sắc mối liên hệ của các khái niệm. Triết học cổ đại phát triển tới cực điểm nhờ Arítxtốt (384-322 tr.c. n), người đã tạo ra hệ thống chung nhất về khối lượng của tri thức khoa học-triết học.
2. Triết học thời Trung cổ. Cùng với sự xuất hiện của chế độ phong kiến, Thiên chúa giáo đã ngự trị thế giới quan ở Tây Âu. Giai đoạn đầu của triết học Thiên chúa giáo trong thời kỳ Trung cổ là Pa tri xti ca (ẽàũðốủũốờà), trên cơ sở của Patrixtica, chủ nghĩa kinh viện đã thống trị trong các thế kỷ từ IX đến XII. Chủ nghĩa kinh viện được coi là mục đích của triết học trong sự biện giải của các nhà giáo điều. Trong các thế kỷ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV xẩy ra cuộc tranh luận giữa thuyết duy thực (thực thể luận) (đại diện là A.Kentơ rờ beri xki. Phôma Ăcvinxki)- thuyết này khảng định sự tồn tại nằm bên ngoài trí tuệ con người với thuyết duy danh (đại diện là Rốt xelin, Đunxcốt, Occam)- thuyết này công nhận sự tồn tại hiện thực chỉ của các sự vật đơn nhất. Kết quả của cuộc tranh luận trên là sự thể hiện của cuộc đấu tranh giữa xu hướng duy vật và xu hướng duy tâm. Hướng chủ đạo của triết học Ả rập thời Trung cổ là hệ thống triết học Pe ri pa tét phía Đông (xem: trường phái Peripatét) với những người chỉ hướng và phát triển các học thuyết của mình như: Kin đi, Pha ra bi, I bi, Xin na, Ibi Rusd.
3. Triết học thời Phục hưng. Sự phát triển của nền sản xuất vật chất, cuộc đấu tranh giai cấp trong phương thức sản xuất phong kiến ngày càng trở nên gay gắt hơn đã dẫn tới điều tất yếu là chủ nghĩa tư bản phải thay thế chủ nghĩa phong kiến. Sự phát triển của kỹ thuật và tri thức tự nhiên đòi hỏi phải giải phóng văn hoá tinh thần khỏi sự thống trị của thế giới quan duy tâm-tôn giáo. "Cú đấm" đầu tiên vào bức tranh tôn giáo của thế giới là của những nhà tư tưởng vĩ đại thời kỳ Phục hưng như Côpécníc (1473-1543, Ba lan), Galilê (1564-1642, Italia), Mônten, Campanella v.v. Các tư tưởng của những nhà tư tưởng thời kỳ Phục hưng là sự phát triển triết học của thời đại mới. Sự tiến bộ của tri thức kinh nghiệm, của khoa học đã đòi hỏi sự thay thế phương pháp kinh viện của tư duy bằng phương pháp mới của sự nhận thức: phương pháp tiếp cận thế giới hiện thực. Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và những thành tố của phép biện chứng ra đời và phát triển; nhưng chủ nghĩa duy vật thời đó, về tổng thể, là chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
4. Triết học thời cận đại. Người đầu tiên sinh ra chủ nghĩa duy vật thời cận đại là Ph.Bêcơn (1561-1626, Anh), người cho rằng mục đích tối cao của khoa học là bảo đảm cho sự thống trị của con người đối với tự nhiên. T.Hốpxơ (1588-1679, Anh) là người sáng lập ra hệ thống toàn diện đầu tiên của chủ nghĩa duy vật máy móc. Nếu như Ph.Bêcơn và T.Hốpxơ, trong chừng mực nào đấy, đưa ra phương pháp nghiên cứu trực quan về giới tự nhiên, thì R.Đềcáctơ (1596-1650, Pháp) là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý, cố soạn ra một phương pháp chung cho mọi khoa học. Tính chất đặc trưng của học thuyết đó là tính nhị nguyên: cái "biết suy nghĩ" và cái "quảng tính" của thực thể. B.Xpinôda (1632-1677, Hà lan) chống lại tính nhị nguyên của Đềcáctơ bằng chủ nghĩa nhất nguyên duy vật. Lốccơ (1632-1074, Anh) phát triển thuyết duy cảm (cảm giác luận). Các tư tưởng đối lập với chủ nghĩa duy vật được phát triển bằng chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong các phương án khác nhau của nó (Béccơli (1685-1753), Hium (1711-1776)). Liêybờnhít (Liebniz 1646-1716) cũng soạn ra học thuyết duy tâm khách quan, trong đó thể hiện ra một loạt các tư tưởng biện chứng.
Nửa cuối của thế kỷ XVIII là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa phong kiến ở nước Pháp và là thời kỳ của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng đặt lên vai các nhà triết học duy vật Pháp như La Mêtri (1709-1751), Điđrô (1713-1784), Hônbách (1723-1789), Henvenxi, họ là những nhà tư tưởng chống lại thần học và chủ nghĩa duy tâm. Đặc điểm nổi bật của triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII là sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức trong sự phát triển của xã hội, nhận thức duy tâm về lịch sử.
Giai đoạn quan trọng của lịch sử triết học Tây Âu là triết học cổ điển Đức (Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen là những người phát triển phép biện chứng duy tâm). Đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức là phép biện chứng của Hêghen (1770-1831), mà hạt nhân của phép biện chứng đó là học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Phoiơbắc (1804-1872) chống lại triết học duy tâm và tôn giáo, phát triển học thuyết về chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Vào các thế kỷ XVIII-XIX, tư tưởng triết học duy vật tiến bộ đã phát triển ở nước Nga. Tư tưởng đó đã đi vào truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật, mà người đầu tiên sinh ra tư tưởng đó là M.V.Lômônôxốp (1711- 1765) và tư tưởng đó, bắt đầu từ Rađisép, vững bước đi vào thế giới quan của những nhà hoạt động xã hội tiên tiến của nước Nga. Trong các tác phẩm của V.G.Bêlinxki (1811-1848), A.I.Gécxen (1812-1870), N.G. Trernưxépxki (1828-1889), N.A. Đốpbờraliubốp (1836-1861) và của những người bạn chiến đấu của họ và những người đi sau họ đã tạo ra được sự phát triển của triết học cách mạng dân chủ Nga, gắn trong mình một nấc thang mới trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
5. Sự hình thành và phát triển của triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác là một bộ phận của chủ nghĩa Mác nói riêng, xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi giai cấp vô sản thể hiện mình trên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Tính cấp thiết về kinh tế-xã hội, khoa học-lý luận và chính trị trực tiếp quy định sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác. Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác là sự trả lời khoa học cho các vấn đề xuất hiện trong quá trình phát triển của thực tiễn xã hội và của sự vận động lôgíc nhận thức của con người. C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã phân tích một cách sâu sắc và có phê phán thực tiễn xã hội trên cơ sở kế thừa biện chứng và sắp xếp lại các ưu điểm đã có trong lĩnh vực triết học và tư tưởng xã hội trước để xây dựng một thế giới quan mới về chất.
a. Các tiền đề của sự hình thành và phát triển triết học Mác
Tiền đề kinh tế - xã hội của triết học Mác.
- Chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu tiên tiến.
Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đi vào giai đoạn phát triển mới. Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt. Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn các lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
- Thời kỳ đã diễn ra những mâu thuẫn không thể điều hoà giữa vô sản và tư sản.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ ngày càng sâu sắc. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá quá trình sản xuất và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính tư hữu trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và phân phối sản phẩm lao động. Những người lao động bị bần cùng hoá vì bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Giai cấp tư sản không còn là giai cấp cách mạng trong xã hội.
- Giai cấp vô sản đã ý thức được những lợi ích căn bản của mình và tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Sự đấu tranh của giai cấp vô sản với tính cách là một lực lượng chính trị xã hội độc lập xuất hiện mang ý nghĩa đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
+ Ở thời kỳ đầu, phong trào công nhân còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức với hình thức đấu tranh cơ bản là đấu tranh kinh tế. Giai cấp công nhân còn chưa hiểu được những nguyên nhân làm nên nỗi khổ của mình.
+ Cuối thế kỷ XVIII, giai cấp công nhân Anh, Pháp đã sử dụng hình thức đấu tranh mới. Đó là đình công, bãi công mang tính chất quần chúng rộng rãi kết hợp với biểu tình tuần hành.
+ Vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX đã có những biến đổi sâu sắc trong phong trào công nhân. Những cuộc đấu tranh đầu tiên có tính tự giác xuất hiện, khởi nguồn là cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt Ly-ông (1831 & 1834), cuộc nổi dậy có tính cách mạng của công nhân Pa-ri (1832), cuộc nổi dậy của thợ dệt Đức (1844) và phong trào Hiến chương ở Anh (1830-1840).
Như vậy, phong trào công nhân thời kỳ này đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong quan niệm về lịch sử, nảy sinh nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng để vạch trần những sai lầm cho rằng nhà tư bản và người lao động có thể sống chung, cùng hạnh phúc trong xã hội tư bản; để thay đổi những quan niệm cũ về lịch sử bằng những quan niệm mới: trả lời một cách rõ ràng những vấn đề mà mọi giai cấp trong xã hội quan tâm là số phận của loài người sẽ ra sao; những lực lượng nào đóng vai trò chủ yếu trong cuộc đấu tranh cho tương lai của nhân loại; giai cấp vô sản có sứ mệnh gì trong lịch sử.
Thực tiễn cách mạng của phong trào công nhân nảy sinh yêu cầu khách quan là những vấn đề mà thời đại đặt ra phải được soi sáng bằng lý luận khoa học, được giải đáp về mặt lý luận khi đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
Những điều đó nói lên rằng, nhu cầu xã hội đã chín muồi để xuất hiện một thế giới quan triết học mới: thế giới quan triết học mácxít.
Tiền đề lý luận của triết học Mác.
- Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là các học thuyết của hai đại biểu tiêu biểu là Hêghen (1770-1831) và Phoiơbắc (1804-1872), là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đó là những hạt nhân hợp lý của tư tưởng biện chứng Hêghen và các tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học Phoiơbắc.
- Kinh tế chính trị học Anh mà đại biểu là A. Smít và Đ. Ricácđô với lý luận giá trị lao động là yếu tố không thể thiếu trong sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài của Xanh Xi mông, S. Phuriê và Ôoen về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của họ đối với chủ nghĩa tư bản.
- Các tác phẩm của các nhà sử học Pháp thời kỳ Khai sáng (Thêri, Gigiô, Minhe v.v.). Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng.
Tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh rằng, sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng mà không có lực nào mất đi cả, không có sự phát sinh và mất đi của năng lượng mà chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác.
- Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển chung của các cơ thể thực vật và động vật. Thuyết này xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thái giữa giới động vật và giới thực vật, giải thích quá trình phát triển của chúng, phá bỏ quan niệm siêu hình khi không nhận thấy sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thái giữa giới thực vật và động vật.
- Thuyết tiến hoá đã giải thích một cách duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật đã đem lại cho sinh học cơ sở thật sự khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Các thành tựu (phát minh) trên đã cho thấy sự tiến bộ về chất của khoa học là tiền đề của sự tiến bộ của triết học: cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên, không phải chỉ riêng sức mạnh của tư duy, mà cái đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ, ngày càng nhanh chóng và mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công nghiệp.
b. Bản chất và những đặc điểm chính của bước ngoặt cách mạng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện trong triết học.
Tính khoa học của triết học Mác
Các ông đã xây dựng nên thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, được thể hiện trong việc soạn ra chương trình khoa học cho công cuộc xây dựng xã hội cộng sản, đem chương trình đó- chương trình của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản- gieo vào mảnh đất của các quan hệ tư bản chủ nghĩa; chuyển chủ nghĩa duy vật vào sự nhận thức xã hội và lịch sử của nó; thống nhất sáng tạo chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, nhờ đó, dẫn tới sự ra đời hệ thống chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Tính cách mạng của triết học Mác. Dù là sự tổng hợp của sự phát triển của thực tiễn xã hội và của nhận thức khoa học, nhưng triết học Mác đã thể hiện tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Khảng định sự khác biệt về chất của triết học Mác đối với những hệ thống triết học trước đó, V.I.Lênin viết: "áp dụng phép biện chứng duy vật vào việc soạn thảo ra kinh tế chính trị, và từ cơ sở này- vào lịch sử, vào khoa học tự nhiên, vào triết học, vào chính trị và vào chiến lược của giai cấp công nhân- Đó là những gì mà C.Mác và Ph.Ăngghen quan tâm hơn cả, đó là những gì mới nhất, bản chất nhất mà họ mang lại, đó là bước tiến thiên tài trong lịch sử tư tưởng cách mạng" (V.I.Lênin: t.24, tr.264).
c. Giai đoạn Lênin trong triết học Mác. Giai đoạn mới trong sự phát triển của triết học Mác gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin (1870-1924), Người đã hoàn thiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trên cơ sở phân tích đặc điểm và tổng hợp những thành tựu của khoa học tự nhiên trong thời đại mới của chủ nghĩa tư bản- thời đại đế quốc chủ nghĩa.
V.I.Lênin đã phát triển một cách toàn diện lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng- chỉ ra tính biện chứng của quá trình nhận thức, đưa ra học thuyết về vai trò của thực tiễn trong nhận thức, đưa ra học thuyết về chân lý, trong đó chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phân chia sự phát triển biện chứnglà phươngpháp khoa học của sự nhận thức và cải tạo thế giới. Người phê phán mạnh mẽ những hình thức khác nhau của chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri trong triết học cũng như trong khoa học, đưa ra tính cần thiết của liên minh giữa các nhà triết học với các nhà thực nghiệm khoa học tự nhiên.
V.I.Lênin đã đưa ra và giải quyết các vấn đề của tồn tại xã hội và ý thức xã hội, hình thái kinh tế-xã hội, của giai cấp, của nhà nước, quan hệ dân tộc, của nhân tố chủ quan, phát triển học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.
Di sản triết học của V.I. Lênin trong thời đại hiện nay trở thành cơ sở lý luận của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong triết học mácxít. Tuy vậy, bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX, các học thuyết hệ tư tưởng và tầm thường hoá triết học đã thống trị trong triết học mácxít. Về bản chất, các học thuyết đó đã xa rời những nguyên tắc cơ bản của triết học Mác-Lênin. Triết học trở thành công cụ biện hộ về mặt tư tưởng cho sự trấn áp chính trị, cho hệ thống chuyên quyền - quan liêu, tích cực tham gia vào sự hỗn độn của thuyết tương đối, cơ học lượng tử, gien, vào một loạt xu hướng của thuyết không thể biết mới và vào các khái niệm trong lĩnh vực khoa học xã hội. Điều này đã mang lại những tổn thất không nhỏ cho khoa học nói riêng và xã hội nói chung.
Đại hội Đảng Cộng sản Liên-xô lần thứ XX đã đem lại động lực mới cho sự nghiên cứu sáng tạo trong lĩnh vực triết học mácxít. Trong những năm giữa của những năm 50 của thế kỷ XX đã bắt đầu hình thành một loạt những hướng nghiên cứu mới như: những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên, lôgíc học và phương pháp luận khoa học, mỹ học, đạo đức học, xã hội học v.v. Tuy nhiên, về tổng thể, triết học mácxít không vượt qua được ảnh hưởng làm mình biến dạng của hệ thống quan liêu - bao cấp- không chỉ một lần trượt khỏi khoa học triết học, chống lại những hướng đi và những tư tưởng mới.
6. Những đòi hỏi cơ bản đối với triết học hiện nay là triết học phải đối mặt với cuộc sống muôn hình, muôn vẻ. Muốn vượt qua được sự cách biệt giữa triết học với cuộc sống hiện thực của con người và của xã hội loài người thì triết học phải từ bỏ những lập luận trừu tượng và những học thuyết lý luận kinh viện, phải từ bỏ các quan hệ khống luận, các quan hệ biện luận tới hiện thực, phải loại bỏ những hệ thống tưởng tượng, giáo điều, sao y bản chính mà triết học mácxít đã mắc phải.
a. Trong thời đaị hiện nay, một trong những nhiệm vụ chính của triết học mácxít là
- Nghiên cứu học thuyết duy vật biện chứng và các nguyên lý, qui luật, phạm trù của học thuyết đó trong mối quan hệ tác động qua lại với triết học xã hội, với sự nghiên cứu mang tính triết học của khoa học, với triết học văn hoá và với sự nghiên cứu triết học-lịch sử.
- Hướng quan trọng nhất trong lĩnh vực chủ nghĩa duy vật lịch sử là nghiên cứu quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, nghiên cứu sự biện chứng của xã hội xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn chuyển hoá của nó vào hình thức mới về chất, nghiên cứu bản chất và tính chất của các mâu thuẫn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu những cơ cấu của những mâu thuẫn đó và các phương pháp giải quyết chúng.
- Đặc biệt cấp thiết là sự nghiên cứu mang tính triết học về sự lớn mạnh của vai trò con người trong sự phát triển bước đầu của xã hội mới, nghiên cứu một cách tổng hợp những hình thái khác nhau hoạt động sống, mục đích, lý tưởng và các giá trị của nó. Cùng với sự nghiên cứu những vấn đề đó là vấn đề không tách rời- nhiệm vụ xây dựng một thế giới quan khoa học.
- Làm phong phú một cách sáng tạo những tư tưởng triết học chỉ có thể khi và trên con đường phân tích những yếu tố hiện thực, phân tích lôgíc khách quan của cuộc sống, đưa ra những tư tưởng so sánh, đối chiếu được cho các xu hướng có tính tìm tòi, tạo ra những cuộc tranh luận về những vấn đề xuất hiện từ chính cuộc sống.
b. Triết học không mácxít giữa thế kỷ XIX-XX.
- Vào những năm 40-60 của thế kỷ XIX, trong triết học Tây Âu, các hình thái kinh điển của chủ nghĩa duy tâm trượt vào sự thoái trào. Là sự phản ứng với triết học duy tâm (trước hết với triết học cổ điển Đức), xuất hiện "chủ nghĩa duy vật tầm thường" (Buxnher, Phốcxtơ, Malêsốt) mang tính siêu hình, máy móc; dựa trên tính đặc biệt của nhận thức, chủ nghĩa duy vật tầm thường đã đồng nhất nhận thức với các hiện tượng và các quá trình vật chất. Vào thế kỷ thứ XIX, xuất hiện "chủ nghĩa thực chứng" (Côngtơ, Mill, Spenxer)- đó là trường phái triết học duy tâm chủ quan, phủ định tính thế giới quan của triết học, giải thích cơ sở của thế giới bằng ý chí, như là cái tự phát ban đầu, E. Gartman phát triển "quan niệm ý chí luận" (thuyết ý chí) và "chủ nghĩa bi quan" của Sôpengauer về thế giới. Vào những năm 70-80 của thế kỷ XIX, dưới khẩu hiệu "Quay lại với Cantơ", xuất hiện "chủ nghĩa Cantơ mới", chủ nghĩa này được phát triển tiếp vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Vinđenbanđ, Ríchkert, Natôri, Côgen, Cáccirer).
- Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bắt đầu hình thành các trường phái chính của triết học không mácxít của thế kỷ XX. ảnh hưởng lớn nhất là "chủ nghĩa trực giác" (linh cảm) của Bergxơn- chủ nghĩa này đối lập với nhận thức duy lý- "nhận thức được" trực giác đối với cuộc sống.
Sự phục sinh của triết học tự biện là "chủ nghĩa Hêghen mới" (Bređli, Grin, Rôix, Crôche, Crônher, Libert)- chủ nghĩa này phục hồi tính phi lý trong phép biện chứng của Hêghen, một trong những hướng của "chủ nghĩa thực chứng đầu tiên" (thứ nhất) là chủ nghĩa Makhơ (chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán), những người sáng lập ra nó là Makhơ và Avennariút cho rằng, nhận thức của con người là công cụ của sự tiếp cận sinh học tới tự nhiên, bỏ qua nguyên tắc tư duy kinh tế.
- Vào đầu thế kỷ XX, "chủ nghĩa thực dụng" (Pirx, Dzemx, Diup) đã gây được ảnh hưởng lớn, chủ nghĩa này có xuất phát điểm từ sự lý giải chân lý chỉ là điều có ích thiết thực mà phủ định những lợi ích khách quan của cá nhân.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng xuất hiện trường phái "triết học cuộc sống" (Nhítxe, Đintêy, Zimmen). Hùa theo học thuyết của Nhítxe là quan điểm phi lý của Spengler.
- Sau thắng lợi của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) vĩ đại, giai đoạn mới trong sự tiến hoá của triết học không mácxít bắt đầu. Xuất hiện những trường phái và những xu hướng đặt cho mình nhiệm vụ xây dựng lại chủ nghĩa duy tâm kiểu mới.
Có ảnh hưởng hơn cả trong triết học duy tâm thế kỷ XX là chủ nghĩa "hiện tượng tiên nghiệm" (hiện tượng lạ kỳ, đặc biệt) của Guxxerl, lúc đầu, chủ nghĩa này chỉ cố gắng chuyển triết học vào "khoa học nghiêm túc", còn về sau, chủ nghĩa này tiến tới quan niệm của sự khủng hoảng của khoa học và văn hoá Châu Âu nói chung.
Một trong những nhà sáng lập ra triết học "nhân bản hiện đại" là Seler, người đã đặt vấn đề con người và vị trí của con người vào trung tâm học thuyết triết học của mình.
- Vào những năm 10 đến những năm 20 của thế kỷ XX, xuất hiện "chủ nghĩa tự nhiên mới" (Mur, Perri, Kholt, Montegiu); "Xu hướng vũ trụ học" trong chủ nghĩa tự nhiên mới (Alếchxanđơ, Uaitkhed, Smetx) đã phát triển quan niệm siêu hình "sự tiến hoá êmerđzent".
- Vào những năm 20-30 của thế kỷ XX, xuất hiện "chủ nghĩa tự nhiên phê phán" (Santanna, Stroig, Dreic)- như là sự phản ứng lại chủ nghĩa tự nhiên mới.
+ Nửa đầu đến giữa thế kỷ XX Một trong những hướng chính của triết học Phương Tây là "chủ nghĩa thực chứng mới" (Raxxel, Vitgenstein, Carnap, Slik, Nhieirat), chủ nghĩa này phủ định khả năng của triết học như là khả năng của học thuyết lý luận nhận thức của những vấn đề mang tính thế giới quan, đối lập khoa học với triết học, đưa nhiệm vụ của triết học tới sự phân tích lôgíc ngôn ngữ của khoa học. Đồng thời, những đại biểu trên của chủ nghĩa thực chứng mới đã có những vai trò nhất định trong việc phát triển lôgíc hình thức hiện đại. Các trường phái chính của chủ nghĩa thực chứng mới là "chủ nghĩa lôgíc kinh nghiệm" (Carnap, Phranx, Rieykhenbắc), "chủ nghĩa lôgic thực dụng" (Cuain, Guđmen) và "triết học ngôn ngữ học" (Vitgenstein về sau, Rail, Oxtin, Xtrôixốp, Uixdom), những người đã chuyển hoá sự nghiên cứu triết học thành sự nghiên cứu ngôn ngữ học.
+ Nửa đầu đến giữa thế kỷ XX, "chủ nghĩa cá nhân" (Braitmen, Munhie, Lacruia, Phliuelling) cũng có được sự ảnh hưởng nhất định nào đó- đây là xu hướng tôn giáo-duy tâm, cho rằng cá nhân cao hơn giá trị tinh thần, còn toàn bộ thế giới- đó là sự thể hiện tính tích cực của "cá nhân cao nhất"- Chúa Trời.
+ Một trong những hướng chủ đạo của triết học Tây Âu giữa thế kỷ XX là "chủ nghĩa hiện sinh". Hướng chính của chủ nghĩa đó là "chủ nghĩa hiện sinh "vô thần"" (Starte, Camiu, Khaiderrgior trước) và "chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo" (Marxel, Iaxperx, Buber)- Vấn đề con người được chủ nghĩa này đặt lên hàng đầu, chủ nghĩa hiện sinh không xem xét con người như là thực thể tự nhiên và xã hội mà xem xét nó như là sự tồn tại (hiện sinh) tinh thần- khả năng "tồn tại (hiện sinh)", được thực hiện trong hành động lựa chọn mang tính tự do tuyệt đối.
Xu hướng có ảnh hưởng hơn cả trong triết học tôn giáo hiện đại là "chủ nghĩa khổ hạnh mới" (Mariten, Zilson, Bokhenxki)- đây là học thuyết triết học của chủ nghĩa Thiên Chúa giáo mới, khi dựa vào nguyên tắc "sự hài hoà của trí tuệ và niềm tin", học thuyết này phục hồi lại những nguyên tắc chính của học thuyết triết học kinh viện thời Trung cổ của Phôma Ăcvinxki, chủ nghĩa khổ hạnh mới đưa ra sự giải thích tôn giáo đối với các học thuyết khoa học hiện đại.
- Vào những năm 60-70 của thế kỷ XX, các trường phái triết học trên đây đánh mất dần sự ảnh hưởng của mình. Nổi lên những trường phái triết học như triết học nhân bản, triết học Germennhiéptiki, chủ nghĩa cấu trúc, trường phái Phranphuốc, chủ nghĩa duy lý phê phán, chủ nghĩa hậu thực chứng các loại của triết học, các phương án hiện tại của "triết học phân tích", những trường phái triết học này thể nghiệm bằng con đường thay đổi các vấn đề và phương pháp nghiên cứu để khắc phục những khó khăn và mâu thuẫn của các tư tưởng triết học Phương Tây.
+ Triết học nhân bản (Plécnhier, Giêlen, Rốtxlắccer, Landman) kỳ vọng vào sự khôn ngoan triết học của tri thức khoa học về con người, tuy vậy, những đại diện chính của triết học nhân bản đã không thể tạo ra hình ảnh tổng quát của con người.
Các đại diện chính của triết học Ge-rmen-nhiép-tiki (Betti, Gađamer, Rikier) nhìn thấy trong nó không chỉ phương pháp của khoa học nhân văn, mà còn là phương tiện để giải thích các tình huống văn hoá-lịch sử và sự tồn tại của con người. Khi xem xét vấn đề cơ bản của triết học trong vấn đề ngôn ngữ, họ loại trừ nhận thức khoa học khách quan, tin tưởng một cách tuyệt đối vào các khảng định gián tiếp của nhận thức, được truyền tải trong ngôn ngữ.
+ Chủ nghĩa cấu trúc (LêviStrox, Lakan, Phucô) là trường phái triết học, bản chất của trường phái đó là tuyệt đối hoá phương pháp cấu trúc và cấu trúc ngôn ngữ. Sự cố gắng mở ra những cấu trúc tổng hợp của hiện thực xã hội và tư duy của con người được chuyển vào trong sự tìm tòi những bản chất siêu hình.
+ Trường phái Phranphuốc (Khorkhaimer, Ađôrnô, Marcuze, Khabermắc) khi dựa vào khả năng tồn tại của triết học hệ thống đã coi chức năng cơ bản của tri thức triết học trong sự phê phán "tổng thể" nhận thức khoa học, phê phán các luận thuyết xã hội và văn hoá.
+ Chủ nghĩa duy lý phê phán (Pôper, Lacatôx, Albert, Phenherabend) xây dựng quan niệm của mình trên cơ sở các vấn đề về sự phát triển của tri thức khoa học mà không công nhận sự có mặt của phương pháp nghiên cứu của triết học. Các đại diện chính của chủ nghĩa duy lý nhìn thấy nhiệm vụ của triết học trong cái được gọi là phê phán duy lý (là cái vay mượn của khoa học). Trong triết học xã hội, chủ nghĩa này là các dạng khác nhau của các cải cách tư sản. Triết học Tây Âu của khoa học tập trung vào các vấn đề của sự phát triển của tri thức khoa học, vào mọi sự thay đổi lịch sử trong các dạng của tính duy lý, vào sự ảnh hưởng của các yếu tố xã hội lên hoạt động nhận thức; đồng thời phủ định vấn đề tính khách quan và tính chân lý của nhận thức- một biểu hiện của chủ nghĩa tương đối lịch sử.
- Vào những năm 80 của thế kỷ XX, trường phái "chủ nghĩa duy vật khoa học" và các dạng khác nhau của chủ nghĩa hiện thực khoa học đã có những ảnh hưởng nhất định lên tư tưởng triết học Tây Âu, đặc biệt là trong triết học và phương pháp luận khoa học.
Các xu hướng chính của sự phát triển của triết học không mácxít trong những năm 80 của thế kỷ XX gắn liền với nhận thức những vấn đề nền móng như, thế giới là gì và vị trí của con người trong thế giới đó ở đâu, số phận của nền văn minh của loài người hiện nay, những mâu thuẫn và các hậu quả về mặt xã hội của sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật, sự đa dạng và sự thống nhất của văn hoá, của bản chất nhận thức của con người, cấu trúc của nó và giới hạn, tồn tại và ngôn ngữ v.v...
c. Triết học trong thế giới hiện đại.
- Kinh nghiệm nhận thức lịch sử chỉ ra rằng, triết học cần phải dựa vào tri thức mà nhân loại đã đạt được. Triết học đã đưa ra nhiều qui tắc nền móng cho khoa học hiện đại: Quan niệm của thuyết nguyên tử, qui tắc về sự bảo toàn số lượng của sự vận động, nguyên tắc thuyết định luận, các tư tưởng của sự phát triển v. v. Trong sự gắn liền không tách rời với triết học, khoa học đã đưa ra những học thuyết hiện đại về vũ trụ, về không gian và thời gian, các nguyên tắc tự tổ chức v.v. về phía mình, sự tiến bộ của khoa học đã và đang làm triết học phong phú thêm.
- Triết học không thay thế được cho những khoa học chuyên ngành mà chỉ trang bị cho chúng phương pháp chung của nhận thức và tư duy lý luận, nhờ đó mà triết học chiếm vị trí then chốt trong hệ thống khoa học. Phạm vi áp dụng các phương pháp của các khoa học chuyên ngành thường bị hạn chế trong phạm vi đối tượng nghiên cứu của các khoa học đó. Trái lại, các phương pháp của triết học có tính tổng hợp, nhưng các phương pháp này được áp dụng vào các chuyên ngành của nhận thức không trực tiếp, mà thường là trong kết quả chuyển hoá chúng vào hệ thống qui tắc được áp dụng vào tài liệu đặc biệt của khoa học tương ứng.
- Khi nghiên cứu xu hướng phát triển của khoa học thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, cơ sở triết học tương ứng với các tri thức khoa học tự nhiên cần phải trở thành biện chứng duy vật: "Phép biện chứng là hình thức quan trọng nhất cho khoa học tự nhiên, mặc dầu chỉ có nó thể hiện sự tương tự và bằng cách này, nó là phương pháp giải thích cho những quá trình của sự phát triển xẩy ra trong tự nhiên, cho những mối liên hệ chung nhất của tự nhiên, cho những sự chuyển hoá từ một phạm vi nghiên cứu này sang phạm vi khác" (C.Mác và Ph.Ăngghen: t.20, tr.367). Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của phép biện chứng lớn mạnh trong khoa học của thế kỷ XX, nhất là khi mà khoa học tự nhiên chịu ảnh hưởng lớn của những xu thế liên kết được thể hiện, thí dụ, trong sự xuất hiện của điều khiển học (xibecnêtic) và sự thể hiện trong các thử nghiệm xây dựng một học thuyết thống nhất của các yếu tố thành phần, của học thuyết chung về sự tiến hoá của sinh vật, của học thuyết chung về hệ thống, của các quan niệm giữa các khoa học getíki xanh.
- Phương pháp luận tổng thể (toàn bộ những vấn đề) có ý nghĩa vô cùng đặc biệt cho nhận thức khoa học hiện đại: các phương pháp phân tích cấu trúc tri thức khoa học; sự xuất hiện và phát triển của tri thức mới, phương pháp kinh nghiệm và lý luận của sự nghiên cứu; mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp trực giác, evri và lôgíc trong quá trình đưa ra những giả thuyết mới và quá trình soạn thảo những luận thuyết khoa học; các phương pháp giải thích, nhận thức và tiên đoán (đoán trước) các hiện tượng. Vai trò và vị trí của triết học trong nhận thức khoa học được xác định khi triết học đưa lại khả năng nhận thức, đánh giá ý nghĩa và phạm vi áp dụng các phương pháp của khoa học chuyên ngành và của khoa học chung vào sự nghiên cứu dựa vào quan điểm của phương pháp tổng hợp của phép biện chứng duy vật.
- Khi chỉ ra các mâu thuẫn bên trong trong sự phát triển của nhận thức khoa học, được thể hiện trong sự không hoàn thiện của các tri thức cũ bằng những sự kiện (yếu tố) mới và bằng những sự kiện (yếu tố) đã có của kinh nghiệm và của thực tiễn, phép biện chứng duy vật định hướng các nhà nghiên cứu đến việc đưa ra và giải quyết những vấn đề mới của khoa học và bằng cách đó, tạo ra khả năng tiến bộ của khoa học. Điểm đặc thù này của phép biện chứng duy vật đặc biệt rõ ràng khi nó thể hiện trong những giai đoạn chuyển hoá và khủng hoảng của khoa học, vượt qua những giai đoạn đó và dẫn chúng ta đến các cuộc cách mạng khoa học bao gồm trong đó sự biến thể (biến đổi, biến thái, biến hình, biến dạng, biến hoá) cơ sở của hệ thống tri thức khoa học (có nghĩa là các lý tưởng và các hình thái của cơ sở đó), đồng thời, của hình thái của hiện thực.
- Trong tâm điểm của nhận thức triết học có những vấn đề sau đây nẩy sinh, thí dụ, sự đe doạ của chiến tranh hạt nhân tiêu diệt nền văn minh của nhân loại, khủng hoảng môi trường toàn cầu, sự lạnh nhạt của con người đối với các cấu trúc kinh tế-chính trị do chính con người sinh ra. Xã hội hiện nay đang đứng trước thử thách nóng bỏng của nhu cầu trong việc soạn ra những cách tiếp cận mới, những định hướng mới của thế giới quan và những chương trình hoạt động sống của con người. Trước những vấn đề nền móng đó, triết học có sứ mệnh giải thích và làm sáng tỏ những ý nghĩa sâu sắc của sự tồn tại của con người; nhận biết theo cách mới các cơ sở tinh thần của thế giới con người, vấn đề tự do, công bằng, đạo đức, luân lý và tính trách nhiệm.
- Sự phân tích tương ứng hoàn cảnh tinh thần hiện nay không thể tách rời với sự phục hồi các truyền thống của chủ nghĩa nhân đạo mácxít, chủ nghĩa đó đặt con người và những vấn đề hiện thực trong sự tồn tại của con người vào trung tâm của sự nghiên cứu triết học-xã hội học. ý thức triết học của thực tiễn mâu thuẫn và phức tạp trong thế giới hôm nay đòi hỏi phải mở rộng tiềm năng cách mạng-phê phán của phép biện chứng duy vật. Trong điều kiện của sự đối thoại giữa các hệ thống chính trị-xã hội và các nền văn hoá-tinh thần, xuất hiện vấn đề sâu sắc của ý thức- đó là những vấn đề được ưu tiên hàng đầu như: vấn đề lợi ích chung của toàn nhân loại, các giá trị và các lý tưởng; chúng được coi là cơ sở thế giới quan của quá trình hội nhập về kinh tế, khoa học và văn hoá của nhân loại trong thế giới thống nhất và toàn vẹn./.
Nguồn: Triết học. tr. 695-69. Đọc thêm: Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Phép biện chứng, Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Lý luận nhận thức, Khoa học, Xã hội học, Đạo đức học, Mỹ học.

See more at: Khái lược lịch sử triết học trước Mác và phương Tây hiện đại
https://luatminhkhue.vn/dich-thuat/khai-luoc-lich-su-triet-hoc-truoc-mac-va-phuong-tay-hien-dai.aspx

------------------------------------
Khái lược lịch sử triết học trước Mác
http://voer.edu.vn/m/khai-luoc-lich-su-triet-hoc-truoc-mac/b70a5ad6
<------->
http://hocluat.blogspot.com/2008/09/khi-lc-lch-s-trit-hc-trc-mc.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét