Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

NHẬN THỨC LUẬN TRONG PHẬT GIÁO

NHẬN THỨC LUẬN TRONG PHẬT GIÁO
Nhận thức luận (Epistemology) là khoa học nghiên cứu về tri thức, trong nghiên cứu triết học nó là một vấn đề tiên quyết. Cho nên nhận thức luận có tính trọng yếu không thể không tiến hành nghiên cứu .
Nghiên cứu Phật giáo cũng như vậy, nếu như nghiên cứu toàn hệ thống Phật học, phải cần lý giải sáng tỏ đối với lý luận nhận thức Phật học, tức là đối với những vấn đề về vũ trụ, nhân sinh, bản thể của Phật học theo đó cũng rễ dàng hiểu rõ. Cho nên, nhận thức luận Phật học rất trọng yếu trong tiến trình nghiên cứu Phật học.
“Mọi hành động thành công của con người đều mở đầu bằng nhận thức đúng đắn” (All successful human action is preceded by right knowledge). Nói cách khác, theo các nhà lô-gích học Phật giáo, nhận thức đúng đắn là nhận thức dẫn tới hành động thành công, có hiệu quả. Khi sớ giải câu trên, nhà lô-gích Dharmottara lại bổ sung thêm: “Nhận thức đúng đắn là nhận thức không bị thực nghiệm phủ định”
(Right knowledge is knowledge not contradicted by experience). (A short treatise of Logic–Nyaya bindu by Dharmakirti Volume 2, 1950, p. 4).
Nhiều câu khác của Dharmakirti, đọc theo bộ luận mà chúng ta đã nghiên cứu, đều cho chúng ta thấy nhận thức luận Phật giáo gần gũi với thực tiễn và thực tại. Dharmakirti nói: “Bản chất của thực tại chính là hiệu năng”
(The essence of reality is just efficiency, trang 6).
Dharmottara giải thích rằng ngọn lửa thực tại, có thực là ngọn lửa đốt cháy, nấu chín thức ăn, làm sáng; chứ ngọn lửa tưởng tượng, không thực tại không thể đốt cháy, nấu chín và thắp sáng được.
Một khi nói đến nhận thức, tất cần phải có đủ hai yếu tố: một là chủ thể nhận thức, một là khách thể bị nhận thức. Ðơn độc một mình chủ thể thì không có gì để nhận thức ; mà chỉ một mình khách thể cũng không phát sinh ra nhận thức. Do đó, nhiệm vụ chuyên môn của nhận thức luận, không chỉ nghiên cứu riêng lẻ một mình chủ thể, cũng không chỉ nghiên cứu một mình khách thể, mà là nghiên cứu chủ thể và khách thể tức là nghiên cứu mối quan hệ giữa cái nhận thức và cái bị nhận thức, từ đó vấn đề nhận thức sẽ biến thành vấn đề chủ thể và khách thể.
Ý thức chúng ta thực ra không bao giờ chịu ngồi yên, mà luôn luôn xáo động như nước biển trong gió bão, khi thì nhớ những cái này, khi thì tưởng tượng cái kia, không khác gì con vượn leo cây, con ngựa đi nước kiệu, cho nên sách Nho mới có câu “Tâm viên ý mã”.
Vậy môn Nhận Thức Luận Phật Giáo rất có ích cho một hành giả tu hành cần hải hiểu được NHỊ ĐẾ, BÁT BẤT, HIỆN QUÁN, TỨ PHẦN, TAM TÍNH, TỨ TRÍ , TỨ TRÙNG NHỊ ĐẾ VÀ BÁT NHÃ VÔ ĐẮC, TAM ĐẾ VIÊN DUNG VÀ CHÂN VỌNG TÂM QUÁN, HIỆN LƯỢNG VÀ TỶ LƯỢNG, BÁT NHÃ VÔ TRI LUẬN, THUYẾT ĐỐN NGỘ THÀNH PHẬT, THIỀN ĐỊNH, THIỀN QUÁN, BÁT NHÃ TRUNG QUÁN, NHÂN MINH VÀ LƯỢNG hay CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ, đây là một phần mà Nhận Thức Luận Phật Giáo đề cập đến.
Theo Giáo sư Minh Chi nhận định: Một lý thuyết được coi là chân lý, nếu nó nhất quán một cách lô-gích, tuy rằng nhất quán lô-gích một mình vẫn không đủ. Tức là chân lý bao giờ cũng lô-gích, nhưng nếu như chỉ nhất quán lô-gích không thôi thì vẫn không phải là chân lý.
Lời dạy của Đức Phật Thích Ca rất thực tế và khế hợp với mọi hoàn cảnh, căn cơ. Với tuệ giác vô thượng, mặc dù liễu thông tất cả nhưng không phải bất cứ ở đâu, Đức Phật cũng đều nói tất cả mọi sự thật, mọi chân lý. Những sự thật, những chân lý không ích lợi gì đối với sự nghiệp giải thoát và giác ngộ, Ngài cho là vô ích và không nói. Phật tuyên bố là chỉ nói lên những sự thật, những chân lý có ích, và nói đúng lúc.
Trong Trung Bộ kinh, cuốn I có câu:
“Đức Phật không nói một lời mà Người biết là không thật, sai lầm, vô ích, và khó chịu đối với người khác. Đức Phật cũng không nói một lời mà người biết là thật, hiện hữu nhưng vô ích, khó chịu và không ưa thích đối với người khác. Đức Phật tuyên bố đúng lúc một lời mà Người biết là thật, hiện hữu, có ích, khó chịu và không ưa thích đối với người khác. Đức Phật không nói một lời mà Người biết là không thật, sai lầm, vô ích, thích thú và dễ chịu đối với người khác. Đức Phật tuyên bố đúng lúc một lời mà Người biết là thật, hiện hữu có ích lợi, thích thú và dễ chịu đối với người khác” (Kinh Abhayarajakumara).
Chính vì vậy mà người viết chọn đề tài Nhận xét về nhận thức luận Phật Giáo, nhưng người viết vì khả năng sự học và sở ngộ không được bao nhiêu nên không biết nhận xét ra sao với giáo lý giải thoát giác ngộ của bậc Lưỡng Túc Tôn, nên bài viết này chỉ xin đưa ra những ý kiến của các bậc thiện tri thức đã viết về Nhận Thức Luận Phật Giáo.
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm về Nhận-thức-luận
Nhận thức là biết là hiểu biết, Theo định nghĩa trong từ điển: nhận, xem biết một điều gì đó rõ ràng, là một quá trình có nguyên nhân kết quả.
Nhận thức: hiểu biết, biết. Nhận thức luận: nghiên cứu khởi nguyên, bản chất phạm vi của trí biết ( bản chất: phần căn bản bên trong của sự vật ), sự hiểu biết
Nhận thức luận Phật giáo: nghiên cứu khởi nguyên bản chất, phạm vi của trí biết theo quan niệm Phật giáo. Mục đích của Phật giáo là rèn luyện đào tạo con người :có nhân cách: chân thiện mỹ ( đạo đức học ), hướng dẫn tu tập Giải thoát, hiểu biết được thế giới quan ,nhân sinh quan và biết và thực hành để đạt được giải thoát). Trí tu tập nhận định phải qua tu tập 2 phương pháp:Phân biệt: chia cắt. Phi phân biệt: trí nằm trong phạm vi trực quán ( trí không cần phải phân biệt).
Nên Nhận thức luận là một bộ phận của triết học. Triết học nghiên cứu về bốn lãnh vực: Nhận thức luận; Logic: luận lý hoc; Hình nhi thượng ( Siêu hình học );Đạo đức luân lý. Nhận thức luận Phật giáo đề cập 3 vấn đề: Một là Nhân sinh: hiểu biết về thế giới xung quanh. Hai là Thế giới: thế giới quan. Ba là:Cảnh giải thoát: làm thế nào để đạt cảnh giới đó
Định nghĩa:
a. Nhận thức là gì ? Nhận thức là tìm hiểu về nguồn gốc, hình tướng, phạm vi và giá trị của một vấn đề; phản ánh rõ từ bên ngoài vào bên trong tâm thức và hiểu rõ được bản chất của hiện tượng.
b. Thế nào là nhận thức luận ? Nhận thức luận là một bộ phận của triết học nghiên cứu về nguồn gốc (khởi nguyên), bản thể, hình tướng, phạm vi, giá trị của tâm thức
c. Nhận thức luận Phật giáo là một môn học thuộc bộ phận của triết học Phật giáo, nghiên cứu về nguồn gốc (khởi nguyên), bản thể, phạm vi, giá trị, phương pháp của tâm thức qua quan điểm của Phật giáo.
2. Nhận thức luận Phật Giáo phát triển qua các giai đoạn
Vấn đề khởi nguyên tri thức trên Nhận thức luận tức là xác định ta-người đạt được tri thức như thế nào ? Hay nói cách khác, trong kinh nghiệm của chúng ta, lấy yếu tố nào để cấu thành tri thức. Trong triết học chủ trương giải quyết vấn đề này đại khái chia thành ba loại : Thuyết lý tính cho rằng khởi nguyên nhận thức vốn từ "tiên thiên"gọi là Lý tính luận (Rationalism) ; Thuyết khởi nguyên nhận thức từ kinh nghiệm "hậu thiên", gọi là Kinh nghiệm luận (Empiricism) ; Thuyết cho rằng nhận thức có được từ sự hợp thành của lý tính "tiên thiên" và kinh nghiệm "hậu thiên", gọi là Phê phán luận (Cirticism).
Những nhà Lý tính luận cho rằng chúng ta có được kinh nghiệm từ trong cảm giác, như sắc, thanh, hương, vị, chỉ là tài liệu của tri thức. Muốn khiến cho những nguyên liệu cảm quan tri giác này có ý nghĩa thì cần phải tổ chức thành một hệ thống. Công tác tổ chức này không phải là kinh nghiệm, mà là sự gia công lý tính. Người đại biểu cho Lý tính luận trong cổ đại là Bá Lạp Ðồ, trong cận đại thì là Ðịch Ca Nhi. "Lý niệm thế giới" của Bá Lạp Ðồ và "Thiên phú quan niệm" của Ðịch Ca Nhi đều cho rằng "lý tính tiên thiên, không cần phải có kinh nghiệm gì, tự thân nó đã sản sinh ra chân lý rõ ràng chắc thật , đó chính là nguồn gốc của nhận thức luận"
Ai cũng thừa nhận Nhận thức luận Phật giáo là một bộ phận của Triết học Phật giáo, sau khi Phật giáo sáng lập khoảng 500 năm xuất hiện học phái Trung quán. Sau đó khoảng năm trăm năm xuất hiện Du già hành phái. Do vậy Nhận thức luận Phật giáo tại Ấn Độ cũng phát triển qua ba giai đoạn:
a. Giai đoạn một Nhận thức luận Phật giáo theo tư tưởng Nguyên thủy và Bộ phái ( Từ Phật tại thế và đến Phật diệt độ 500 năm)
Giai đoạn này Phật giáo chủ yếu dùng phương pháp phân tích. Nhận thức luận được triển khai qua lý nhân duyên của các pháp như: Ngũ uẩn, Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Nhân Quả, Nghiệp Báo v.v…
b. Giai đoạn hai Nhận thức luận Phật giáo theo tư tưởng Bát nhã trung quán (Sau Phật diệt độ 500 năm)
Có sự chuyển biến, ngài Long Thọ, Mã Minh đề cập đến các Pháp đều không, xuất hiện tư tưởng của Bát nhã, dùng trí Bát nhã để khai sáng-tức thấy sự vật là không là giả, không chấp không, không chấp giả. Nhận Thức Luận Phật Giáo qua lăng kính của Đại thừa với tư tưởng Bát Nhã và Tánh Không, Nhân Duyên giả hợp và Vô Ngã tướng.
Trong học thuyết Trung Quán, ngài Long Thọ đem tất cả hiện tượng quy kết về “Không” và “giải danh”. Khi nhìn về mặt hiện tượng giới, Phật giáo có những quan niệm khác, lúc thì nói Có, lúc thì nói Không khiến mọi người khó hiể. Thực ra bời vì căn cơ của chúng sanh không đồng, do vậy cần có một tiêu chí đề ra gọi là Đế. Học thuyết Trung Quán thường lấy Nhị Đế làm tiêu chuẩn: Lấy Tục Đế thuyết minh tất cả hiện tượng đều có; lấy Chân Đế thuyết minh tất cả hiện tượng đều Không, từ đây mà cấu thành ý nghĩa tiêu chuẩn của chân lý _ Nhị Đế Luận.
Ngài Long Thọ cho rằng Tục Đế và Chân Đế có mối quan hệ Đối Lập nhưng thống nhất. Tục và Chơn là đối lập, chúng không chỉ chó phân biệt cao thấp mà tính chất cũng bất đồng. Căn bản Tục Đế là hư huyễn, điên đảo; Chân Đế là chân thật, chính xác. Đồng thời 2 Đế cũng thống nhất, không thể khuyết một.
Ý nghĩa hàm chứa của Trung Đạo, Trung Quán là tổng hợp cả 2 phương diện Tục Đế và Chân Đế để xem xét vạn vật. Tư tưởng Nhị đế trên của ngài Long Thọ được Đề Bà (đệ tử của ngài Long Thọ) kế thừa và Phát triển, với thuyết Nhị Đế ngài đưa ra vấn đề Chân Giả, có sự phân biệt giữa Chân và Giả.
“Ðạo Phật là đạo của GIÁC NGỘ, trừ phi bạn chọn cho mình trở thành một người Phật tử bình thường để có thể dễ dàng quay lưng lại với những vấn nạn nói trên và an vui -cũng như đau khổ- với những dục lạc của cõi thế gian này thì không nói làm gì; tuy nhiên nếu như bạn là một người thiết tha tìm cầu giải thoát và đang là một hành giả cô đơn, nỗ lực tinh tấn trên hành trình vươn đến giác ngộ, trong niềm tin tưởng vững chắc rằng mình có khả năng để vươn đến, thì bất cứ bạn là ai, nếu muốn chạy thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của luân hồi sinh tử, cũng đều phải vượt qua cửa ải của thực chứng tánh Không. Không có một con đường nào khác. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư đại thánh Tăng, tổ sư đều cũng phải đi qua con đường này. Từ đây, trên vách núi cheo leo của Tánh Không, hành giả tha hồ nhảy múa mà không còn phải sợ hãi phải rơi xuống vực thẳm của chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến. Và cũng từ đây, trên đỉnh núi cao của tỉnh thức và trí tuệ, không còn mây mờ của vô minh che phủ, hành giả có thể phóng tầm mắt nhìn rõ thực tướng của muôn loài, để sẽ không còn như người mê ngủ hoang mang giưã hai bờ Chân đế và Tục đế, để rồi suốt đời cứ phải loay hoay bỏ vọng tìm chân, làm nhọc lòng đến Tuệ Trung Thượng Sĩ , một thiền gia xuất sắc đời Trần phải lên tiếng cảnh cáo: Người đời bỏ vọng để cầu chân, Chân vọng tâm kia cũng pháp trần, Hãy vượt cao lên bờ bến ấy, Tham cùng đồng tử đối tiền nhân.
Nếu Phật đạo có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn thì con đường đi vào thực chứng tánh Không cũng có rất nhiều cánh cửa, kể cả cánh cửa trực nghiệm bằng ý thức loại suy, thiền quán phân tích. Tốt hơn hết là ta nên bắt đầu bằng Nhị Ðế. Khi đối đầu với vấn nạn triết lý sắc tướng và thực tướng của vạn pháp, tức Nhị Ðế, những trường phái triết học lớn của Phật giáo, được biết đến như Tứ đại thuyết phái: Ðại Tỳ Bà Sa, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức, và Trung Quán- đã đưa ra những lý giải khác nhau.”[1]
c. Giai đoạn ba Nhận thức luận Phật giáo theo tư tưởng Du già hành phái, Phật giáo Đại Thừa Phát Triển ( sau Phật Niết-bàn khoảng một nghìn năm)
Xuất hiện trường phái Dugià hay còn gọi là Duy Thức. Giai đoạn này Nhận Thức Luận Phật Giáo được triển khai qua tư tưởng của Duy thức tức là “chỉ có thức mà không có cảnh”. Du già phát triển đề cập đến duy thức nhiều, không phải trong tâm không có gì mà có chủng tử. Vận dụng tư tưởng phật giáo phát triển Đại thừa làm cho tư tưởng Phật giáo phát triển cao hơn nữa. Triển khai triệt để hai khía cạnh Chân Đế và Tục đế.
Phật giáo truyền sang Trung Quốc, có sự phát triển, kế thừa huyền học của Trung Quốc. Do tính chất thực dụng của Phật giáo và Trung Quốc, Nhận thức luận Phật giáo trọng về thực tiễn, thực dụng, để rồi dần dần xuất hiện các Tông phái với nhiều đặc thù về nhận thức, về phương pháp tu hành, vận dụng những tư tưởng có sẵn phát triển thêm một bước nữa làm sao cho Phật giáo phải có tư tưởng cao hơn Hữu và Vô trong Trung Quốc nên có học thuyết vật bất thiên chân luận ( thể tánh không dời). Đến Trúc đạo sanh có đưa ra phương pháp đốn ngộ là trực quán. Sau đó các tông phái Phật giáo phát triển: như Hoa Nghiêm: Trực quán ra bản chất của sự vật. Thiền: trực chỉ nhân tâm; Thiên thai: nhất niệm tam thiên: một niệm chứa cả tam thiên. Nhận Thức Luận Phật Giáo qua các giai đoạn, từng nhận thức bên ngoài vào sâu bên trong .
3. Nhận thức luận Phật giáo giải quyết các vấn đề Vũ-trụ và sự giải thoát tu tập
Dùng trí tuệ để nhận thức
Phân Biệt trí (trạch pháp) để phân biệt đúng sai
Không phân biệt trí ( trí tuệ Bát nhã)
“Khi con người khởi sự xác định “con người là thước đo vạn vật” thì là lúc con người khai sinh mình lần thứ hai, vượt qua sự sinh đẻ bản năng của thế giới tự nhiên, đặt mình vào trung tâm vũ trụ với thước đo từ mình. Và cái giờ phút khai sinh lần hai đó, có tên là Socrate. Bởi ông không chỉ tái sinh thước đo của Protagoras, mà còn phát triển cả một hệ thống thước đo, lấy con người công lý làm trung tâm. Muốn biến chính mình trở thành thước đo, Socrate, đã tìm đến châm ngôn ghi trên khung cửa đền Delphes: “Hãy tự hiểu mình” (connais - toi toi même).
“Tự hiểu mình”, đó là lúc con người dò tìm khả năng đầu tiên của chính mính, là thái độ phản tỉnh đầu tiên của nhận thức, là phút đầu tiên con người tạm quay mặt không ngắm nhìn vũ trụ nữa, mà ngắm nhìn chính mình, để xác định thước đo khởi thủy. Chính giây phút ấy, Socrate đã quan niệm: Vũ trụ luận thì không giúp ích gì cho tâm hồn con người, còn ngụy luận thuyết thì tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại bằng cách nêu lên những tra vấn, thắc mắc những cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy nó lạc vào một kiến thức khác sai lạc.
Từ khởi điểm “Hữu chủ tri tự hiểu mình”, Socrate đã dựng lên con đường của tinh thần - cái sẽ tìm đến sự phổ quát - nơi hội tụ cùng chân lý. Cuộc hành trình cốt tử này sẽ được chúng ta tìm tòi tiếp ở phần sau, nay để nhấn mạnh tầm quan trọng của Hữu chủ tri, tôi xin trích dẫn. Lê-nin đã nói về Socrate như sau: “Socrate coi con người như một sinh vật đang tư duy, là thước đo vạn vật” . Và triết gia Kierkégaard đã tái nhìn nhận tầm vóc của chủ thể tư duy như sau: “Tư duy phải là tư duy của chủ thể: người tư duy là người tư duy chủ quan. Và nhiệm vụ của người tư duy chủ quan bao gồm tự hiểu mình trong tồn tại” [2]
3.1 Vũ Trụ
Nhận thức phải chăng là khả năng ? Trong nhận thức luận thì đây chính là một vấn đề tiên quyết. Bởi vì nếu thừa nhận nhận thức không phải là khả năng, thì tất cả những điều nhận thức được đều hoàn toàn sai lầm và không xác thực, lúc đó giữa vũ trụ này sẽ không có chân lý gì để nói.
Kiến giải của Phật học đối với vấn đề này, so với các phái khác trong triết học có điểm tương dị. Nó cũng không tương đồng với tuyệt đối của Ðộc đoán luận. Nó không hoàn toàn vô điều kiện khi tin vào năng lực nhận thức của nhân loại có thể phản ánh ra được diện tướng chân thực của sự vật giống như là một bản sao chép hình ảnh không một chút sai lệch, tức là chủ trương những điều chúng ta nhận biết được là đồng nhất dạng với tướng mạo chân thực của vũ trụ. Nhận thức của chúng ta nhân vì chịu tính chủ quan đã huân tập từ hoàn cảnh hậu thiên và những sự bưng bít lừa dối của thành kiến tiên thiên, nên đã rơi vào lớp lớp những sai lầm và không xác thực, tuyệt không thể đạt thẳng đến tính chân thật của sự vật vũ trụ. Nhận thức của nó làụ một số chủ quan vụn vặt không hoàn toàn, không tồn tại tính chân thực khách quan.
Theo lý giải của Phật giáo, thì sự tồn tại của vũ trụ dựa vào "quan hệ". Phật giáo cho rằng vũ trụ chẳng qua chỉ là một tổ hợp thể có vô hạn các mối quan hệ đan xen vào nhau. Tất cả các sự vật trong vũ trụ tách rời các mối quan hệ không liên quan với nhau để độc lập tồn tại là không thể có. Bởi vì chỉ có quan hệ , cho nên mọi sự vật của vũ trụ đều không có thực chất thực thể, không thể tự đứng một mình. Trong Phật học, điều này gọi là "Không". Trong kinh Phật nói : "Nhân duyên (quan hệ) sở sinh, nhất thiết giai không", đây chính là thế giới quan duyên sinh của đức Phật.
Cũng như vậy, Phật giáo coi sự biến thiên lưu động là hoạt động của vũ trụ có quy luật tự nhiên. Trong thế giới hiện thực, vật bất biến thường trụ thỉ chung chưa từng có. Cứ đem bất cứ một vật gì để nói, ngoài bề mặt tuy không nhìn thấy biến hóa gì, mà thực sự nội chất của nó đang không ngừng biến thiên lưu động, là những điều chúng ta không nhìn thấy. Trong kinh Phật nói "Chư hành vô thường", chính là cái lý này.
Nhưng mà con người thường thường bị sự vật che đậy, nên đem tất cả những sự vật thiên lưu biến hóa giữa vũ trụ được khởi sinh do quan hệ mà cho là thực thất và thực thể, hơn nữa là thường hằng bất biến. Từ đó nhào nặn ra những khái niệm thực thể đồng chất và bất biến, đem các khái niệm và phạm trù để phản ánh thế giới, nhận thức thế giới, điều này trong Phật học cho là ảo giác, cho rằng đây chẳng qua chỉ là đồ giả của vũ trụ thực tại.
Cho nên, Phật giáo coi nhận thức chủ quan của con người và khách quan bị nhận thức tương thích thỏa đáng với nhau, con người thường vọng khởi thừa trừ trên thực tướng mà không tự biết sự mê hoặc của nó. Cứ như vậy mà nhìn, Phật giáo tựa hồ như hoàn toàn phủ định năng lực nhận thức của nhân loại ; thế nhưng, như trên đã nói về sự nhận thức thực tướng của sự vật , nếu cho là như thế rồi đem Phật giáo liệt nhập và phái Hoài nghi luận, thì phạm một sai lầm không thể tha thứ được.
Bởi vì, kiểu lý luận của phái Hoài nghi luận lấy tư tưởng bi quan làm cốt cán, hoàn toàn phủ định năng lực nhận thức của nhân loại, không hề tìm thấy một chút bóng dáng trong các loại kinh luận Phật học ; ngược lại, Phật học không ngừng chứng minh chúng ta hoàn toàn không phải là không có năng lực trừ bỏ đi những mê chấp sai lầm của mình, con người từ trên thể nghiệm trực tiếp có thể dần dần khắc phục sự phiến diện của chủ quan. Chỉ cần trừ đi một phần phiến diện của chủ quan thì chúng ta sẽ tiếp cận với chân lý một bước, đến một lúc trừ sạch căn r sự phiến diện chủ quan, chúng ta sẽ đạt đến một loại "trí huệ" khách quan, thì thể tính chân thực của bất cứ cảnh giới nào cũng được nhận biết (giác tri) đúng như thực không tăng không giảm.
Trong Phật học tuy thừa nhận nhận thức cảm tính (hiện lượng) là kinh nghiệm vụn vặt, từng phần, thiếu hẳn tính hoàn chỉnh, tính phổ biến, có thể do nhận thức của lý tính (tỷ lượng) bổ túc cho nó. Thế nhưng, nhận thức lý tính tuy có tính phổ biến, nhưng rốt ráo lại tách rời chân thực quá xa, thường thường phát sinh ngộ nhận. Thử đơn cử một ví dụ, đọc sách có thể giúp tăng tri thức, đây chỉ là một suy đoán mà con người thường cho là xác thực không sai, vậy mà không nhất định h đọc sách là tăng tri thức. Nếu như chúng ta đọc những loại sách thần quái hoang đàng, thì việc đọc sách ấy chẳng những không hề tăng ích cho tri thức, ngược lại còn tổn hại cho thân tâm. Ðủ thấy nhận thức lý tính thường thường khiếm khuyết tính xác thực. Lại còn, thực tướng mà Phật giáo dùng làm chuẩn cho trực quan chính là chân thực tướng của nhân sinh vũ trụ vạn hữu. Trực quan chân chính là phổ biến, hoàn toàn, không cần đến sự suy đoán của chủ quan.
Làm sao vũ trụ lại có thể vừa là hữu biên vừa là vô biên được? Vì theo quy luật mâu thuẫn, nó không thể vừa hữu biên và vừa vô biên. Làm sao vũ trụ là không hữu biên, vừa không phải vô biên, vì theo quy luật đào thải trung gian, nó phải hoặc là hữu biên, hoặc là vô biên? Thực ra, lô-gích học Phật giáo là loại lô-gích học không phải nhị biên, như lô-gích học Aristotle mà là loại lô-gích học bốn phương.Trong trường hợp ví dụ nêu ra trên đây về vũ trụ, chúng ta có thể nêu lên không phải hai mà bốn khả năng:
1. Vũ trụ là hữu biên trên mọi phương diện, tức là nó là hữu biên và hình cầu.
2. Vũ trụ là vô biên trên khắp mọi hướng.
3. Vũ trụ là hữu biên về một hướng, và vô biên theo những hướng khác. Chính trên ý nghĩa này mà có câu “Vũ trụ vừa là hữu biên, vừa là vô biên”.
4. Vũ trụ là không có thật hay khái niệm không gian chỉ là sản phẩm tưởng tượng của chủ quan của chúng ta, thì những vị ngữ không gian như hữu biên hay vô biên đều không thích đáng đối với vũ trụ. Chính trên ý nghĩa này, chúng ta nói vũ trụ không phải hữu biên. Như chúng ta thấy, cả hai điều 3 và 4 đều không có tính mâu thuẫn nội tại, như một số học giả phương Tây lầm tưởng. Tất nhiên, những hình thức lập luận lô-gích nói trên của Phật giáo chỉ thích dụng đối với thế giới hiện tượng, thế giới của không gian và thời gian, nơi diễn biến tác dụng của luật nhân quả. Nó không thể thích dụng với cảnh giới Niết bàn, siêu việt thời gian và không gian, siêu việt ngôn ngữ và khái niệm. Một lý thuyết được coi là chân lý, nếu nó nhất quán một cách lô-gích, tuy rằng nhất quán lô-gích một mình vẫn không đủ. Tức là chân lý bao giờ cũng lô-gích, nhưng nếu như chỉ nhất quán lô-gích không thôi thì vẫn không phải là chân lý. Một người, chẳng hạn, có thể nói dối một cách nhất quán, nhưng điều anh ta nói vẫn là sai. Kinh Phật Sandaka nói có những tôn giáo, xác lập trên lập luận đơn thuần và tư biện, nhưng vẫn không nhất thiết là đúng đắn, dù rằng lập luận của họ có vẻ rất lô-gích. Phật dạy chúng ta không nên chấp nhận một thuyết, quan điểm trên cơ sở lập luận đơn thuần (Kinh Kalama).
3.2 Sự giải thoát tu tập
Vấn đề giải thoát là phải nhờ qua tu tập, tu tập để đạt được giải thoát. Sử dụng trí tuệ để phân biệt hay so sánh, tìm hiểu những đúng sai đó là chánh pháp hay không phải chánh pháp, mới biết đường tu tập Giới mới phát Định rồi phát Huệ. Có Tuệ mới hiểu được Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh Quan, biết bỏ cái phiền não, tôn trọng những gì đang có. Hạnh phúc giải thoát khổ đau do nơi học hỏi giáo lý của Phật Đà, như phương pháp Tu thiền. Thiền định chính là phương pháp tu tập để đình chỉ vọng tâm, tham thiền chính là nhằm mục đích làm cho dòng tâm thức bớt xáo động, trôi chảy đều đặn hơn, mặt nước trong lặng hơn. Và tu thiền trong công tác và sinh hoạt hàng ngày chính là tập trung tư tưởng vào bất cứ công việc gì chúng ta làm trong hiện tại, không luyến tiếc quá khứ, cũng không mơ tưởng tương lai, sống luôn luôn tỉnh táo trong giây phút hiện tại, làm tốt nhất, hoàn hảo nhất mọi công việc từ nhỏ đến lớn của hiện tại.
Bởi vì chỉ có cảnh hiện tại mới là cảnh thực, còn cảnh quá khứ và cảnh tương lai đều là cảnh tưởng tượng cả. Sống với các cảnh đó có khác gì sống say, chết mộng. Chỉ làm được một việc ấy thôi, thì cuộc sống của chúng ta đối với xã hội, đối với đồng loại và bản thân, đã thêm bao nhiêu là hiệu năng, bao nhiêu là cống hiến.
Ngay đây, triết lý sống của Phật giáo quả là hiện thực, sinh động và đầy hiệu năng. Các bậc Thánh, như Phật, Bồ tát, tất nhiên các ngài thực hiện tốt hơn chúng ta rất nhiều. Bởi vì, các ngài hoàn toàn chủ động đối với hoạt động tâm thức của mình. Nhận thức của các bậc Thánh là nhận thức hiện lượng trực quan, cảnh sống của các vị luôn luôn là cảnh thực, tính cảnh.
Còn người học Phật ngày nay thì chỉ tiếp xúc với tính cảnh trong khoảnh khắc và lại tiếp xúc một cách tự phát, không tự giác, không chủ động. Các sách luận Phật giáo viết rằng, khi các bậc Thánh nhận thức một cảnh vật, thì không có phân biệt chủ thể và khách thể, nhận thức của họ hòa đồng làm một với cảnh, trên thực tế, thì không còn phân biệt nội ngoại, chủ quan, khách quan nữa. Nhận thức của họ không phải là nhận thức của một tâm thức tán loạn, xáo động, còn cảnh giới của các bậc Thánh là cảnh giới của tâm thức thường xuyên ở định. Hai cảnh giới đó khác nhau.
Mở đầu cuốn luận Nyaya bindu (Một giọt logic), luận sư Dharmakirti (Pháp Xứng) viết: “Tất cả mọi hành động thành công của con người đều bắt đầu bằng nhận thức đúng đắn”. Với lời khẳng định đó, Dharmakirti đã nói lên tầm quan trọng của môn Nhân minh học Phật giáo nói chung, và nhận thức luận Phật giáo nói riêng đối với nhân sinh, đối với mọi hoạt động, kể cả hoạt động hàng ngày của con người. Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn. Mọi ý nghĩ, lời nói và hành động phải là một bước tiến trên con đường đạo, con đường giác ngộ và giải thoát. Mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm của hành giả hay người Phật tử tại gia phải xuất phát từ nhận thức đúng đắn đối với mục tiêu tối hậu đó.
Trong Bát chánh đạo, chánh tri kiến chính là nhận thức đúng đắn. Nhờ nhận thức đúng đắn cuộc đời là vô thường, khổ, vô ngã, mọi sự vật hiện tượng đều là do nhân duyên sinh cho nên chúng là giả tạm, rỗng không, không đáng để tham đắm, vướng mắc, bị lệ thuộc. Chính nhận thức đó giúp sống tự tại giữa cuộc đời thế tục, biết được khổ, nhân duyên nảy sinh của khổ, cũng như con đường diệt khổ như thế nào, từ đó quyết tâm sống và tu theo Bát chánh đạo, con đường dẫn tới hạnh phúc cứu kính Niết bàn. Đó là tầm quan trọng của nhận thức đúng đắn đối với những hành giả , Phật tử, người học và tu theo Phật pháp. Nhận thức đúng đắn rất quan trọng trong cuộc sống tu hành hay đời thường, cũng như trong mọi mặt đời sống gia đình và xã hội. Chính nhờ nhận thức đúng đắn về vai trò giáo dục của gia đình mà người Thầy, người cha, người mẹ và những người lớn khác đều sống làm gương cho học trò, đệ tử, con cháu, tức là sống đoàn kết, hòa thuận với nhau, giữ gìn bầu không khí tốt đẹp trong Chùa, Tịnh Xá, gia đình, đồng thời cũng sống lương thiện trong phạm vi luật pháp.
Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của thầy cô giáo các cấp đối với việc giác dục thế hệ trẻ, thầy cô giáo không những nhiệt tình truyền đạt kiến thức mà còn phải có cuộc sống gương mẫu của nhà mô phạm. Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của người cán bộ là đầy tớ của nhân dân, mà người cán bộ sống “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, lo trước cái lo của nhân dân, vui sau cái vui của nhân dân ..., cây kim sợi chỉ của nhân dân còn không đụng đến, huống hồ là tham nhũng tiền triệu, tiền tỷ. Nghĩ như vậy không phải là ảo tưởng. Người cán bộ là Phật tử nên sống như vậy sẽ không bị sự khổ tù đầy ngay trong đời sống này.
C. KẾT LUẬN
Nhận thức qua quan hệ được xem như bao gồm hết thảy mọi thẩm định của hết thảy mọi quan điểm cá thể riêng biệt. Như vậy, tính chất cố hữu của mỗi sự vật là hữu thể, mà cũng là vô thể. Thuộc tính nào của sự vật cũng một phần thực, một phần không thực. Phái này đem chuyện con voi với sáu người mù ra làm thí dụ để giải thích quan điểm thuyết nhận thức tương đối của họ. Mỗi một người mù nói đúng điều họ sờ biết, lầm lẫn một phần con voi với toàn thể con voi. Mọi chuyện ở thế gian này cũng đều có tính cách tương đối như vậy. Thực tại là một phức thể vô biên bao dung hết thảy mọi quan điểm tương đồng và tương đãi. Vì thế thực tại là hữu là vô, là đặc thù là phổ quát, là thường là đoạn, là đồng là dị. Tóm lại, khi xác nhận một điều gì là đúng hay sai thời phải nói rõ thêm là đã nhận thức theo hình thái nào.
Nhận thức đánh giá cuộc sống, lập nên bảng giá trị của đời sống. Vì thế, các giá trị có ý nghĩa tương đối như chính nhận thức.Chân giá trị, hay chân nghĩa của cuộc sống phải là sự vật như thật hay hạnh phúc chân thật của con người. Đây là giá trị tiêu chuẩn cho mọi giá trị khác.Ý nghĩa tương đối của giá trị không cho phép chúng ta liệt kê giá trị của cuộc sống, bởi vì tùy theo nhân duyên, tùy theo điểm nhìn mà sự vật xuất hiện dưới nhiều giá trị khác nhau. Chẳng hạn, cơm là thức ăn nuôi dưỡng con người, nhưng nó trở thành thứ giết người nếu được ăn bởi người đau thương hàn. Tương tợ, thuốc bổ sẽ thành độc dược nếu dùng quá liều lượng an toàn.
Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật. Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ. Từ đó, hành giả tinh tấn tu tập trên đường giải thoát sinh tử luân hồi.
Nói tóm lại, trong Phật học đối với vấn đề liên quan tới nhận thức - so với các học thuyết khác, thì có mấy kiến giải như sau : Chân lý tuyệt đối, phổ biến hằng thường là có, hơn nữa còn có khả năng nhận thức. Công cụ nhận thức chân lý không chỉ ở tư duy lý tính, mà còn ở thể nghiệm trực tiếp. Chân lý tồn tại phổ biến trong thế giới nhận biết được của chúng ta, tuyệt không thể tách rời nó mà có sự tồn tại khác. Thế giới ngoại tại của chúng ta cần phải dựa vào chủ quan mà tồn tại. Khách quan chẳng qua chỉ là một bộ phận của chủ quan. Tất cả nhận thức đều khởi nguyên từ trực quan, duy chỉ có nó mới có tính xác thực.
[1] SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG, Vấn đề Nhị Đế trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo, Webmaster:quangduc@quangduc.com
[2] Nhận thức luận, hữu thể luận, đồng nhất luận, tam đoạn luận, phép loại suy với Socrate, Platon và Aristote, Nguồn: Chungta.com

2 nhận xét: