Nguồn gốc của nền dân chủ và các nhà văn cách mạng thời kỳ 1776-1820
Kathryn VanSpanckeren
Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 11/1998
Cuộc Cách mạng gian khổ của Mỹ chống người Anh (1775-1783) là cuộc chiến tranh giải phóng hiện đại đầu tiên chống lại một cường quốc thuộc địa. Chiến thắng của nền độc lập Mỹ đối với nhiều người thời đó hình như là một dấu hiệu linh thiêng báo hiệu rằng nước Mỹ và nhân dân Mỹ được trao cho sứ mệnh làm nên điều kỳ vĩ. Chiến thắng quân sự cũng khơi dậy những hi vọng của dân tộc Mỹ về một nền văn học mới vĩ đại. Tuy nhiên ngoại trừ những bài viết chính trị kiệt xuất, chỉ có một số tác phẩm có giá trị xuất hiện trong hoặc ngay sau thời kỳ Cách mạng.
Các tác phẩm văn chương Mỹ được bình phẩm một cách khắt khe ở Anh. Người Mỹ đau khổ nhận ra sự lệ thuộc quá độ vào khuôn mẫu văn học Anh. Cuộc tìm kiếm một nền văn học mang bản sắc riêng trở thành một ám ảnh dân tộc. Như chủ bút một tạp chí Mỹ viết vào khoảng năm 1816: “Lệ thuộc là một tình trạng thấp kém đầy ô nhục và phụ thuộc vào tư tưởng bên ngoài để có được những gì chính chúng ta có thể làm ra được là cộng thêm sự kém cỏi do ngu dốt vào với tội ác của thói lười biếng”.
Những cuộc cách mạng văn hóa, không giống với những cuộc cách mạng quân sự, không thể thành công bằng cách áp đặt; nó phải được nẩy nở trên mảnh đất của các kinh nghiệm được chia sẻ. Cách mạng là những biểu hiện của trái tim của nhân dân, chúng lớn dần lên từ những cảm nhận mới mẻ và những kinh nghiệm phong phú. Phải mất 50 năm tích lũy lịch sử để nước Mỹ có thể giành được độc lập văn hóa và để sản sinh thế hệ các nhà văn Mỹ vĩ đại đầu tiên: Washington Irving, James Fenimore Cooper, Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Herman Melville, Nathaniel Hawthorne, Edgar Allan Poe, Walt Whitman và Emily Dickinson. Sự độc lập của văn học Mỹ bị chậm lại bởi quá trình đồng hóa kéo dài với Anh quốc, một sự rập khuôn thái quá những khuôn mẫu văn học Anh hay văn học cổ điển, thêm vào đó tình hình kinh tế, chính trị khó khăn cũng cản trở việc xuất bản.
Những nhà văn cách mạng, dù có tinh thần ái quốc thật sự và cảm thấy cần một sự tự nhận thức cũng không bao giờ tìm được cội nguồn trong những cảm nhận với tư cách người Mỹ của họ. Những nhà văn thuộc địa của thế hệ cách mạng thường sinh trưởng ở Anh, đạt tới tuổi trưởng thành với tư cách là một công dân Anh, có cách suy nghĩ của người Anh, thậm chí cách ăn mặc và cư xử cũng là của người Anh. Cha mẹ của họ cũng là người Anh hoặc người châu Âu và tất cả bạn bè của họ cũng thế. Thêm vào đó, nhận thức của người Mỹ về các trào lưu văn học vẫn còn lê bước đằng sau người Anh, và sự tụt hậu thời gian làm tăng thêm thói mô phỏng của người Mỹ. Năm mươi năm sau khi đã thành danh ở Anh, những nhà văn Tân cổ điển Anh như Joseph Addison, Richard Stelle, Jonathan Swift, Alexander Pope, Oliver Goldsmith và Samuel Johnson vẫn còn được hăm hở bắt chước ở Mỹ.
Hơn nữa những thử thách vội vã của việc xây dựng một quốc gia mới đã lôi cuốn những người tài năng, có học vấn vào lĩnh vực chính trị, luật pháp, và ngoại giao. Những theo đuổi này mang lại danh dự, vinh quang và sự đảm bảo tài chính. Viết lách, ngược lại, không đẻ ra tiền. Những nhà văn Mỹ buổi đầu, một khi đã tách khỏi mẫu quốc, đã không có sự bảo trợ có hiệu quả của các nhà xuất bản hiện đại, không có độc giả và cũng không có được sự bảo vệ hợp pháp tương xứng. Công việc hỗ trợ về biên tập, phân phối và quảng cáo đều ở dạng phôi thai.
Cho đến tận 1825, hầu hết các tác giả Mỹ phải trả tiền cho các nhà in để xuất bản tác phẩm của mình. Hẳn nhiên, chỉ những người giàu có, độc lập, không phải làm gì để kiếm sống như Washington Irving và nhóm Knickerbocker New York hay nhóm các nhà thơ Connecticut, còn được gọi là Hartford Wits, mới có thể có đủ tiền để nuôi dưỡng niềm say mê viết lách của mình. Benjamin Franklin là một ngoại lệ. Dẫu xuất thân từ một gia đình nghèo, nhưng ông làm nghề in nên có thể tự xuất bản tác phẩm của mình.
Charles Brockden Brown tiêu biểu hơn cả. Là tác giả nhiều chuyện tình cảm động mang phong cách Gothic([1]), Brown là nhà văn Mỹ đầu tiên cố sống bằng nghề viết lách. Nhưng cuộc đời ngắn ngủi của ông kết thúc trong nghèo khổ.
Thiếu độc giả cũng là một vấn đề nan giải. Số độc giả có văn hóa vốn rất ít ở Mỹ chỉ muốn đọc những tác giả nổi tiếng ở châu Âu, một phần cũng do lòng kính trọng thái quá mà những người dân thuộc địa trước đây dành cho những kẻ cai trị ngày xưa của họ. Sự ưa chuộng những tác phẩm Anh không hoàn toàn là vô căn cứ nếu xét đến sự kém cỏi của các tác phẩm văn chương Mỹ. Chính điều này đã làm cho tình hình thêm xấu đi vì nó khiến các nhà văn Mỹ chẳng còn được bao nhiêu bạn đọc. Chỉ có báo chí tạo ra được sự bù đắp tài chính, tuy vậy phần đông độc giả thích loại thơ văn nhẹ nhàng, không đòi hỏi phải suy tư và những tiểu luận ngắn mang tính thời sự chứ không phải loại tác phẩm dài hoặc thử nghiệm.
Việc không có những điều luật đầy đủ về bản quyền có lẽ là nguyên nhân rõ nhất dẫn đến sự trì trệ của văn học. Điều đó thật dễ hiểu; khi các nhà in ở Mỹ có thể dễ dàng đánh cắp bản quyền của các tác phẩm bán chạy nhất ở Anh, thì việc gì họ phải trả tiền cho một tác giả Mỹ vì một cuốn sách vớ vẩn nào đó.
Việc in lại các tác phẩm văn học nước ngoài mà không có giấy phép, thoạt đầu được xem như là để phục vụ cho thuộc địa cũng như là một nguồn lợi cho các chủ nhà in như Franklin, người đã in lại các tác phẩm văn học cổ điển và vĩ đại của châu Âu để nâng cao dân trí ở Mỹ.
Tất cả nhà in trên đất Mỹ đều theo gương của ông. Có nhiều vụ ăn cắp bản quyền rất tiếng tăm. Matthew Carey, một nhà xuất bản quan trọng ở Mỹ trả cho một mật viên ở London một loại tình báo văn học - để gửi những bản sao những trang sách chưa đóng bìa, hay ngay cả bản in thử đến cho ông trên những chiếc tàu nhanh có thể đến Mỹ trong vòng một tháng. Người của Carey sẽ đi thuyền ra đón những con tàu đang vào cảng và cấp tốc in lại những cuốn sách bị ăn cắp này bằng cách chia cuốn sách ra nhiều phần cho nhiều người cùng sắp chữ và làm việc theo ca 24 trên 24. Một cuốn sách bị ăn cắp như vậy có thể được in lại trong vòng một ngày và đưa lên kệ bày bán trong các hiệu sách ở Mỹ hầu như cùng một lúc với các cuốn sách ở Anh.
Vì giá của các ấn bản nhập khẩu hợp pháp rất đắt do đó không thể cạnh tranh với những bản sách ăn cắp, tình trạng này làm thiệt hại quyền lợi của những tác giả nước ngoài như Nam tước Walter Scott và Charles Dickens, cũng như những tác giả Mỹ khác. Nhưng ít nhất những tác giả ngoại quốc đã được các nhà xuất bản gốc trả tiền và đã nổi tiếng về các tác phẩm của mình. Các nhà văn Mỹ, chẳng hạn như James Fenimore Cooper không những không được trả tiền đầy đủ, mà lại còn phải đau khổ chứng kiến sách mình bị ăn cắp ngay trước mũi. Cuốn sách thành công đầu tiên của Cooper The Spy (Điệp viên -1821) bị bốn chủ nhà in khác nhau ăn cắp trong vòng một tháng khi xuất hiện.
Thật trớ trêu, luật về bản quyền năm 1790 cho phép việc ăn cắp bản quyền, lại xuất phát từ một ý định bảo vệ quyền lợi quốc gia. Ý kiến này là của Noah Webster, một nhà từ điển học lớn và về sau biên soạn một cuốn từ điển Mỹ nổi tiếng. Điều luật này chỉ bảo vệ tác phẩm của những nhà văn Mỹ; làm cho các nhà văn Anh hiểu rằng họ phải tự chăm lo quyền lợi cho bản thân.
Dù điều luật này có tệ hại đến thế nào vẫn không một nhà xuất bản nào trong buổi đầu muốn thay đổi vì nó hiển nhiên là có lợi cho họ. Nạn ăn cắp bản quyền đã làm thế hệ các nhà văn Cách mạng Mỹ đầu tiên sống trong nghèo đói; nên chẳng lạ gì khi thế hệ tiếp theo cho ra đời càng ít tác phẩm có giá trị hơn. Cao trào của nạn ăn cắp bản quyền vào năm 1815, phù hợp với điểm thấp nhất của văn học Mỹ. Tuy nhiên, nguồn cung cấp rẻ tiền và dồi 37 dào các tác phẩm cổ điển và sách báo nước ngoài trong khoảng 50 năm đầu của đất nước non trẻ này đã có tác dụng đào tạo nên những người Mỹ xuất chúng, trong đó bao gồm thế hệ những nhà văn vĩ đại đầu tiên, những ngôi sao bắt đầu xuất hiện vào khoảng năm 1825.
THỜI KỲ VĂN HỌC KHAI SÁNG
Thời kỳ Khai sáng Mỹ thế kỷ 18 là một trào lưu văn học được đánh dấu bằng sự nhấn mạnh vào tính duy lý hơn là truyền thống, vào những tìm tòi khoa học thay vì giáo điều tôn giáo tuyệt đối, và vào hình thức chính phủ đại diện cho dân thay vì một vương quyền. Các nhà tư tưởng và tác gia thời Khai sáng đã tận hiến đời mình cho lý tưởng về công lý, tự do và bình đẳng vốn được coi như là những quyền tự nhiên của con người.
Benjamin Franklin
(1706 - 1790)
(1706 - 1790)
Ông là người được triết gia Scotland David Hume gọi là “tác gia vĩ đại đầu tiên của Mỹ”, hiện thân của lý tưởng thời Khai sáng về tư tưởng duy lý nhân bản. Thực tiễn nhưng lại đầy lý tưởng, làm việc cật lực và thành công rực rỡ, Franklin đã kể về thời niên thiếu của mình trong cuốn Autobiography (Tiểu sử tự thuật) nổi tiếng. Là nhà văn, chủ nhà in, nhà xuất bản, nhà khoa học, nhà từ thiện và nhà ngoại giao, ông là nhân vật nổi tiếng nhất và được tôn kính nhất vào thời của mình. Ông cũng là bậc vĩ nhân đầu tiên ở Mỹ đạt đến đỉnh cao bằng nỗ lực bản thân, vươn lên từ một nhà ngoại giao nghèo sinh ra trong thời đại quý tộc, mà chính gương sáng của ông đã giúp nước Mỹ giải phóng khỏi thời đại đó.
Franklin là người di dân thuộc thế hệ thứ hai. Cha ông là tín đồ Thanh giáo, một người làm nến từ Anh di cư đến Boston, bang Massachusetts năm 1683. Cuộc đời của Franklin, ở nhiều phương diện là một minh chứng cho ảnh hưởng của thời đại Khai sáng đến một cá nhân thiên tài. Tự học nhưng đọc rất nhiều của các tác giả như John Locke, Lord Shaftesbury, Joseph Addison và những tác giả Khai sáng khác, Franklin học hỏi ở họ nhiều điều để ứng dụng những lý luận đó vào cuộc sống riêng của mình và để có thể đoạn tuyệt với truyền thống -đặc biệt truyền thống Thanh giáo lỗi thời -khi nó đe dọa bóp chết lý tưởng của ông.
Khi còn trẻ, Franklin tự học nhiều ngoại ngữ, đọc miệt mài đủ các lãnh vực và luyện viết văn cho công chúng. Khi từ Boston dời đến Philadelphia, bang Pennsylvania, Franklin đã có được trình độ học vấn tương đương với giai cấp thượng lưu. Ông cũng có khả năng làm việc cần cù, chu đáo của một tín đồ Thanh giáo. Ông thường tự vấn bản thân và luôn khát khao tự hoàn thiện mình. Chính những phẩm chất này dần dần đưa ông đến sự giàu sang, danh tiếng và lòng kính trọng của người đời. Không chỉ sống cho riêng mình, Franklin cố gắng giúp đỡ những người bình thường khác được thành công bằng cách chia sẻ những tư tưởng và kinh nghiệm của mình. Ông chính là cha đẻ của một loại sách mang tính cách Mỹ đặc trưng -loại sách tự giúp mình.
Cuốn Poor Richard’s Almanack (Niên lịch về chàng Richard Nghèo khổ), được bắt đầu năm 1732 và xuất bản trong nhiều năm, đã làm cho Franklin trở nên giàu có và nổi tiếng khắp thuộc địa. Cuốn niên lịch này chứa đựng những lời động viên, khuyên bảo hữu ích, những thông tin thực tế và những nhân vật ngộ nghĩnh khôi hài như người cha già Abraham và Richard Nghèo khổ cống hiến cho độc giả những cách ngôn ý vị, đáng nhớ. Trong The Way to Weath (Đường đến giàu sang) xuất hiện đầu tiên trong bộ niên lịch, bố Abraham, “một ông già tươm tất giản dị, với những lọn tóc trắng” trích dẫn nguyên văn lời Richard Nghèo khổ. “Một lời với kẻ khôn đã là đủ, ông nói”. “Trời giúp những ai tự giúp mình”, “Ngủ sớm, dậy sớm, làm cho người ta khỏe mạnh, giàu có và thông thái”. Richard Nghèo khổ còn là một nhà tâm lý (“Sự siêng năng trả được nợ nần, còn thất vọng làm nợ chất chồng hơn”) và ông luôn khuyến khích người ta cần cù lao động (“Cần mẫn là mẹ của cơ may”). “Đừng lười biếng”, ông khuyên, bởi vì “một hôm nay bằng hai ngày mai”. Đôi lúc ông sáng tạo những giai thoại để minh họa quan điểm của mình. “Một sự bất cẩn nhỏ nhưng có thể ấp ủ một tai họa lớn... Vì thiếu một cái đinh, ta mất một chiếc móng ngựa, thiếu chiếc móng ta mất con ngựa, thiếu con ngựa ta mất một kỵ sĩ. Bị quân thù đuổi kịp và tàn sát, tất cả chỉ vì thiếu lưu tâm một cái đinh ở móng ngựa”. Franklin rõ ràng là một thiên tài trong khi diễn đạt cô đọng một điều luân lý: “Những gì dung dưỡng một tật xấu, có thể nuôi được hai đứa con”, “Một lỗ nhỏ sẽ làm đắm một chiếc thuyền lớn”, “Kẻ ngu dọn cỗ, người khôn chén sạch”.
Tiểu sử tự thuật của Franklin, phần nào đó, cũng là một cuốn sách tự - giúp -mình. Viết để khuyên bảo con trai, cuốn sách chỉ gói ghém vào những năm thơ ấu. Phần nổi tiếng nhất, mô tả một chương trình tự rèn luyện tu dưỡng bản thân một cách khoa học. Franklin liệt kê 13 đức tính: tự tiết chế, trầm lặng, ngăn nắp, kiên tâm, cần kiệm, chăm chỉ, trung thực, công bằng, mực thước, sạch sẽ, bình thản, thanh bạch, và khiêm nhường. Ông đã hiển thị mỗi đức tính bằng một châm ngôn; chẳng hạn, châm ngôn dành cho sự tiết chế là: “Đừng nên ăn đến phát ngán. Đừng nên uống đến lâng lâng”. Là một nhà khoa học thực nghiệm, Franklin đưa ý tưởng về sự hoàn thiện vào thử nghiệm, dùng chính mình làm đối tượng thử nghiệm.
Để rèn luyện những thói quen tốt, Franklin phát minh ra một cuốn sách ghi chép thường niên có thể dùng lại được, trong đó ông rèn luyện một đức tính mỗi tuần, ghi lại mỗi một lỗi bằng một chấm đen nhỏ. Phương pháp của ông gợi ý cho lý thuyết hành vi tâm lý sau này, còn cách thức ghi chép một cách có hệ thống của ông đã dự kiến phương pháp điều chỉnh hành vi của con người hiện đại. Phương cách tự hoàn thiện mình của Franklin hòa trộn niềm tin vào sự hoàn bích của thời Khai sáng cùng với tập quán đạo đức tự xét mình của tín đồ Thanh giáo.
Franklin đã thấy rõ từ rất sớm, sáng tác là cách tốt nhất hoàn thiện ý tưởng của mình, và vì vậy ông chú tâm hoàn thiện phong cách viết văn xuôi uyển chuyển của mình, không lấy nó làm mục đích tự thân mà biến nó thành phương tiện. “Hãy viết cho những người có học. Và nói thành lời với người bình dân”, ông khuyên. Là một nhà khoa học, ông nghe theo lời khuyên của Hiệp hội khoa học Hoàng gia năm 1667 sử dụng một cách nói tự nhiên, gần gũi và bộc trực; những cách diễn đạt hay rõ nghĩa, đơn giản một cách tự nhiên, càng gần với sự giản đơn toán học càng tốt”.
Mặc dù giàu có và nổi tiếng, Franklin có đầu óc dân chủ, và ông còn là một nhân vật quan trọng tham gia vào việc xây dựng Hiến pháp Mỹ. Trong những năm cuối đời, ông là chủ tịch một hiệp hội chống chế độ nô lệ. Một trong những nỗ lực cuối cùng của ông là phổ cập giáo dục cho công chúng.
Hector St. John de Crèvecoeur
(1735 - 1813)
(1735 - 1813)
Một tác gia tiêu biểu khác của thời kỳ Khai sáng là Hector St. John de Crèvecoeur, tác giả cuốn Letters from an American Farmer (Thư từ của một điền chủ Mỹ - 1782) đã đem đến cho người dân Cựu lục địa cái ý tưởng về những cơ hội có được một cuộc sống thanh bình, giàu sang và niềm kiêu hãnh tại Mỹ. Không phải là người Mỹ di cư, cũng chẳng phải là nông dân, Crèvecoeur là một nhà quý tộc Pháp sở hữu một trang trại ngoại ô New York trước Cách mạng. Ông nhiệt thành ca ngợi lòng hăng say lao động, đức tính khoan dung độ lượng và sự thịnh vượng không ngừng gia tăng của người dân thuộc địa, trong 12 lá thư mô tả nước Mỹ như là thiên đường của nhà nông -một sự tiên lượng đã khích lệ Thomas Jefferson, Ralph Waldo Emerson và nhiều tác gia khác cho mãi tới ngày nay.
Crèvecoeur là người châu Âu đầu tiên có công xây dựng một quan điểm hợp lý rất Mỹ và một tính cách Mỹ mới mẻ. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra hình ảnh biểu trưng về nước Mỹ -một “melting pot” (một đất nước của mọi chủng tộc, mọi màu da, mọi giống người). Trong một đoạn văn nổi tiếng ông hỏi:
Thế thì người Mỹ là gì, con người mới này là ai? Anh ta đến từ châu Âu không thì cũng là con cháu của người châu Âu, kết quả là sự pha trộn máu huyết lạ lùng đó, bạn sẽ không tìm thấy ở một đất nước nào khác. Tôi có thể chỉ cho bạn một gia đình mà ông nội là người Anh, bà nội là người Hà Lan, con của họ lấy vợ người Pháp. Và rồi bốn đứa con trai của bà vợ Pháp lấy bốn bà vợ từ bốn quốc gia khác nhau... Ở đây những cá nhân của tất cả các đất nước được hòa trộn thành một giống dân mới, mà sức lao động và hậu duệ của họ một ngày nào đó sẽ tạo nên những thay đổi trên thế giới.
SÁCH PAMPHLET([2])
Thomas Paine
(1737 -1809)
(1737 -1809)
Lòng say mê văn học Cách mạng được thể hiện đậm nét trong những tập sách mỏng, một hình thức phổ biến nhất của văn chương chính trị trong thời đó.
Hơn 2000 tập sách pamphlet được xuất bản trong thời kỳ Cách mạng. Những tập sách này mê hoặc những người yêu nước và đe dọa những người trung thành với mẫu quốc. Chúng có vai trò của sân khấu, vì thường được đọc lớn giữa nơi công cộng để khích lệ, cổ động và tuyên truyền khán giả. Binh lính Mỹ đọc chúng thành tiếng trong doanh trại; còn những người trung thành với Vương triều Anh thì ném chúng vào lửa.
Tập sách Common Sense (Ý thức công dân) của Thomas Paine bán được hơn 100 ngàn bản trong 3 tháng đầu xuất hiện. Nó vẫn còn khơi dậy tình yêu nước cho đến tận ngày nay. “Chính nghĩa của nước Mỹ chủ yếu là chính nghĩa của toàn nhân loại”, Paine viết, gióng lên tiếng nói của ý tưởng về chủ thuyết đặc thù Mỹ vẫn còn rất mạnh ở Mỹ -rằng trong một ý nghĩa cơ bản nào đó - vì nước Mỹ là một thể nghiệm dân chủ và là một đất nước có chủ trương mở rộng cửa cho mọi cuộc di dân nên số phận nước Mỹ báo trước số phận của nhân loại nói chung.
Những bài viết tuyên truyền chính trị trong một nền dân chủ phải thật đơn giản, rõ ràng để thu hút cử tri. Và để có được những cử tri hiểu biết, giáo dục phổ cập được đẩy mạnh bởi nhiều nhà tiên phong. Một dấu hiệu của sự khởi sắc trong đời sống văn chương rõ ràng là nhờ sự nở rộ của báo chí. Trong thời kỳ Cách mạng, người ta đọc báo nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Một văn phong đơn giản, trong sáng, súc tích rất cần thiết đối với mọi người dân nhập cư, vì tiếng Anh sẽ là ngôn ngữ thứ hai của họ. Bản thảo viết tay lần đầu Tuyên ngôn độc lập của Thomas Jefferson rất rõ ràng, lập luận chặt chẽ; những sửa đổi của Ủy ban giúp việc còn làm cho nó thậm chí đơn giản hơn. The Federalist Papers (Những tiểu luận của Phái Liên bang), được viết ra để hỗ trợ Hiến pháp, là một áng văn trong sáng với những lập luận logic phù hợp với các cuộc tranh luận trong một quốc gia dân chủ.
CHỦ NGHĨA TÂN CỔ ĐIỂN: SỬ THI, SỬ THI CHÂM BIẾM VÀ TRÀO PHÚNG
Thật không may, cái được gọi là “văn chương” lại không đơn giản và trực diện như các bài viết chính trị. Trong nỗ lực sáng tác thi ca, hầu hết những nhà thơ thông thái đều vấp vào cái bẫy tao nhã của chủ nghĩa Tân cổ điển. Đặc biệt, sử thi có một sự quyến rũ chết người. Các nhà thơ Mỹ giàu lòng ái quốc chắc chắn rằng tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Mỹ chỉ có thể được thể hiện tương ứng trong sử thi -một loại truyện thơ dài đầy kịch tính sử dụng ngôn ngữ trang trọng ca ngợi những hành động phi thường của một anh hùng huyền thoại.
Nhiều tác giả đã thử viết nhưng không ai thành công. Timothy Dwight (1752-1817), một người trong nhóm những nhà văn được gọi là “The Hartfort Wits” (Những nhà thông thái Hartfort), là một ví dụ. Dwight sau này trở thành hiệu trưởng Đại học Yale, dựa vào câu chuyện về cuộc đấu tranh của Joshua đến miền Đất Hứa trong Kinh thánh để viết sử thi The Conquest of Canaan (Cuộc chinh phục vùng Canaan([3]) - 1785) của mình. Trong sử thi này, Dwight đã lồng hình ảnh tướng Washington, chỉ huy quân đội Mỹ và về sau trở thành Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ vào nhân vật Joshua trong truyền thuyết và ông đã vay mượn hình thức cặp câu mà Alexander Pope dùng để dịch Homer. Sử thi của Dwight vừa nhàm chán vừa đầy tham vọng. Các nhà phê bình Anh thẳng tay sổ toẹt, ngay cả bạn bè của Dwight, như là John Trembull (1750 -1831) cũng chẳng nhiệt tình bảo vệ. Có quá nhiều sấm chớp rền vang trong những cảnh chiến trận đầy kịch tính và khiên cưỡng đến nỗi Trembull đề nghị tập sử thi nên có thêm những cột thu lôi.
Nên không có gì ngạc nhiên khi loại thi ca châm biếm có đất dụng võ hơn thi ca nghiêm túc trên. Thể loại sử thi châm biếm khuyến khích các thi sĩ Mỹ sử dụng tiếng nói tự nhiên của họ và không khuyến dụ họ rơi vào vũng lầy những tình cảm ái quốc vừa đao to búa lớn vừa có thể đoán được đầy những hình dung từ trong thi ca ước lệ thiếu bản sắc từ thời cổ đại Hy Lạp với nhà thơ Homer, thời La Mã với thi sĩ Virgil qua cách biểu đạt của các nhà thơ Anh.
Trong M’Fingal (1776-1782), một sử thi trào tiếu vui nhộn của John Trembull, loại văn phong đầy ắp những xúc cảm truyền thống và ước lệ lại chính là vũ khí cho sự trào phúng lành mạnh và chính lối hùng biện khoa trương trong thời Cách mạng bị chế nhạo. Dựa vào khuôn mẫu của tập thơ Hudibras của nhà thơ Anh Samuel Butler, tập sử thi đã cười nhạo một người trung thành với Mẫu quốc, M’Fingal. Tác phẩm thường rất hàm súc như khi ghi nhận về những tên tội phạm đối mặt với giá treo cổ.
Chẳng có ai đứng dưới giá treo cổ
Lại có ý nghĩ tốt đẹp về luật pháp.
Lại có ý nghĩ tốt đẹp về luật pháp.
M’Fingal được tái bản tới 30 lần, được in đi in lại trong vòng nửa thế kỷ, được đánh giá cao cả ở Anh lẫn ở Mỹ. Văn trào phúng thu hút đông đảo độc giả thời Cách mạng một phần bởi nó chứa đựng những lời bình phẩm và phê phán xã hội. Những đề tài chính trị và những vấn đề xã hội là những nội dung chính trong thời kỳ này. Vở hài kịch đầu tiên của Mỹ The Contrast (Sự tương phản) của Royall Tyler (1757 -1826) là một sự tương phản nực cười giữa Đại tá Manly, một sĩ quan Mỹ, và Dimple, một người Anh học đòi. Lẽ dĩ nhiên, nhân vật Dimple được dàn dựng trông hết sức lố bịch. Vở kịch đã giới thiệu một tính cách Yankee([4]) đầu tiên, nhân vật Jonathan.
Một tác phẩm châm biếm khác, cuốn tiểu thuyết Modern Chivalry (Chàng hiệp sĩ thời nay), do Hugh Henry Brackenridge xuất bản từng phần từ 1792 đến 1815, đả kích những biểu hiện thái quá của người đương thời một cách đầy ấn tượng. Brackenridge (1748 -1816), một người gốc Scotland di cư và lớn lên ở vùng biên giới Mỹ, đã xây dựng cuốn tiểu thuyết phiêu lưu khổng lồ của mình trên hình tượng hiệp sĩ Don Quixote để mô tả những bất hạnh của đại úy Farrago và người đầy tớ Teague O’Regan ngu đần, thô lỗ nhưng đầy nhân tính.
NHÀ THƠ CỦA THỜI KỲ CÁCH MẠNG
Philip Freneau
(1752 -1832)
(1752 -1832)
Philip Freneau là thi sĩ đã kết hợp những rung động mới mẻ của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu, và cũng thoát ly khỏi tính chất mô phỏng chung chung mơ hồ của nhóm The Hartford Wits. Cái điều dẫn đến cả thành công lẫn thất bại của ông chính là tinh thần say mê dân chủ kết hợp với cá tính cứng nhắc.
Chẳng có gì để nghi ngờ tinh thần yêu nước nhiệt thành của nhóm The Hartford Wits, họ phản ánh quan niệm bảo thủ văn hóa nói chung của những tầng lớp trí thức. Freneau căm ghét thái độ ngoan cố của đám trung thành với Mẫu quốc, phê phán lối viết quý tộc, thuần túy tư biện ở Hartford, thái độ bảo hoàng và sự phân biệt đẳng cấp của họ. Mặc dù Freneau rất uyên bác, thông kim bác cổ như bất kỳ một tác gia nào trong nhóm The Hartford Wits, ông dễ dàng hội nhập với làn sóng tự do, dân chủ.
Là một người theo phái Huguenote (Tin lành tiến bộ Pháp), Freneau tham gia vào cuộc chiến tranh cách mạng với tư cách là một dân quân tự vệ. Vào năm 1780, ông bị bắt và bị giam giữ trong hai chiếc tàu của Anh, nơi ông suýt chết trước khi gia đình xoay xở giải thoát được cho ông. Bài thơ của ông The British Prison Ship (Con tàu nhà tù của bọn Anh) là một lời kết án cay đắng sự độc ác của người Anh “những người muốn nhuộm cả thế giới này bằng máu”. Bài thơ này và những tác phẩm cách mạng khác bao gồm: Eutaw Springs (Mùa xuân ở Eutaw), American Liberty (Tự do Mỹ), A Political Litany (Sách kinh chính trị), A Midnight Consultation (Cuộc hội đàm lúc nửa đêm), George the Third’s Soliloquy (Đoạn độc thoại của George đệ Tam) đã mang đến cho ông danh hiệu “Nhà thơ của cuộc cách mạng Mỹ”.
Freneau làm biên tập cho nhiều tờ báo, suốt đời dành nhiệt huyết cho lý tưởng vĩ đại về một nền dân chủ. Khi Thomas Jefferson giúp ông lập nên tờ National Gazette chiến đấu, chống phái Liên bang([5]) năm 1791, Freneau trở thành người chủ bút đầy sức mạnh và có tinh thần đấu tranh không khoan nhượng nhất ở Mỹ, và là người tiền nhiệm của hàng loạt tên tuổi lừng danh như William Cullen Bryant, William Lloyd Garrison và H. L. Mencken.
Là một nhà thơ và chủ bút, Freneau gắn bó với lý tưởng dân chủ của mình. Những bài thơ nổi tiếng của ông đăng tải trên báo là để cho độc giả bình dân, với âm hưởng chủ đạo là ngợi ca những vấn đề của người Mỹ. Bài thơ Virtue of Tobacco (Lợi ích cây thuốc lá) đề cập đến cây thuốc lá địa phương, nguồn sống của nền kinh tế miền Nam, còn bài thơ The Jug of Rum (Rượu mạnh) ca tụng loại rượu này ở miền West Indies, một mặt hàng quan trọng của nền thương mại non trẻ Mỹ và là mặt hàng xuất khẩu chính của Tân thế giới. Những con người Mỹ hết sức bình thường hiện diện trong bài The Pilot of Hatteras (Người phi công ở Hatteras) cũng như trong những bài thơ về những bác sĩ giả hiệu và những giáo sĩ lộng ngôn.
Freneau đã đạt đến phong cách bình dân tự nhiên thích hợp với nền dân chủ thật sự, nhưng ông cũng đồng thời vươn tới một phong cách trữ tình tân cổ điển cao nhã thể hiện rõ nét trong những bài thơ thường được tuyển chọn như là The Wild Honey Suckle (Hoa cố hương([6]) - 1786), gợi lên hình ảnh về lùm cây nơi quê nhà ngào ngạt hương. Mãi cho đến những năm 1820 - thời điểm được coi là khởi đầu của văn học Phục hưng Mỹ, thi ca Mỹ mới vượt qua được những đỉnh cao mà Freneau đã đạt đến trước đó 40 năm.
Những cơ sở tăng cường cho thành tựu văn học trong tương lai đã được đặt nền móng từ những năm đầu tiên. Chủ nghĩa Dân tộc tạo nguồn cảm hứng cho các tác phẩm trong nhiều lãnh vực, dẫn đến một sức cảm thụ mới cho những gì mang tính cách Mỹ. Noah Webster (1758 - 1843) đã soạn một cuốn từ điển Mỹ, cũng là một học giả nổi tiếng và một người soạn sách chính tả quan trọng cho trường học. Cuốn sách dạy chính tả (Spelling Book) của ông bán ra hơn 100 triệu bản trong nhiều năm. Những cuốn từ điển Webster được cập nhật hóa vẫn còn mang tính chuẩn mực cho đến ngày nay. Cuốn American Geography (Địa lý Mỹ) do Jedidiah Morse biên soạn là một tác phẩm tham khảo rất nổi tiếng, đã góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về chính vùng đất Mỹ vốn đã mênh mông lại luôn được mở rộng. Một số tác phẩm hay nhất mặc dù không thuần túy là tác phẩm văn chương của thời kỳ này là nhật ký của những người vừa là nhà định cư tiên phong vừa là nhà thám hiểm như là Meriwether Lewis (1774 - 1809) và Zebulon Pike (1779 - 1813), viết những câu chuyện về những cuộc thám hiểm khắp lãnh thổ Louisiana, phần đất mênh mông của lục địa Bắc Mỹ mà Thomas Jefferson đã mua lại của Napoléon năm 1803.
CÁC NHÀ VĂN VIẾT TIỂU THUYẾT
Những nhà văn viết tiểu thuyết đầu tiên được đại chúng ngày nay công nhận như Charles Brockden Brown, Washington Irving và James Fenimore Cooper đã sử dụng các chủ đề về Mỹ, các bối cảnh lịch sử, những đề tài về sự vô thường với giọng điệu mang màu sắc hoài niệm. Họ sử dụng nhiều thể loại văn xuôi, khởi xướng những hình thức mới và bằng nhiều cách thức mới mẻ dùng văn học làm nghề kiếm sống. Cùng với họ, văn học Mỹ bắt đầu được biết đến và thưởng thức ở đất Mỹ cũng như ở nước ngoài.
Charles Brockden Brown
(1771 - 1810)
(1771 - 1810)
Được nhắc tới như nhà văn Mỹ chuyên nghiệp đầu tiên, Charles Brockden Brown lấy nguồn cảm hứng từ các nhà văn Anh như nữ sĩ Radcliffe và William Godwin (Radcliffe nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết kinh dị mang phong cách; Godwin là tiểu thuyết gia và là nhà cải cách xã hội, cũng là bố của Mary Sheller, người viết cuốn Frankernstein và lấy nhà thơ Percy Bysshe Shelley).
Bị thúc đẩy bởi sự đói nghèo, Brown vội vã phóng bút viết bốn cuốn tiểu thuyết hấp dẫn trong hai năm: Wieland (1798), Arthur Mervyn (1799), Ormond (1799) và Edgar Huntley (1799). Trong những cuốn này, ông phát triển một thể loại Gothic Mỹ. Tiểu thuyết mang phong cách là một thể loại thông dụng vào thời kỳ đó, đặc biệt thích nói về những bối cảnh hoang dã và kỳ lạ, về chiều sâu tâm lý bất ổn và những điều kỳ bí. Làm nền cho những câu chuyện đó là những tòa lâu đài hay tu viện hoang phế, đổ nát, những hồn ma, những điều bí mật huyền bí, những nhân vật gieo rắc nỗi kinh hoàng, những trinh nữ cô đơn tồn tại được nhờ vào trí thông minh và sức mạnh tâm linh của họ.
Ở vào giai đoạn hưng thịnh nhất, những cuốn tiểu thuyết như vậy đã đem lại cảm giác mạnh đầy hãi hùng và những ám ảnh ma thuật, cùng với những tìm kiếm sâu xa vào tâm hồn con người trong những trạng thái cực đoan. Các nhà phê bình cho rằng cảm quan trong các tiểu thuyết Gothic của Brown diễn đạt những âu lo sâu sắc về thể chế xã hội chưa hoàn chỉnh của một đất nước còn non trẻ.
Brown tái hiện những bối cảnh đặc biệt của nước Mỹ. Là một người giàu ý tưởng, ông đã kịch hóa những lý thuyết khoa học, phát triển một lý thuyết riêng về tiểu thuyết và ông đã đạt được những đỉnh cao văn chương mẫu mực mặc dù sống nghèo khổ. Dẫu có sai sót, những tác phẩm của ông có sức mạnh kinh người. Cùng với thời gian, ông được nhìn nhận là người mở đường cho các nhà văn lãng mạn như Edgar Allan Poe, Herman Melville và Nathaniel Hawthorne. Ông diễn tả những nỗi sợ hãi tiềm thức mà các nhà văn lạc quan thời Khai sáng cố tình lẩn tránh.
Washington Irving
(1789 -1859)
(1789 -1859)
Là con út trong một gia đình thương gia giàu có ở New York có tới 11 đứa con, Washington Irving từng là đại sứ ngoại giao và văn hóa ở châu Âu, giống như Benjamin Franklin và Nathaniel Hawthorne. Dù rất tài năng, có thể ông đã không trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, một cái nghề xét ra chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, nếu không có một loạt biến cố ngẫu nhiên đưa đẩy ông đến với nghề viết lách. Qua bạn bè, ông đã xuất bản cuốn Sketch Book (Phác thảo - 1819-1820) cùng một lúc cả ở Anh lẫn Mỹ, nhận được bản quyền và nhuận bút ở cả hai nơi.
Trong cuốn Sketch Book của Geoffrye Crayon (bút hiệu của Irving) có 2 truyện đáng nhớ nhất là Rip Van Winkle và The Legend of Sleepy Hollow (Truyền thuyết về thung lũng Buồn ngủ). Từ “sketch” (phác thảo) mô tả một cách thích hợp văn phong tinh tế, trau chuốt tuy có phần phóng túng của Irving, và “crayon” nghĩa là “tranh chì màu” nói lên tài năng của một họa sĩ có khả năng sử dụng màu sắc, có thể sáng tạo những sắc độ phong phú và tinh tế và những hiệu quả gây xúc động. Trong cuốn Sketch Book, ngòi bút của Irving đã biến dãy núi Catskill chạy dọc con sông Hudson phía bắc thành phố New York thành một vùng đất ma thuật, huyễn hoặc.
Độc giả Mỹ đón nhận cái “lịch sử” tưởng tượng về dãy núi Catskill của ông với lòng biết ơn, mặc dầu sự thật là (họ không được biết), ông đã vay mượn từ những câu chuyện ở Đức.
Dẫu vậy, Irving đã tặng nước Mỹ cái mà họ rất cần trong cái thế giới vật chất, hỗn mang của những năm đầu, đó là một cách liên hệ đầy tưởng tượng đến vùng đất mới.
Không một nhà văn nào đạt được thành công như Irving trong việc nhân cách hóa một vùng đất, đặt cho một cái tên, tạo ra một khuôn mặt và dựng lên một chuỗi huyền thoại về nó. Câu chuyện chàng Rip Van Winkle, ngủ suốt 20 năm, khi thức dậy để thấy thuộc địa đã giành được độc lập, đã biến thành một truyền thuyết dân gian. Nó được chuyển thể sang sân khấu, đi vào văn hóa truyền khẩu và dần dà được nhiều thế hệ người Mỹ chấp nhận như là một huyền thoại Mỹ đích thực.
Irving đã khám phá và đáp ứng yêu cầu về ý thức lịch sử của một quốc gia non trẻ. Rất nhiều tác phẩm của ông có thể được xem là những cố gắng hết mình để kiến tạo bộ mặt tinh thần của một quốc gia mới mẻ về nhiều mặt bằng cách sáng tạo lại lịch sử, trao cho nó hơi thở của sự sống và cùng với điều đó là cuộc sống tràn đầy sắc màu tưởng tượng. Irving có khuynh hướng chọn những đề tài chứa đựng nhiều kịch tính nhất trong lịch sử nước Mỹ: sự khám phá ra Tân thế giới, vị tổng thống và anh hùng dân tộc đầu tiên, cuộc chinh phục miền Tây. Tác phẩm đầu tay của ông History of New York (Lịch sử New York -1809) là một tác phẩm chói sáng, có tính trào phúng về thời kỳ New York còn là khu định cư do người Hà Lan thành lập. Cuốn sách được coi như là của tác giả Diedrich Knickerbocker (và kể từ đó nó là tên gọi chung cho bạn bè Irving và những nhà văn New York thời đó, trường phái “Knickerbocker”).
James Fenimore Cooper
(1789 -1851)
(1789 -1851)
Cũng như Irving, James Fenimore Cooper là nhà văn đã khơi dậy ý thức về quá khứ và gây dựng cho nó một môi trường và đặt cho nó một cái tên. Dầu vậy, người ta tìm thấy ở Cooper một truyền thuyết đầy sức mạnh về một thời vàng son và nỗi đau về sự mất mát đó. Trong khi Irving và những nhà văn Mỹ khác trước hoặc sau thời của ông lùng sục khắp châu Âu để tìm kiếm những huyền thoại, những lâu đài cổ và những đề tài vĩ đại, Cooper trung thành với huyền thoại cơ bản của nước Mỹ: rằng nó vĩnh cửu, cũng như sự hoang dã vậy. Lịch sử nước Mỹ là một sự xâm nhập vào sự vĩnh hằng; lịch sử châu Âu diễn ra ở Mỹ là một sự suy vong trong Vườn Địa đàng. Người ta lướt mắt qua chu kỳ sinh thái của tự nhiên chỉ là để hủy hoại nó: sự hoang dã biến mất trước mắt người Mỹ, chẳng còn dấu vết gì trước mắt thế hệ những người khai khẩn kế tiếp, như một phép lạ.
Đấy là cái nhìn cơ bản mang tính bi quan của Cooper trước sự tàn hủy chua xót của cõi hoang dã, vốn được xem là Vườn Địa đàng mới từng thu hút những người nhập cư đến đây trong buổi đầu.
Kinh nghiệm riêng đã cho phép Cooper có thể viết một cách sinh động về sự biến đổi của các vùng đất hoang dã và về những chủ đề khác như biển và những xung đột của các dân tộc có nền văn hóa khác nhau. Là con của một gia đình theo giáo phái Quaker, ông lớn lên trong một trang trại xa xôi của cha mình ở Otsego Lake (bây giờ là Cooperstown), giữa tiểu bang New York. Mặc dù vùng này tương đối yên bình khi Cooper còn niên thiếu, nó từng là nơi diễn ra cảnh tàn sát người Da đỏ. Cậu bé Fenimore Cooper gần như lớn lên trong một môi trường phong kiến. Cha ông, chánh án Cooper, cũng là một chủ đất và là một nhà lãnh đạo. Khi còn bé Cooper đã chứng kiến trận chiến giữa những người khai hoang và người Da đỏ. Sau này chính những người định cư Da trắng liều mạng đã xâm phạm đất đai của ông.
Natty Bumppo, một nhân vật nổi tiếng trong văn chương của Cooper, thể hiện quan điểm của ông về người khẩn hoang như một con người lịch lãm, một “nhà quý tộc từ trong máu” kiểu Jefferson. Vào đầu năm 1823, trong cuốn The Pioneers (Những người mở đất), Cooper đã bắt đầu khai sinh ra Bumppo. Natty là nhân vật người khai hoang đầu tiên trong văn học Mỹ và là tiền thân văn học của vô số chàng cao bồi và những anh hùng hảo hán vùng xa xôi hẻo lánh. Chàng ta là con người mang tự do cá nhân, chính trực, và được lý tưởng hóa - một con người còn tốt đẹp hơn cái xã hội mà anh ta bảo vệ. Nghèo, đơn độc nhưng rất mực trong sáng, anh ta là thước đo cho những giá trị đạo đức và là tiền thân cho nhân vật Billy Budd của Herman Melville và Huck Finn của Mark Twain.
Natty Bumppo được sáng tạo một phần dựa vào nguyên mẫu về một người Mỹ có công khai khẩn đất hoang - Daniel Boone - một người cũng theo phái Quaker như Cooper. Cũng như Boone, Natty Bumpo là một anh hùng hảo hán và hơn nữa là một người yêu hòa bình được một bộ tộc Da đỏ thừa nhận. Cả Boone và nhân vật Bumppo hư cấu đều yêu thiên nhiên và tự do. Họ liên tục di chuyển về hướng Tây để thoát khỏi làn sóng những người định cư kế tiếp mà họ đã đưa đường vào vùng đất hoang dã. Họ đã trở thành những huyền thoại ngay trong khi còn sống. Natty cũng có đời sống nội tâm sâu sắc, hết sức cao thượng và tràn đầy những khát vọng cao đẹp. Anh là chàng Hiệp sĩ Cơ đốc giáo trong những cuốn tiểu thuyết thời Trung cổ được đặt vào cánh rừng trinh nguyên và đất đai sỏi đá của châu Mỹ.
Sợi dây liên kết năm cuốn tiểu thuyết trong tuyển tập dưới cái tên Leather-Stocking Tales (Truyện kể về anh chàng đi bittất da) là kể về cuộc đời Natty Bumppo. Là thành quả tốt đẹp nhất của Cooper, chúng tạo nên một bộ sử thi bằng văn xuôi đồ sộ với bối cảnh là lục địa Bắc Mỹ, các bộ lạc Da đỏ là các nhân vật, những cuộc giao tranh vĩ đại, cuộc di dân Tây tiến là những sự kiện làm bối cảnh xã hội. Những cuốn tiểu thuyết đó đã làm sống lại một nước Mỹ tiên phong từ năm 1740 đến 1804.
Tác phẩm của Cooper đã khắc họa những đợt sóng liên tục của dòng người tìm kiếm những khu định cư mới ở biên giới: vùng hoang sơ nguyên thủy của người Da đỏ; sự xuất hiện những người Da trắng đầu tiên: những người dẫn đường, binh lính, nhà buôn, và những người đi mở rộng biên giới; rồi đến làn sóng những gia đình định cư nghèo khổ và thô lỗ; và sau cùng là tầng lớp trung lưu, cùng những người có nghề chuyên môn đầu tiên -quan tòa, thầy thuốc và chủ ngân hàng. Mỗi làn sóng đến sau lại thay thế làn sóng trước, người Da trắng chiếm đất của người Da đỏ, buộc họ phải rút sâu về phía Tây; những tầng lớp trung lưu “văn minh” xây dựng trường học, nhà thờ, và cả nhà tù xua đuổi đám người hạ lưu, sống theo lối tự do cá nhân - tuy có công trong cuộc chinh phục đất hoang -đi xa hơn nữa về hướng Tây để họ lại lần lượt thay thế người Da đỏ đã đến trước.
Trong khi tái hiện dòng người nhập cư vô tận, như một sự thật không thể khác được, Cooper đã nhìn thấy không chỉ những cái được mà còn cả những cái mất.
Tiểu thuyết của Cooper bộc lộ mâu thuẫn sâu sắc giữa cá nhân đơn độc và xã hội, giữa tự nhiên và văn hóa, giữa đời sống tâm linh và tôn giáo có tổ chức. Trong tác phẩm của Cooper, cả thế giới tự nhiên và người Da đỏ đều tốt đẹp từ trong bản chất -như thể đó là vương quốc hết sức văn minh gắn liền với những nhân vật có văn hóa nhất của ông. Nhân vật trung gian thường là những người định cư Da trắng nghèo khổ, tham lam, thất học, đa nghi và quá thô thiển để có thể thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên và những giá trị văn hóa, tinh thần. Cũng như Rudyard Kipling, E.M. Forster, Herman Merville, và những nhà quan sát nhạy cảm khác từng nhìn thấy cho rằng các nền văn hóa lớn rất đa dạng tác động lẫn nhau, Cooper là người theo chủ thuyết tương đối về văn hóa. Ông hiểu rằng chẳng có một nền văn hóa nào có độc quyền về đạo đức và trình độ nghệ thuật.
Cooper chấp nhận nét riêng trong điều kiện sống của nước Mỹ còn Irving thì không. Irving nhìn bối cảnh Mỹ như một người châu Âu - bằng cách du nhập và mô phỏng huyền thoại, văn hóa và lịch sử châu Âu. Cooper đã đi một bước xa hơn trong tiến trình này. Ông sáng tạo nên bối cảnh Mỹ, những chủ đề và nhân vật Mỹ đặc thù mới mẻ. Ông cũng là nhà văn đầu tiên mà tác phẩm vang lên âm hưởng bi kịch trở đi trở lại trong tiểu thuyết Mỹ.
VĂN CHƯƠNG CỦA PHỤ NỮ VÀ CÁC CỘNG ĐỒNG THIỂU SỐ
Mặc dù thời thuộc địa đã sản sinh một số nhà văn nữ đáng chú ý, kỷ nguyên Cách mạng đã không đẩy mạnh hơn sự nghiệp văn học của họ và các nhóm thiểu số dù cho nhiều trường học, tạp chí, nhật báo và câu lạc bộ văn học mọc lên ở khắp nơi. Những người phụ nữ thời thuộc địa như Anne Bradstreet, Anne Hutchinson, Ann Cotton và Sarah Kemble Knight đã có một ảnh hưởng trong văn học và xã hội đáng kể mặc cho những điều kiện sống sơ khai và nguy hiểm; trong 18 phụ nữ đến Mỹ trên con tàu Mayflower vào năm 1620, chỉ có 4 người sống sót qua năm đầu tiên. Vào cái thời mà một cơ thể khỏe mạnh được xem là quan trọng, và hoàn cảnh sống thì đầy biến động, một tài năng bẩm sinh có thể dễ dàng được thể hiện. Nhưng khi những thể chế văn hóa được thể thức hóa trong một nước cộng hòa mới mẻ, phụ nữ và cộng đồng thiểu số bị loại dần ra khỏi những thể chế đó.
Phillis Wheatley
(khoảng 1753 - 1784)
(khoảng 1753 - 1784)
Xét đến những điều kiện sống gian khổ trong buổi đầu ở Mỹ, trớ trêu thay, những bài thơ hay nhất của thời kỳ này lại là của một nữ nô lệ kiệt xuất. Tác giả Mỹ gốc Phi châu được liệt vào hàng quan trọng đầu tiên ở Hoa Kỳ là Phillis Wheatley sinh ở châu Phi và được đưa đến Boston, bang Massachusetts, khi bà chỉ mới khoảng 7 tuổi. Bà được một thợ may từ tâm và giàu có là John Wheatley mua về để hầu hạ vợ mình. Ông bà Wheatley nhận ra sự thông minh xuất chúng của Phillis và với sự giúp đỡ của người con gái của họ là Mary, Phillis đã học đọc và viết.
Các chủ đề trong thơ của Wheatley đều là tôn giáo và phong cách thơ của bà là Tân cổ điển cũng giống như phong cách của Philip Freneau. Trong số những bài thơ nổi tiếng nhất của bà, bài thơ To S.M, a Young African Painter, on Seeing His Works (Gửi S.M, họa sĩ trẻ Phi châu trong lần viếng thăm xưởng vẽ) là một bài thơ ca ngợi và khích lệ một tài năng Da đen khác, và cũng là một bài thơ ngắn thể hiện xúc cảm tôn giáo mạnh mẽ đã được gạn lọc qua kinh nghiệm cải giáo theo đạo Thiên Chúa của bà. Bài thơ này làm cho vài nhà phê bình đương thời cảm thấy khó chịu -những nhà phê bình Da trắng khó 61 chịu vì họ thấy nó ước lệ, và những nhà phê bình Da đen khó chịu vì bài thơ đã không chống lại sự phi đạo đức của chế độ nô lệ. Tuy nhiên bài thơ là một tâm sự chân thành, nó đối đầu với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của người Da trắng và khẳng định quyền bình đẳng tâm linh. Như vậy, Wheatley là người đầu tiên phát biểu những vấn đề này một cách đầy tin tưởng trong thi ca. Như trong bài On Being Brought from Africa to America (Khi bị đem từ châu Phi sang Mỹ) có đoạn:
Ân huệ nào đã mang tôi từ mảnh đất vô thần
Dạy tâm hồn tăm tối của tôi biết nhận thức.
Rằng có một Chúa trời và cũng có Đấng Cứu rỗi
Đã một thời tôi không biết và không kiếm tìm cứu vớt
Có ai đó đã nhìn chúng tôi với ánh mắt khinh khi
“Màu da chúng nhuộm màu của quỷ”
Xin hãy nhớ, các tín đồ Cơ Đốc, người Da đen, tăm tối như Cain([7])
Cũng có thể được thanh tẩy, và cùng đi chuyến tàu thiên sứ.
Dạy tâm hồn tăm tối của tôi biết nhận thức.
Rằng có một Chúa trời và cũng có Đấng Cứu rỗi
Đã một thời tôi không biết và không kiếm tìm cứu vớt
Có ai đó đã nhìn chúng tôi với ánh mắt khinh khi
“Màu da chúng nhuộm màu của quỷ”
Xin hãy nhớ, các tín đồ Cơ Đốc, người Da đen, tăm tối như Cain([7])
Cũng có thể được thanh tẩy, và cùng đi chuyến tàu thiên sứ.
CÁC NHÀ VĂN NỮ KHÁC
Nhiều nhà văn nữ thành đạt thời kỳ Cách mạng lại được chính các học giả ủng hộ nữ quyền khám phá. Susanna Rowson (khoảng 1762 - 1824) là một trong những tiểu thuyết gia chuyên nghiệp đầu tiên ở Mỹ. Di sản của bà gồm bảy tiểu thuyết trong đó cuốn thuộc vào loại bán chạy nhất là Charlotte Temple (Đền thờ Charlotte - 1791). Sách của bà nổi lên các chủ đề về quyền bình đẳng của phụ nữ, sự phá bỏ chế độ nô lệ, bà đã miêu tả người Mỹ Da đỏ với một sự kính trọng.
Một nhà văn khác bị chìm trong lãng quên suốt thời gian dài là Hannah Foster (1758 - 1840), tác giả cuốn tiểu thuyết ăn khách The Coquette (Đứa lẳng lơ - 1797) viết về một người phụ nữ trẻ bị xâu xé giữa đức hạnh và cám dỗ. Bị quyến rũ bởi một tu sĩ lạnh lùng rồi bị chính người đó khước từ, bỏ rơi, nàng sinh một đứa con rồi chết trong cô đơn.
Judith Sargent Murray (1751 - 1820) phải xuất bản sách dưới một cái tên nam giới để người ta chú ý một cách nghiêm túc đến tác phẩm của mình. Mercy Otis Warren (1728 -1814) là một nhà thơ, sử gia, nhà soạn kịch, nhà văn châm biếm và một người ái quốc. Bà tổ chức các cuộc nhóm họp thời kỳ tiền cách mạng tại nhà, công kích người Anh trong những vở kịch đặc sắc và viết bộ lịch sử tiến bộ đương thời duy nhất về cách mạng Mỹ.
Những lá thư giữa những người phụ nữ như bà Mercy Otis Warren và Abigail Adams, và những thư từ nói chung, là những tài liệu quan trọng về thời kỳ đó. Ví dụ, Abigail Adams viết cho chồng bà - John Adams (sau này là vị tổng thống thứ 2 của Mỹ) - vào năm 1776 yêu cầu sự độc lập của phụ nữ phải được bảo đảm trong hiến pháp tương lai của Hoa Kỳ.
[1] Gothic: Một loại tiểu thuyết xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 chuyên viết về những chuyện bí hiểm, rùng rợn. Được gọi là Gothic bởi vì nó thường lấy bối cảnh ở các lâu đài, tu viện hoang phế, đổ nát thời Trung cổ với những đường hầm ngầm dưới mặt đất, những bức tường thành với những lỗ châu mai ám muội, những hội kín và những cánh cửa bí mật.
[2] Pamphlet: Theo định nghĩa của UNESCO là một ấn phẩm không đóng thành sách, xuất bản không định kỳ, không ngắn hơn 5 trang và không dài hơn 48 trang, dùng để tuyên truyền, cổ động hoặc nêu quan điểm, chính kiến về một vấn đề thời sự chính trị, xã hội được quần chúng quan tâm. Xuất hiện vào đầu thế kỷ 16 trong việc ủng hộ Cải cách tôn giáo, ngày nay, pamphlet được dùng như sách bướm nhằm cung cấp thông tin của các tổ chức chính phủ hay là các hiệp hội.
[3] Canaan: Vùng đất phía tây Palestine, được người Do Thái cổ tin rằng đó là Miền đất Hứa mà Chúa dành cho họ.
[4] Yankee: Một cái tên mà người miền Nam gọi người miền Bắc một cách giễu cợt.
[5] Phái Liên bang (Federalist) chủ trương dành nhiều quyền lực cho chính quyền liên bang.
[6] Về tựa của bài thơ này chúng tôi xin tạm đưa ra một cái tựa dựa vào nội dung của bài thơ.
[7] Cain: Trong Cựu ước, Cain là con trai trưởng của Adam và Eva, đã giết em trai của mình là Abel. Cain - một nông dân - đã hết sức giận dữ khi Chúa Trời cho phép Abel làm người chăn cừu nên đã giết em và bị Chúa đày đi biệt xứ.
-------------------
DÂN CHỦ LÀ GÌ
Thuật ngữ dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, “demos” có nghĩa là nhân dân. Ở cácnền dân chủ, nhân dân là người có quyền tối cao đối với các nhà lập pháp và chính phủ. Mặc dù các nền dân chủ trên thế giới mang sắc thái khác nhau nhưng vẫn có nhữngnguyên tắc và thực tiễn nhất định để phân biệt một chính phủ dân chủ với các hình thứcchính phủ khác.
Dân chủ là chính phủ trong đó tất cảcông dân sử dụng quyền lực và thựchiện trách nhiệm công dân một cáchtrực tiếp hoặc gián tiếp thông quanhững đại diện được bầu lên một cáchtự do.
Dân chủ là một loạt các nguyên tắc vàthực tiễn bảo vệ quyền tự do của conngười; đó là sự thể chế hoá quyền tự do.
Dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số,cùng với quyền của cá nhân và cácnhóm thiểu số. Tất cả các nền dân chủkhi tôn trọng ý chí của đa số cũng đồngthời bảo vệ nghiêm chỉnh các quyền cơbản của cá nhân và các nhóm thiểu số.
Các nền dân chủ chống lại các chính phủtrung ương tập quyền và phi tập trunghoá chính quyền ở cấp độ khu vực vàđịa phương, vì rằng nhân dân phải đượctiếp cận chính quyền địa phương vàchính quyền địa phương phải đáp ứngnhân dân một cách tốt nhất có thể.
Các nền dân chủ hiểu rằng một trongnhững chức năng cơ bản của họ là bảovệ những quyền cơ bản của con ngườinhư tự do ngôn luận và tôn giáo; quyềnđược bảo vệ bình đẳng theo pháp luật;được tổ chức và tham gia đầy đủ vào đờisống chính trị, kinh tế và văn hoá của xãhội.
Các nền dân chủ tiến hành đều đặn cáccuộc bầu cử công bằng và tự do cho tấtcả công dân. Các cuộc bầu cử ở một nềndân chủ không thể là vỏ bọc che đậycho những kẻ độc tài hay một đảng nàomà bầu cử là những cuộc cạnh tranhđích thực nhằm dành được sự ủng hộcủa nhân dân.
Dân chủ buộc các chính phủ phải tuân thủ pháp quyền và đảm bảo rằng tất cảcông dân đều được bảo vệ bình đẳngtrước pháp luật và các quyền của họđược hệ thống pháp luật bảo vệ.
Các nền dân chủ rất đa dạng, phản ánh đời sống chính trị, xã hội và văn hoáriêng biệt của mỗi nước. Các nền dânchủ dựa trên những nguyên tắc cơ bảnchứ không phải những thực tiễn mangtính đồng nhất.
Công dân ở một nền dân chủ khôngnhững có quyền mà còn có nghĩa vụ tham gia vào hệ thống chính trị và đổilại hệ thống chính trị đó bảo vệ cácquyền và tự do cho họ.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giátrị khoan dung, hợp tác và thoả hiệp.Các nền dân chủ nhận thấy rằng để đạtđược sự đồng thuận đòi hỏi phải thoảhiệp và điều đó không phải lúc nào cũngcó thể đạt được. Theo lời của MahatmaGandhi “bản thân sự không khoan dunglà một hình thức bạo lực và là cản trở đối với sự phát triển tinh thần dân chủthực sự”.
Trích từ “Các nguyên lý của nền pháp quyền”
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 4/2005
--------------------------
Dân chủ là dân có quyền lực cai trị. Bắt nguồn từ tư tưởng của người Hi lạp quan niệm độc tài là hình thức chính quyền xấu xa nhất vì áp chế con người ên mọi việc chung trong quốc gia đều phải do dân chúng định đoạt.
Người La mã phát huy truyền thống này của Hi lạp nhưng phạm tù hạn hẹp hơn. Đến thời Trung cổ, đạo Thiên chúa thịnh hành, quan niệm con người được thượng đế tạo dựng bình đẳng với nhau và có một số quyền nhất định. Hai triết gia có ảnh hưởng lớn nhất tới phong trào dân chủ thời cận đại là John Locke người Anh và Jean Jacques Rousseau của Pháp. Locke quan niệm là liên hệ người bị trị và người cai trị là một khế ước xã hội trong đó quyền của người bị trị như tự do, được sống và có tư hữu tài sản cần được bảo vệ. Ông gọi các quyền này là quyền tự nhiên của con người.
Phải đợi tới cuộc Cách mạng Mỹ (1776) với Thomas Jefferson là nhà tư tưởng của phong trào từ" quyền sống, quyền tự do và theo đưổi hạnh phúc" mới xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập Mỹ mà Hồ chí Minh sau này bắt chước. Thực sự T. Jefferson ảnh hưởng của Locke và cũng ảnh hưởng của Rouseau khi ông này thêm công dân có quyền vũ trang để chống chính quyền độc tài.
Con người là sinh vật -theo Plato trước công nguyên định nghĩa- sinh vật chính trị. Mà sinh vật chính trị là nói tới liên hệ cá nâhn với cộng đồng và nhà cầm quyền. Plato thấy rằng người ta chỉ có thể hạnh phúc khi liên hệ này đúng. Có nghĩa nó cần một khế ước dân sự giữa dân chúng và Nhà nước như Joh Locke sau này gọi. Khế ước này tạo ra thể chế dân chủ bảo đảm quyền lợi cũa các công dân, chống nạn độc tài và áp bức.
Theo bạn thì các triết gia này có cái nhìn tốt hơn hay xấu hơn quan niệm dân chủ chuyên chính của "giai cấp vô sản" mà đảng CS tự nhận là đại diện?
-------------------------------
Chủ nghĩa phát xít có thể hiểu là bước cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, là chủ nghĩa độc tài, chuyên chế quân sự luôn cho mình là ưu việt và có quyền sinh sát trên toàn thế giới. Chủ nghĩa này luôn muốn thế giới phải khuất phuc và phục vụ mình và cuối cùng tiêu diệt hết chỉ có những dân tộc mang chủ nghĩa này xứng đáng tồn tại nhưng điều này đã bị Liên xô và các lực lượng tiến bộ chứng minh ngược lại bằng việc tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít do Hít Le cầm đầu!
Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào số đông mà muốn đặt quốc gia trong những thuật ngữ về lịch sử, văn hóa, sinh học độc nhất, trên tất cả là các động lực của lòng trung thành, và muốn tạo nên 1 cộng đồng quốc gia được huy động..Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản.
--->>>>>>>>> ngắn gọn hơn có thể nói là:Từ Phát Xít bắt nguồn từ " FASCINER " trong tiếng Pháp có nghĩa là làm mê muội hay mê hoặc
Chủ Nghĩa Phát Xít được hình thành trong quảng thời gian từ năm 1936 đến 1945 , do HITLER là người sáng lập ra chủ nghĩa bài Do Thái , từ đó mà từ Phát Xít được người ta biết đến nó
Nói nôm na là Chủ Nghĩa Phát Xít là Chủ Nghĩa Bài Do Thái của Đảng Thân ông HITLER
-------------------------------
Chủ nghĩa phát xít có thể hiểu là bước cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, là chủ nghĩa độc tài, chuyên chế quân sự luôn cho mình là ưu việt và có quyền sinh sát trên toàn thế giới. Chủ nghĩa này luôn muốn thế giới phải khuất phuc và phục vụ mình và cuối cùng tiêu diệt hết chỉ có những dân tộc mang chủ nghĩa này xứng đáng tồn tại nhưng điều này đã bị Liên xô và các lực lượng tiến bộ chứng minh ngược lại bằng việc tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít do Hít Le cầm đầu!
Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào số đông mà muốn đặt quốc gia trong những thuật ngữ về lịch sử, văn hóa, sinh học độc nhất, trên tất cả là các động lực của lòng trung thành, và muốn tạo nên 1 cộng đồng quốc gia được huy động..Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản.
--->>>>>>>>> ngắn gọn hơn có thể nói là:Từ Phát Xít bắt nguồn từ " FASCINER " trong tiếng Pháp có nghĩa là làm mê muội hay mê hoặc
Chủ Nghĩa Phát Xít được hình thành trong quảng thời gian từ năm 1936 đến 1945 , do HITLER là người sáng lập ra chủ nghĩa bài Do Thái , từ đó mà từ Phát Xít được người ta biết đến nó
Nói nôm na là Chủ Nghĩa Phát Xít là Chủ Nghĩa Bài Do Thái của Đảng Thân ông HITLER
_________________________
Tóm lược dân chủ
http://photos.state.gov/ libraries/vietnam/8616/ ebook/ democracy-in-brief-vn.pdf
Quyền dân chủ
http://www.etc-graz.at/ typo3/fileadmin/ user_upload/ETC-Hauptseite/ manual/versionen/ vietnamese/ Quyen_con_nguoi_-_P4.pdf
Tóm lược dân chủ
http://photos.state.gov/
Quyền dân chủ
http://www.etc-graz.at/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét