Đốt sách chôn Nho: Tội đâu phải ở Tần Thủy Hoàng?
Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm nay được gán lên người vị Hoàng đế này. Thế nhưng thực tế đã hẳn là như vậy? Người ta thường thuận miệng mà nói “phần thư khanh Nho”(đốt sách chôn Nho), nhưng ít người đặt câu hỏi rằng: đốt sách, Tần Thủy Hoàng đốt những sách nào? Chôn Nho, Tần Thủy Hoàng chôn những ai? Trả lời cho thật tường tận những câu hỏi này chúng ta sẽ có một kết luận hoàn toàn khác.
Lâu nay người ta luôn gắn đốt sách và chôn Nho trong cùng một câu nhưng thực tế, đó lại là hai sự kiện vốn chẳng liên quan gì đến nhau. Do vậy, để cho minh bạch, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu từng vế trong “tội danh” của vị Hoàng đế đầu tiên này.
1. Lệnh đốt sách
Việc đốt sách dưới triều Tần là có thực, điều này không cần bàn cãi. Nhưng sự kiện đó diễn ra là vì sao và trong bối cảnh nào lại là điều ít người đặt vấn đề tìm hiểu. Thực tế, muốn tìm người đề xướng việc đốt sách không phải là Tần Thủy Hoàng mà chính là vị tể tướng đương triều Lý Tư.
Năm đó, khi Thuần Vu Việt triều kiến Tần Thủy Hoàng và thỉnh cầu được phân phong làm chư hầu. Lý Tư đã dâng thư lên Tần Thủy Hoàng phản đối thỉnh cầu của Thuần Vu Việt. Thư viết:
“Ngũ Đế không lặp lại nhau, Tam Đại thì không khuôn sáo, các triều đều thịnh trị. Đó không phải là đối lập mà là mỗi thời đều phải có sự biến dị thích nghi. Nay bệ hạ tạo nên nghiệp lớn, để lại công đức vạn thế, quyết không phải là do trí thức của bọn ngu Nho. Mà những lời nói của Thuần Vu Việt, thì những việc thời Tam Đại chẳng phải là một tấm gương tốt hay sao? Lúc đó chư hầu tranh đoạt, thiên hạ đại loạn. Nay thiên hạ đã định, pháp lệnh đã thống nhất, bách tính đều chịu ràng buộc của pháp luật, nhân sĩ học tập pháp lệnh. Nay những người học trò không tôn nay mà học xưa, lấy cái không phải thời nay mà mê hoặc dân chúng.
Thần thừa tướng Lý Tư liều chết mà nói rằng: Thời xưa thiên hạ tán loạn, không thể thống nhất là do chư hầu làm ra, lời nói đều lấy xưa mà chê nay, lấy lời hàm hồ mà làm loạn đời thực, người đời chỉ giỏi ở những sở học cá nhân, không có cái học chính thống và cao nhất. Nay hoàng thượng đã có trong thiên hạ trong tay, nên phân rõ trắng đen mà chọn lấy cái học cao nhất. Những điều sở học cá nhân mà ngược lại với việc dạy pháp luật, người nghe thấy tất sẽ bàn luận về nó, vào thì tâm không còn ngay thẳng, ra thì bàn tán ở chốn ngõ hẻm,… vì vậy cấm là tiện lợi hơn cả”.
Còn như làm thế nào để cấm sách, trong thư lại nói:
“Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà coi chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành. Những thứ không bỏ là sách y dược, bói toán. Còn những người muốn học, lấy quan làm thầy”.
Thư được dâng lên Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng phê rằng: “khả” (có thể). Ý nghĩa chính là, ta thấy việc này có thể thực hiện.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc đốt sách nổi tiếng trong lịch sử dưới triều đại của Tần Thủy Hoàng. Đối với hành động này, người đời sau thường phê phán khá kịch liệt. Nhưng trước khi chúng ta phụ họa theo những tội danh này, chúng ta phải lý giải một cách cụ thể những tình tiết liên quan cũng như những hậu quả thực tế của việc đốt sách này. Nếu chỉ vừa mới nghe hai chữ “đốt sách” mà không nghiên cứu kỹ lưỡng đã vội đập bàn chê bai, phê phán kịch liệt, phải chăng là có phần quá vội vàng?
Đầu tiên, trong cách nhìn của Lý Tư, việc đốt sách có logic tự nhiên của nó. Trong thư của Lý Tư dâng lên Tần Thủy Hoàng, đối với việc Thuần Vu Việt xin được phân phong làm chư hầu, chỉ dùng mấy chữ: “Những sự việc thời Tam Đại, đã đủ làm gương lắm rồi” đã có thể bác bỏ một cách triệt để. Sau đó, đối với Thuần Vu Việt, Lý Tư xác định là: “không học nay mà học xưa, lấy cái không phải đời nay đê mê hoặc dân chúng”. Mà giống như Thuần Vu Việt, cũng có nhiều người: “nghe lệnh xuống thì lấy những cái học được đó mà bàn bạc, vào thì tâm không ngay chính, ra thì bàn bạc nơi ngõ hẻm”. Những điều mà con người ta học được tất phải nhờ đến sách, vì thế cấm sách cho đến đốt sách cũng chính là việc trừ đi nguồn gốc của việc lạm bàn việc chính sự.
Người xưa câu chữ súc tích, một chữ cũng không dùng thừa. Điều này cũng có nghĩa là các loại sách thuộc diện “cấm thư” chỉ có rất ít. Trên thực tế, loại sách thuộc diện phải “đốt” của Tần Thủy Hoàng chỉ có hai loại: Một là “ngoài sử sách do nước Tần ghi chép”, tức sử sách của 6 nước, trong đó đa phần là châm biếm, nói xấu nước Tần. Hai là Thi, Thư, sách của bách gia. Đặc biệt là Thi, Thư, vốn là “kho tàng” để Thuần Vu Việt lấy xưa mà chê nay. Mục đích của Tần Thủy Hoàng là: đốt chúng đi xem anh còn làm thế nào mà dẫn lời ngụ ngôn châm biếm trong sách được nữa.
Điều cần chú ý nữa là, từ thư của Lý Tư dâng lên Tần Thủy Hoàng có thể thấy, các thư tịch do nước Tần sở hữu khi đó, bao gồm cả loại sách được lệnh đốt, đều lưu lại một bộ hoàn chỉnh trong triều đình. Chu Hy cũng nói: Tần đốt sách cũng chỉ là dạy cho thiên hạ đốt sách, còn trong triều đình ông ta vẫn lưu lại. Nói rằng: “Không phải sử nước Tần và không phải sách do chức quan tiến sĩ giữ thì đều đem đốt”, nhưng cả 6 kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) ông ta đều lưu lại cho mình, chỉ thiên hạ thì không ai có.
2. Biện giải cho việc đốt sách
Đối với hành động này của Tần Thủy Hoàng, Lưu Đại Khôi đời Thành có giải thích là: “Nếu làm như vậy sẽ là ngu dân, còn nếu không làm như vậy thì bản thân mình sẽ là kẻ ngu vậy”. Thực ra việc Tần Thủy Hoàng cấm loại sách này để dân chúng không được giữ sách chứ không có ý phá hủy như một niềm vui. Ngoài việc bỏ đi mối lo “bản thân mình sẽ là kẻ ngu” còn là một suy nghĩ nhìn xa trông rộng. Chúng ta đều biết, virus đậu mùa đã tàn phá suốt nhiều thế kỷ, đoạt đi không ít tính mạng của con người, mang đến cho con người tai họa to lớn. Mặc dù như thế, con người vẫn không muốn tiêu diệt tận gốc loại virus này khiến nó biến mất hoàn toàn khỏi trái đất. Ngược lại người ta để lại một số lượng cực nhỏ loại virus này để nghiên cứu, bởi vì bất cứ ai cũng không thể nói trước rằng vào một ngày nào đó nó không trở lại đe dọa con người.
Trong dân gian, nếu như cất giữ sách cấm, kháng cự lệnh trên mà không giao sách hậu quả sẽ ra sao? Câu trả lời là: “Lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ xăm mặt và bắt làm phu xây dựng trường thành”. Theo cách nhìn của ngày nay, hình phạt như vậy là nghiêm trọng, nhưng với những hình phạt nghiêm ngặt dưới triều Tần, đây có thể coi là thuộc hàng tội nhẹ. Hơn nữa, cách xử phạt như vậy là đối với những người giấu sách bị quan lại phát hiện còn nếu như chưa bị phát hiện thì hoàn toàn không bị truy cứu.
Từ đó có thể thấy, trong lệnh đốt sách đương thời, đốt sách không phải là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên. “Nửa đêm bên cầu hô gọi trẻ, nhân gian hãy còn chưa đốt sách”. Lý Tư và Tần Thủy Hoàng đều biết rất rõ, ra lệnh đốt sách cũng không thể đốt sạch được. Đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chính trị mà thôi.
Còn như: “Những người dám lấy ngụ ngôn trong Thi, Thư, bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay, giết cả họ”. Chúng ta dễ thấy rằng, tội danh “ngụ ngôn Thi, Thư”, lại nặng hơn rất nhiều so với việc “cất giữ Thi, Thư”. Cất giữ Thi, Thư có chỉ bị thích vào mặt và bắt đi xây dựng trường thành, trong khi nói những lời ngụ ngôn Thi, Thư lại bị chặt đầu bêu ở chợ. Một tội danh nặng nữa là “lấy xưa chê nay, tru di cả họ”. Có thể suy luận rằng, đây mới chính là mục đích quan trọng nhất của lệnh cấm sách, đó là cấm chỉ dân chúng bàn bạc về việc chính trị của đương triều, thứ đến là cấm dân chúng không được bàn luận về chính trị thời xưa rồi dùng xưa mà chê nay. Tóm lại một câu là: cấm bàn việc chính trị. Thiên hạ không có việc lạm bàn chính trị, tất sẽ yên ổn, đây chính là căn cứ logic tự nhiên của lệnh cấm này.
Đốt sách đương nhiên là việc làm không đúng, bởi nó là hành vi hủy diệt văn hóa. Nhưng đối với nước Tần, những lời bàn luận khắp thiên hạ, vạn ngựa cùng hí một tiếng mới là đáng sợ nhất. Phòng những lời nói từ miệng dân chúng, còn quan trọng hơn đắp đê ngăn lũ. Từ cổ đến nay phòng lũ có hai cách. Một là đắp đê, Cổn là dùng phương pháp này nhưng kết quả là cơn Hồng Thủy càng ngày càng lớn, còn bản thân đã bị vua Nghiêu phái Chúc Dung xử chết ở Vũ Giao. Hai là khơi dòng, đây là cách mà con Cổn là Đại Vũ đã áp dụng, kết quả là Vua Vũ đã trị thủy thành công.
Vì kế lâu dài cho đất nước, đáng lý ra nên giữ một mức độ tự do ngôn luận nhất định rồi từ từ uốn nắn để trị nước cho tốt. Nói theo cách nói của Chủ Biện đời Bắc Tống trong Tục ủy bí thuyết:
“Sự thịnh suy của bản thân là do nguyên khí, còn thịnh suy của thiên hạ là nằm ở sĩ khí. Nguyên khí mạnh mẽ thì da dẻ hồng hào, sĩ khí dồi dào thì triều đình vững mạnh. Người giỏi dưỡng sinh là người không làm cho nguyên khí tiêu hao, người giỏi trị nước là người không làm cho sĩ khí ủ rũ. Muốn nguyên khí không tiêu hao cần phải cố gắng ăn uống bổ trợ, đặc biệt là yết hầu vì nó là nơi cho thức ăn vào. Còn muốn sĩ khí không ủ rũ tất cần phòng bị những chỗ còn vướng mắc, mà lời nói trên đường có thể phát hiện những chỗ vướng mắc ấy. Gần lấy chư thân, xa lấy chư vật, xa gần tuy khác nhưng đạo trị nước thì không có hai.”
Lại nói tới việc đốt sách, lệnh đốt sách của Tần Thủy Hoàng có thực sự làm tuyệt diệt sách hay không? Hậu quả của nó là đến mức nào? Cho tới nay, vẫn chưa có một phán đoán chính xác nào. Sử ký – Lục quốc niên biểu có viết: “Thi, Thư có thể lại được xem thấy là vì có nhiều người cất giữ”. Vương Sung trong Luận hoành –Thư giải biên cũng nói: “Tần tuy vô đạo, nhưng không đốt sạch sách của chư tử, sách của chư tử vẫn còn lưu lại khá đầy đủ”. Hai nhận định trên đây có thể thấy, chí ít đến đời Hán những bộ phận tinh hoa của sách cổ như Thi, Thư, sách của chư tử đều vẫn còn tồn tại đầy đủ.
Mặt khác, do ở trong cung đình đều có lưu lại các một bộ tất cả các loại sách cổ, chỉ cần Tần Thủy Hoàng không đốt có thể tin rằng những sách này vẫn còn được lưu lại nguyên vẹn ở đó. Nhưng cũng có rất nhiều sách mai một không còn tông tích, người đời sau vĩnh viễn không còn được thấy nữa. Điều này chúng ta phải đặc biệt cảm ơn vị Tây Sở bá vương mà người đời luôn gọi là anh hùng Hạng Vũ.
Chúng ta đều biết Hạng Vũ không thích đọc sách, tính khí rất ngang ngược. Khi ông ta mang quân tấn công Hàm Dương, đầu tiên là giết hại dân trong thành, sau đó là vơ vét tiền bạc và gái đẹp cuối cùng cho một mồi lửa đốt sạch cung điện nhà Tần. Sử sách còn chép: “lửa cháy ba tháng không ngừng”. Những sách quý mà Tần Thủy Hoàng còn lưu giữ trong cung điện cũng vì thế mà bị cháy rụi. Thật đáng tiếc, pháp chế từ Đường, Ngu, Tam Đại cho đến những lời dạy bảo của các bậc thánh hiền đời xưa cuối cùng chỉ còn là một đống tro tàn.
Vì thế chúng ta có thể không khách khí mà nói rằng: Việc đốt sách không phải tội của Lý Tư, càng không phải tội của Tần Thủy Hoàng, đó là tội của Hạng Vũ vậy.
Nếu chỉ căn cứ vào hai chữ đốt sách, thì với lệnh đốt sách của Tần Thủy Hoàng, người ta sẽ nghĩ đến những tổn thất nặng nề. Nhưng khả năng thực tế không hoàn toàn giống như người ta tưởng tượng. Trong Hán thư – Nghệ văn chí có chép 677 loại trước tác trong đó có khoảng 524 loại, ước khoảng 77% đến nay không còn tồn tại. Sự thực này nói lên một điều rằng, mấy thế kỷ từ Hán về sau, đặc biệt là trước khi kỹ thuật in ấn lưu hành, việc làm hư hại sách cũng rất lớn, thậm chí còn vượt xa cả việc đốt sách dưới triều Tần Thủy Hoàng. Vì thế có thể tưởng tượng, nếu không có sự kiện đốt sách mà truyền tới đời sau thì cũng không thể lưu lại được bao nhiêu sách cả.
Thêm nữa việc đốt sách mà Lý Tư đề ra không phải là lần đầu tiên. Trước đó, Mạnh Tử có nói rằng: “Các chư hầu ghét lễ nhà Chu đã hỏng rồi mà tất cả đều bỏ những điển tịch đó đi”. Sách Hàn Phi Tử có chép: “Vua thương dạy Hiếu công đốt Thi, Thư mà nghiêm pháp lệnh”.
Đó là trước đời Tần Thủy Hoàng. Đến các đời sau, việc đốt sách càng không phải hiếm.
Ngưu Hoằng, đời Tùy có viết Thượng biểu thỉnh khai hiến thư chi lộ từng nói đến 5 lần trong lịch sử văn tịch bị thiêu đốt:
Thời Tần Thủy Hoàng, ra lệnh đốt sách. Đó là lần hủy sách đầu tiên. Cuối đời Hán Vương Mãng, khởi binh ở Trường An, sách trong cung thất đều đem đốt sạch. Đó là lần hủy sách thứ hai. Hiếu Hiến Đế dời đô, khiến dân nổi loạn, sách viết vào lụa đều đem làm màn trướng cả. Khi dời đô về Tây, tải hơn 70 xe nhưng gặp khi Tây Kinh đại loạn, đã bị đốt sạch. Đó là lần hủy diệt sách thứ ba. Lưu, Thạch xâm lược, kinh đô hoa lệ cũng bị thiêu rụi, triều chương quốc điển đều bị chôn vùi. Đó là lần hủy sách thứ tư. Quân Chu vào đất Sính, Tiêu Dịch thu toàn bộ sách, cho đến điển tịch công tư của Văn Đức, hơn 7 vạn quyển, đều đem đốt ở ngoài thành, mười phần chỉ còn một hai. Đó là lần hủy diệt sách thứ năm.
Hồ Ứng Lân đời Minh trong Thiếu thất sơn phòng bút tùng, ngoài năm lần hủy sách mà Ngưu Hoằng đã đề cập đến còn đưa ra năm lần hủy sách lớn nữa trong lịch sử kể từ sau đời Tùy thành mười lần hủy sách.
Đến đời Mãn Thanh, những vụ án liên quan đến văn chương rất nhiều, gặp xui không chỉ là sách mà còn bao gồm cả người viết và người cất giữ sách nữa. Chỉ cần một từ phạm húy người học trò sẽ bị lăng trì, tùng xẻo, tru di tam tộc, chết rồi còn bị phá quan tài đánh thi thể, đem xương đốt thành tro. “Thương Hiệt sáng tạo ra chữ mà quỷ thần khóc”, chẳng biết có phải quỷ thần đã nhìn thấy từ trước kiếp nạn thời Mãn Thanh hay không mà kêu khóc thảm thiết như vậy?
Án văn tự nổi lên vào thời kỳ của vua Càn Long, kéo dài suốt mấy trăm năm, thời gian càng dài, sự tàn phá càng ghê gớm, liên lụy càng nhiều, tội trạng càng bi thảm, cường độ rất mạnh thực là không tiền khoáng hậu.
Chỉ tính án văn tự trong thời Càn Long từ 1772 đến 1788, trong 2320 loại sách cấm và 345 loại sách bị tiêu hủy chỉ có 476 loại may mắn còn được lưu giữ, tức là không đến 18%. Cũng phải nhớ rằng những con số thiệt hại này là trong thời kỳ mà kỹ thuật in ấn đã rất phát triển.
Ngoài việc triều Mãn Thanh cấm sách, cũng cho tu sửa rất nhiều sách. Bộ Tứ khố toàn thư là một ví dụ. Nhưng nó cũng có những tì vết không nhỏ.
Đối với vấn đề này, Lỗ Tấn từng bình: “Chỉ cần nhìn thủ đoạn của hai triều Ung Chính và Càn Long đối với trước tác của Trung Quốc có thể khiến người ta kinh sợ. Đốt toàn bộ, đốt một phần, cắt bỏ vẫn chưa đáng nói, đáng sợ nhất là thay đổi nội dung của các văn tịch đời trước. Khi Càn Long biên soạn bộ Tứ khố toàn thư, rất nhiều người ca ngợi là tạo nên công nghiệp một đời, nhưng họ không những đảo loạn cách thức của văn tịch cổ mà còn sửa cả nội dung của sách cổ. Sau đó, họ không chỉ lưu giữ trong cung mà còn phát hành rộng rãi khiến cho sĩ tử trong thiên hạ đều đọc. Khiến người đời vĩnh viễn không thấy được khuôn mặt thực của những tác giả của Trung Quốc”. Vì thế có lời than rằng: “Đời Thanh biên soạn Tứ khố toàn thư làm sách cổ bị mất vậy”.
Nếu so với lệnh đốt sách của Tần Thủy Hoàng đây há chẳng phải là một tầng bậc cao hơn của việc hủy diệt sách hay sao?
Tuy nhiên, vạch tội của người khác hoàn toàn không khiến cho anh trở thành thánh nhân. Mặc dù việc đốt sách không phải do một mình Tần Thủy Hoàng làm nhưng nó không giúp ông ta tránh khỏi tội danh này. Việc đốt sách của Tần Thủy Hoàng mở đầu cho việc chính quyền chuyên chế phong kiến trắng trợn giết chết tự do tư tưởng quần chúng. Nó không chỉ có hậu quả nghiêm trọng đương thời mà còn ảnh hưởng rất sâu sắc đến tâm lý của người đời sau. Đó là điều không thể phủ nhận.
Nguồn sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét