Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

***CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO CÁ NHÂN*** (Tinh Thần Khai Minh)

CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO CÁ NHÂN
David Boaz
01/01/1999

Các khái niệm chính của chủ nghĩa tự do cá nhân đã phát triển qua nhiều thế kỷ. Các gợi ý đầu tiên về chúng có thể được tìm thấy trong nền văn hóa của Trung Quốc, Hy Lạp, và Israel cổ đại; chúng bắt đầu phát triển thành một hệ thống tương tự với triết lý tự do cá nhân hiện đại trong tác phẩm của các nhà tư tưởng của thế kỉ 17, 18 như John Locke, David Hume, Adam Smith, Thomas Jefferson, và Thomas Paine.

CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Các nhà tự do cá nhân xem các cá nhân là đơn vị cơ bản trong các phân tích về xã hội. Các cá nhân đưa ra các lựa chọn và chịu trách nhiệm cho các hành động của họ. Tư tưởng tự do cá nhân nhấn mạnh đến phẩm giá của mỗi cá nhân, vốn bao gồm cả các quyền và trách nhiệm. Sự mở rộng ngày càng tăng của phẩm giá đến nhiều người hơn bao gồm phụ nữ, những người thuộc các tôn giáo và các chủng tộc khác, là một trong những thắng lợi vĩ đại của tư tưởng tự do cá nhân phương Tây.

CÁC QUYỀN CÁ NHÂN

Bởi vì cá nhân là các tác nhân đạo đức, nên họ có quyền được đảm bảo về cuộc sống, sự tự do, và sở hữu. Những quyền này không phải do chính phủ hoặc xã hội ban tặng; chúng là cố hữu trong bản chất của con người. Bằng trực giác, ta thấy đúng đắn rằng cá nhân phải nhận được đảm bảo sự cho các quyền này; và gánh nặng giải trình sẽ thuộc về những ai muốn tước đi các quyền đó.

TRẬT TỰ TỰ PHÁT

Một xã hội trật tự là cần thiết cho các cá nhân tồn tại và phát triển. Thật dễ dàng để thừa nhận rằng trật tự phải được thiết lập từ một quyền uy trung tâm, như cách chúng ta thiết lập trật tự cho một bộ sưu tập tem hay một đội bóng. Nhưng điểm tuyệt vời trong phân tích xã hội của chủ nghĩa tự do cá nhân là trật tự của một xã hội phát sinh một cách tự phát, từ các hành động của hàng ngàn hoặc hàng triệu cá nhân, những người phối hợp các hành động của họ với các hành động của người khác để đạt được mục đích của mình. Tiến trình lịch sử loài người, chúng ta đã dần dần lựa chọn cho một sự tự do lớn hơn. Các thiết chế quan trọng nhất trong xã hội loài người gồm ngôn ngữ, pháp luật, tiền bạc, và thị trường, và tất cả đều phát triển một cách tự phát, không có sự hướng dẫn từ trung tâm. Xã hội dân sự – một mạng lưới phức tạp với các hiệp hội và các kết nối giữa con người – là một ví dụ khác của trật tự tự phát; các hiệp hội trong xã hội dân sự được hình thành cho một mục đích nào đó, nhưng chính xã hội dân sự không phải là một hiệp hội và nó không có mục đích riêng của riêng nào.

SỰ CAI TRỊ THEO PHÁP LUẬT

Chủ nghĩa tự do cá nhân không phải là chủ nghĩa phóng túng hay chủ nghĩa khoái lạc. Nó không yêu sách rằng “con người có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, mà không ai có thể nói bất cứ điều gì.” Thay vào đó, chủ nghĩa tự do cá nhân đề xuất một xã hội tự do dưới luật, trong đó các cá nhân được tự do để theo đuổi cuộc sống riêng của họ, miễn là họ tôn trọng các quyền tương tự của người khác. Sự cai trị theo pháp luật có nghĩa rằng cá nhân được quản lý bởi các nguyên tắc pháp lý được phát triển một cách tự phát và áp dụng chung cho tất cả, chứ không phải bởi các mệnh lệnh tùy tiện; và các nguyên tắc này không nhắm đến bất cứ mục đích hay kết quả cụ thể nào, mà là để bảo vệ sự tự do từ đó cho phép cá nhân theo đuổi hạnh phúc theo cách riêng của họ,.

CHÍNH PHỦ GIỚI HẠN

Để bảo vệ các quyền, các cá nhân thành lập nên các chính phủ. Nhưng chính phủ là một thiết chế nguy hiểm. Các nhà tự do cá nhân có một ác cảm rất lớn đối với quyền lực tập trung, như theo lới của Lord Acton: “Quyền lực luôn có xu hướng đi đến suy đồi và quyền lực tuyệt đối thì suy đồi một cách tuyệt đối”. Vì vậy, họ muốn phân chia và giới hạn quyền lực, và mà ở đây là giới hạn quyền lực của chính phủ, thông qua một hiến pháp thành văn trong đó liệt kê và giói hạn các quyền lực mà người dân ủy nhiệm cho chính phủ. Một chính phủ giới hạn là hàm ý chính trị cơ bản của chủ nghĩa tự do cá nhân, và các nhà tự do cá nhân đã chỉ ra một thực tế lịch sử đó là sự phân tán quyền lực ở châu Âu – nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới – đã dẫn đến sự tự do cá nhân và tăng trưởng kinh tế bền vững.

THỊ TRƯỜNG TỰ DO

Để tồn tại và thịnh vượng, các cá nhân cần phải tham gia vào các hoạt động kinh tế. Từ quyền sở hữu dẫn đến quyền trao đổi tài sản trên cơ sở thoả thuận. Thị trường tự do là hệ thống kinh tế của các cá nhân tự do, và nó cần thiết để tạo ra sự giàu có. Các nhà tự do cá nhân tin rằng mọi người sẽ tự do hơn và thịnh vượng hơn nếu sự can thiệp của chính phủ vào các quyết định kinh tế của người dân được giảm thiểu.

CÁC PHẨM GIÁ CỦA SẢN XUẤT

Nhiều trong số các động lực thúc đẩy chủ nghĩa tự do cá nhân trong thế kỷ XVII là phản ứng chống lại vua chúa và quý tộc, những người sống bằng sản xuất lao động của người khác. Các nhà tự do cá nhân bảo vệ quyền của người dân để lại giữ thành quả lao động của họ. Nỗ lực này phát triển thành một sự tôn trọng cho phẩm giá của lao động và sản xuất, và đặc biệt là cho tầng lớp trung lưu đang phát triển, những người bị xem thường bởi các nhà quý tộc. Chủ nghĩa tự do phát triển một phân tích giai cấp tiền Mác xít, phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản: những người tạo ra của cải và những người chiếm lấy nó từ người khác bằng vũ lực. Ví dụ, Thomas Paine viết rằng, “Có hai giai cấp riêng biệt trong một quốc gia, đó là những người đóng thuế, và những người chiếm đoạt và sống bằng các loại thuế đó.” Tương tự như vậy, Jefferson đã viết vào năm 1824 rằng, “Chúng ta có một chính phủ lớn hơn cần thiết, có quá nhiều kẻ ăn bám sống trên sức lao động của những người cần cù”. Các nhà tự do cá nhân hiện đại bảo vệ quyền của người sản xuất để giữ lại những gì họ tạo ra, và chống lại một giai cấp mới gồm các chính trị gia và quan chức, những người sẽ chiếm lấy thu nhập của họ để chuyển cho những kẻ không lao động.

SỰ HÀI HÒA TỰ NHIÊN CỦA CÁC LỢI ÍCH

Các nhà tự do cá nhân tin rằng có một sự hài hòa lợi ích giữa những người sản xuất hòa bình trong một xã hội công bằng. Kế hoạch cá nhân của một người – như kiếm việc, xây dựng một doanh nghiệp, mua một căn nhà, và vân vân – có thể xung đột với các kế hoạch của người khác, vì vậy thị trường bắt nhiều người trong chúng ta phải thay đổi kế hoạch của mình. Nhưng tất cả chúng ta đều thịnh vượng từ sự vận động của thị trường tự do, vì không có xung đột tất yếu giữa nông dân và thương nhân, các nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu. Khi chính phủ bắt đầu phân phát phần thưởng trên cơ sở chính trị, thì chúng ta thấy mình rơi vào các cuộc xung đột nhóm, bị thúc đẩy phải đấu tranh với các nhóm khác cho để giành lấy một mẩu từ quyền lực chính trị đó.

HÒA BÌNH

Các nhà tự do cá nhân đã luôn chiến đấu với những tai họa lâu đời của chiến tranh. Họ hiểu rằng chiến tranh mang đến sự chết chóc và sự hủy diệt trên quy mô lớn, phá vỡ các gia đình và đời sống kinh tế, và đặt thêm quyền lực vào trong tay tầng lớp cai trị – điều này có thể giải thích tại sao những kẻ cai trị không luôn luôn chia sẻ tình yêu phổ biến đối với hòa bình. Dĩ nhiên, những người đàn ông và phụ nữ tự do đã thường xuyên phải bảo vệ xã hội của họ chống lại các mối đe dọa bên ngoài; nhưng trong suốt lịch sử, chiến tranh thường là kẻ thù chung của những người sản xuất hòa bình ở mọi phía của cuộc xung đột.

…Dường như là hợp lý khi thừa nhận sự ngờ vực của độc giả rằng chủ nghĩa tự do cá nhân chỉ diễn đạt khung tiêu chuẩn của tư tưởng hiện đại bao gồm – chủ nghĩa cá nhân, sở hữu tư nhân, chủ nghĩa tư bản, bình đẳng trước pháp luật. Thật vậy, sau nhiều thế kỷ của cuộc đấu tranh trí tuệ, chính trị, và đôi khi bạo động, các nguyên tắc tự do cốt lõi này đã trở thành cấu trúc cơ bản của tư tưởng chính trị hiện đại và các chính phủ hiện đại, ít nhất là ở phương Tây và ngày càng tăng trong các khu vực khác của thế giới.

Tuy nhiên, ba điểm bổ sung cần phải đưa ra: đầu tiên, chủ nghĩa tự do cá nhân không chỉ là những nguyên tắc tự do được áp dụng rộng rãi. Chủ nghĩa tự do cá nhân áp dụng những nguyên tắc này một cách đầy đủ và nhất quán hơn so với hầu hết các nhà tư tưởng hiện đại và chắc chắn hơn so với bất kỳ chính phủ hiện đại nào. Thứ hai, trong khi xã hội chúng ta vẫn chủ yếu dựa trên các quyền bình đẳng và chủ nghĩa tư bản, thì hàng ngày những ngoại lệ mới đối với những nguyên tắc này được tạo ra ở Washington và Albany, Sacramento, và Austin (chưa kể đến London, Bonn, Tokyo, và ở những nơi khác). Mỗi chỉ thị mới của chính phủ lấy đi một chút tự do của chúng ta, và chúng ta phải suy nghĩ cẩn thận trước khi từ bỏ bất kỳ sự tự do nào. Thứ ba, xã hội tự do là kiên cường; nó có thể chịu được nhiều gánh nặng và tiếp tục phát triển thịnh vượng; nhưng nó không phải là kiên cường vô tận. Những người tuyên bố tin vào các nguyên tắc tự do nhưng ủng hộ sự tịch thu hơn nữa của cải được tạo ra bởi những người sản xuất, hạn chế hơn nữa đối với sự tương tác tự nguyện, phản đối hơn nữa đối với các quyền sở hữu và cai trị theo pháp luật, chuyển hơn nữa quyền lực từ xã hội sàng nhà nước, đang vô tình tham gia vào việc làm xói mòn một cách chí tử đối với nền văn minh của mình.

http://khaiminhvn.org/cac-khai-niem-chinh-cua-chu-nghia-tu-do-ca-nhan/

-------------------------------------------------------------------------------
Triết lý tự do dựa trên nguyên tắc TỰ SỞ HỮU. Tự sở hữu (hay chủ quyền cá nhân, tự trị cá nhân) là khái niệm về sự sở hữu của một người đối với chính bản thân họ, thường được diễn đạt như là một quyền tự nhiên hay quyền đạo đức của một con người đối với sự toàn vẹn thân thể, cũng như sự kiểm soát độc quyền đối với thân thể và cuộc sống của bản thân anh ta.Theo G. A. Cohen, khái niệm "tự sở hữu" là việc mỗi con người bằng tất cả khả năng của mình, có đầy đủ và độc quyền kiểm soát và sử dụng bản thân, và do đó không nợ một ai bất kỳ hàng hóa hay dịch vụ nào mà anh ta không ký hợp đồng cung ứng.
Triết gia William Rees-Mogg và James Dale Davidson mô tả những người sở hữu một tâm trí thuận lợi để tự sở hữu như một chủ quyền cá nhân, chủ quyền này là tối thượng trong những lựa chọn của chính họ mà không cần có sự can thiệp của chính quyền, miễn là họ không vi phạm quyền của người khác. Khái niệm này là trung tâm của chủ nghĩa tự do cổ điển và triết lý chính trị cá nhân như chủ nghĩa giải phóng nô lệ, chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, chủ nghĩa tự do dựa trên quyền, chủ nghĩa khách quan hay vô chính phủ và chủ nghĩa cá nhân.
--------------------------------------------------------------------------------
Một số quan điểm của Locke trong Khảo luận thứ hai về chính quyền:
1)Sự đồng thuận của người dân
2)Bảo vệ quyền sở hữu
3)Các vấn đề của các chế độ quân chủ chuyên chế
4)Trạng thái tự nhiên
5)Bình đẳng
6)Giới hạn đối với quyền lực
7)Thượng đế và mục đích của ngài
http://khaiminhvn.org/quan-diem-locke/
"Tất cả mọi người ...đều bình đẳng và độc lập, không ai có quyền xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, sự tự do hay tài sản của người khác."
http://khaiminhvn.org/download/triet-dl/1.bai%20giang%20john%20locke.pdf
http://khaiminhvn.org/download/triet-dl/1.bai%20giang%20john%20locke.pdf
http://khaiminhvn.org/download/triet-dl/11.tu%20do%20nhu%20mot%20quyen%20tu%20nhien.pdf
---------------------------------------------------------------------------------------
Chủ nghĩa tự do cá nhân: Một dẫn nhập
Tác giả: David Boaz
Cuốn sách của Boaz cung cấp một cách chính xác những gì mà tiêu đều của hứa hẹn. Chủ nghĩa tự do cá nhân: Một dẫn nhập, thuộc thể loại sách đọc nhanh và dễ dàng, nhưng là một giới thiệu cực kì đầy đủ về chủ nghĩa tự do cá nhân. Nó trình bày các gốc rễ lịch sử của chủ nghĩa tự do cá nhân cũng như các cơ sở của triết học chính trị và tư duy kinh tế tự do cá nhân. Sau đó Boaz áp dụng những ý tưởng này cho các lĩnh vực chính sách lớn, để cho thấy các hiệp hội tự do và thị trường tự do, chứ không phải chính phủ và bộ máy quan liêu cưỡng bức, mới có thể giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc nhất của chúng ta như thế nào.
----------------------------------------------------------------------------------------------
Không có mô hình hoàn hảo cho việc nên sống như thế nào. Để một người phát triển đầy đủ, thì các lựa chọn của anh ta cho việc nên sống như thế nào là tốt nhất khi chúng là của riêng anh ta. Mỗi người cần một môi trường riêng để phát triển và khơi dậy các tiềm năng của họ, và một xã hội lành mạnh là một xã hội trong đó mọi người có thể sống theo cách mà mình lựa chọn.

Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại
--------------------------------------------------------------------------------------------
Hegel - Hiện tượng học tinh thần
Tuyên ngôn của Adam Smith về cuộc cách mạng kinh tế năm 1776
Nho gia của Trần Trọng Kim
Fukuzawa trong tác phẩm Khuyến Học
Thư Phan Châu Trinh gửi cho Nguyễn Ái Quốc
Tinh thần dân tộc lớn từ những bài học nhỏ
XÃ HỘI DÂN SỰ LÀ GÌ
Hội Tam Điểm Việt Nam
Triết Học Descartes
Nguyễn Trường Tộ
Hệ thống quốc tế châu á
Nhựt Bổn 30 năm duy tân
Nhập Môn Triết Học Phương Tây 
Các học thuyết triết học
"Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu cũng sống trong xiềng xích" - Khế ước xã hội, Rousseau.
--------------------------------------------------------------------------
"Một hành động là đúng nếu và chỉ nếu nó phù hợp với luật đạo đức, và có giá trị đạo đức nếu và chỉ nếu nó được thực hiện từ sự tôn trọng đối với luật đạo đức"

http://khaiminhvn.org/ly-thuyet-dao-duc-cua-immanuel-kant/
--------------------------------------------------------------------------
TỰ DO VÀ CHỦ NGHĨA TỰ DO

Mặc dù đã có nhiều cách hiểu về Chủ nghĩa Tự do (Liberalism) trên thế giới vào những thời điểm khác nhau, những người Việt có cùng ước nguyện bảo vệ tự do, dân chủ và phẩm giá con người có thể cùng nhau thảo luận, hình thành một triết lý chung của mình.

Tự do, khả năng hành động hoặc không hành động theo lý trí và ý chí của bản thân, là giá trị nền tảng cho sự phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Xâm phạm tự do làm tổn hại đến phẩm giá con người, nên việc tước đoạt tự do chính là chống lại con người. Bảo vệ tự do, bảo vệ con người, cũng cần đến những tư tưởng, triết lý nền tảng định hướng cho hành động trong dài hạn.

Chủ nghĩa Tự do lấy tự do làm giá trị trung tâm, coi việc bảo vệ tự do trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị là những tiền đề mang lại hạnh phúc cho mỗi người dân.

Nhìn chung, Chủ nghĩa Tự do cổ điển xác định một số nguyên tắc (giá trị) cơ bản, có thể khái quát gồm: 1) Tự do; 2) Vai trò cá nhân ; 3) Xã hội dân sự ; 4) Thị trường tự do ; 5) Vai trò hạn chế của chính quyền ; 6) Pháp quyền ; 7) Khoan dung và hòa bình .

Như vậy, Tự do là giá trị cốt lõi, căn bản nhất của một triết lý toàn diện về con người và hạnh phúc của con người (cần có tự do bảo đảm) - với tên gọi là Chủ nghĩa Tự do.

Hình thành từ giữa thế kỷ 17, làm tiền đề cho các cuộc cách mạng Pháp và Mỹ, Chủ nghĩa Tự do là sự tấn công vào các chế độ chuyên chế, bảo vệ tự do cá nhân trước những can thiệp tùy tiện. Dù John Locke (1632-1704) được một số người coi là Người Cha của Chủ nghĩa Tự do cổ điển (Father of Classical Liberalism), các nhà tư tưởng Khai sáng như Rousseau, Voltaire, Montesquieu cũng có vai trò rất quan trọng.

Từ cuối thể kỷ 19, với sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dân và các phong trào đề cao tập thể, cộng đồng (như chủ nghĩa Marx), chủ nghĩa tự do có sự suy thoái đáng kể trên phạm vi thế giới. Đầu thế kỷ 20, sự khủng hoảng kinh tế tại nhiều quốc gia Tây phương cũng khiến cho học thuyết thị trường tự do bị đẩy lui bởi lý thuyết về can thiệp của nhà nước (lý thuyết kinh tế Keynes).

Tuy nhiên, nhiều trí thức (L. Mises, F. Hayek, M. Friedman...) vẫn nỗ lực kế tục, làm hồi sinh chủ nghĩa tự do cổ điển với những cập nhật với thời đại. Từ thập niên 1970, chủ nghĩa tự do lại dành ưu thế trên quy mô quốc tế.

Hòa chung vào các cuộc tranh đấu đòi quyền tự do, nhiều trí thức, nhà hoạt động xã hội và nhà tư tưởng từ châu Á, châu Mỹ Latinh (như A. Sen, H. de Soto...) cũng có đóng góp đáng kể cho trào lưu tự do của nhân loại.

Mặc dù đã có nhiều cách hiểu về Chủ nghĩa Tự do (Liberalism) trên thế giới vào những thời điểm khác nhau, những người Việt có cùng ước nguyện bảo vệ tự do, dân chủ và phẩm giá con người có thể cùng nhau thảo luận, hình thành một triết lý chung của mình.

Tạo tiền đề cho những thảo luận này, hiểu biết về tư tưởng tự do của nhân loại trong mấy thế kỷ qua hẳn là cần thiết và hữu ích. Chúng ta sẽ thấy, bên cạnh sự đa dạng, phong phú, những suy tư về bản chất con người, về bảo vệ tự do trước các chế độ chuyên quyền, tại nhiều quốc gia, nhiều thời điểm khác nhau, có nhiều nét tương đồng đến lạ kỳ.

Chúng tôi lần lượt giới thiệu các tác phẩm và các nhà tư tưởng tự do, đồng thời, thảo luận thêm về các chủ đề liên quan.

Bước đầu, 33 tác phẩm tiêu biểu của Chủ nghĩa Tự do (tạm chia thành 2 phần) sẽ được giới thiệu lần lượt, gồm:

PHẦN I. CHỦ NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN

1. Thủy quái (Leviathan), Thomas Hobbes, 1652

2. Khảo luận thứ 2 về chính quyền (The Second Treatise on Civil Government), John Locke, 1689

3. Khế ước xã hội (The Social Contract), Jean J. Rousseau, 1762

4. Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws), Ch. Baron de Montesquieu, 1748

5. Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ (The Declaration of Independence), 1776

6. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp (The Declaration of the Rights of Man and of the Citizen), 1789

7. Luật về các quyền Hoa Kỳ (The Bill of Rights) (Tu chính án Hiến pháp), 1791

8. Phạm vi và trách nhiệm của chính quyền (The Sphere and Duties of Government), Wilhem von Humboldt, 1792

9. Bất tuân dân sự (Civil Disobedience), Henry David Thoreau, 1849

10. Nền dân chủ Mỹ (On Democracy in America), Alexis de Toqueville, 1835

11. Bàn về tự do (On Liberty), John Stuart Mill, 1859

12. Chính thể đại diện (Representative Government), John Stuart Mill, 1861

13. Chủ nghĩa dân quyền, Tôn Trung Sơn, 1924

14. Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, Phan Châu Trinh, 1925

PHẦN II. NHỮNG NỖ LỰC HỐI SINH CHỦ NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN

15. Chủ nghĩa tự do (Liberalism), Ludvig Von Mises, 1927

16. Đường về nô lệ (The Road to serfdom), Friedrich Hayek, 1944

17. Xã hội mở và các kẻ thù của nó (The Open Society and Its Enemies), Karl Popper, 1945

18. Sử dụng tri thức trong xã hội (The Use of Knowledge in Society), Friedrich Hayek, 1945

19. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (The Universal Declaration of Human Rights -UDHR), 1948

20. Hiện trạng của tự do (The Constitution of Liberty), Friedrich Hayek, 1960

21. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân chủ (Capitalism, Socialism and Democracy), Joseph A. Schumpeter, 1950

22. Hai khái niệm về tự do (Two Concepts of Liberty), Isaiah Berlin, 1958

23. Chủ nghĩa tư bản và tự do (Capitalism and Freedom), Milton Friedman, 1962

24. Một lý thuyết về công lý (A Theory of Justice), John Rawls, 1971

25. Vô chính phủ, nhà nước và địa đàng trần gian (Anarchy, State, and Utopia), M.Nozick,1974

26. Hiện đại hóa thứ 5 (The Fifth Modernization), Ngụy Kinh Sinh, 1978

27. Đạo đức của tự do (The Morality of Freedom), Joseph Raz, 1979

28. Phát triển là tự do (Development as Freedom), Amartya Sen, 1999

29. Cấu trúc của tự do: công bằng và pháp quyền (The Structure of Liberty: Justice and the Rule of Law), Randy Barnett, 2000

30. Bí ẩn của Tư bản (The Mystery of Capital), Hernando de Soto, 2000

31. Các quy phạm của tự do (Norms of Liberty), Douglas B.Rasmussen, Douglas J.Den Uyl, 2005

32. Nền kinh tế chính trị mạnh mẽ (Robust Political Economy), Mark Pennington, 2011

33. Sự hình thành chủ nghĩa tự do hiện đại (The Making of Modern Liberalism), Alan Ryan, 2012.

K.Tùng
http://www.nhanquyen.vn/modules.php?name=News&op=detailsnews&mid=252&mcid=5
----------------------------------------------------------------------

"LỢI ÍCH LỚN NHẤT CHO SỐ ĐÔNG LỚN NHẤT"

JEREMY BENTHAM (15/2/1748 – 6/6/1832), Nhà quý tộc Anh, một người lập dị, triết gia, luật gia, nhà cải cách luật pháp và xã hội. Ông được coi là cha đẻ của thuyết vị lợi (utilitarianism).

Bentham ra đời tại Spitalflelds, London, trong một gia đình giàu có. Bentham được gọi là thần đồng vì khi mới là đứa trẻ đi lẫm chẫm, Bentham đã đọc hết bộ sứ nhiều tập về nước Anh trên bàn làm việc của cha mình. Và ông học tiếng Latinh ở tuổi lên ba.
Ông vào trường Wesminster School, và năm 1760, cha ông gửi ông đến Queen's College, Oxford, nơi ông lấy bằng cử nhân năm 1763 và bằng thạc sĩ năm 1766. Bentham được đào tạo để làm luật sư và được xử phiên tòa đầu tiên năm 1769. Là một chưởng lý thành đạt, cha ông buộc Bentham theo đuổi nghề luật như mình, và tin chắc rằng, đứa con cực kỳ thông minh của ông một ngày nào đó sẽ là đại pháp quan của nước Anh.

Tuy nhiên, Bentham đã sớm vỡ mộng vì nghề luật nhất là sau khi nghe các bài thuyết trình của chuyên gia hàng đầu lúc bấy giờ, Sir William Blackstone. Quá nản vì sự phức tạp của hệ thống pháp lý của nước Anh, ông quyết định, thay vì hành nghề luật, viết về nó, ông sẽ dành cả đời mình để phê phán luật pháp hiện hành và đề xuất những phương cách cải thiện nó.

Cái chết của cha ông năm 1792 buộc ông phải sống độc lập về tài chính, và ông trở thành một tác gia tại Wesminter. Trong gần bốn chục năm ông sống lặng lẽ ở đó, viết mỗi ngày từ mười đến hai chục trang bản thảo, ngay cả khi ở vào tuổi tám mươi.

THUYẾT VỊ LỢI
http://tapchi.vnu.edu.vn/xhnv_3_10/3.pdf
Giống như triết lý khoái lạc, thuyết vị lợi xác định lẽ Chân - Thiện - Mỹ dưới hình thức lạc thú, nhưng mang nặng tính nguyên tắc hơn: Về cơ bản, nó nhằm mang lại “hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất''. Bentham triển khai ý này thành một hệ thống đạo đức xác tín rằng, cái đúng hoặc cái sai của một hành động phải được đánh giá hoàn toàn dựa trên kết quả của nó (vì vậy, các động cơ, chẳng hạn, không liên quan gì tới chuyện này); rằng, những kết quả tốt là những kết quả đem lại sung sướng cho ai đó, trong khi những kết quả xấu là những kết quả gây đau khổ cho người nào đó; và do đó hướng hành động đúng phải theo là nhằm gia tăng tối đa sự sung sướng hoặc giảm tới mức tối thiểu sự đau khổ.

Triết học vị lợi chủ trương phê phán từng hành động qua tính hữu ích của nó, nghĩa là xét tới sự hữu dụng của hành động trong việc tạo nên những kết quả nào đó. Những người ủng hộ thuyết này áp dụng những nguyên tắc trên vào đời sống đạo đức cá nhân cũng như vào chính sách chính trị, luật pháp và xã hội. Nó có một ảnh hưởng thường trực trên đường lối cai trị của Vương quốc Anh. ''Lợi ích lớn nhất cho số đông lớn nhất'' đi vào ngôn ngữ Anh như một khẩu hiệu quen thuộc của mọi người.

Một khi nguyên tắc này đã được chấp nhận thì khó khăn duy nhất nảy sinh trong việc đưa ra quyết định là khó khăn trong tính toán hậu quả. Trong bất luận sự tính toán nào như vậy, một nguyên tắc quan trọng khác xuất hiện: ''Mỗi người đều có giá trị bằng một, và không người nào có giá trị hơn một''. Những nguyên tắc đó đưa tới những quan điểm, thái độ rất khác biệt với truyền thống. Chẳng hạn, những hình thái sinh hoạt giới tính không gây đau khổ cho bất cứ ai đều không đáng chê trách đối với người theo thuyết vị lợi, tuy nhiên một số hoạt động như vậy vẫn bị luật pháp thời đó trừng phạt nghiêm khắc. Ngược lại, có rất nhiều phương pháp kinh doanh gây đau khổ không cần thiết cho nhiều người, thậm chí hủy hoại họ, mà chúng lại hoàn toàn hợp pháp. Vì vậy mà sự phổ biến những ý tưởng của thuyết vị lợi đã góp phần đem lại những thay đổi quan trọng trong xã hội. Quan điểm của người theo thuyết vị lợi về sự trừng phạt là hình phạt phải vừa đủ khắc nghiệt để ngăn cản chứ không được khắc nghiệt hơn vì điều này chỉ tạo ra những đau đớn vô ích. Trong suốt nửa sau thế kỷ 19, những nguyên tắc của thuyết vị lợi đã xâm nhập những định chế cai trị và hành chính tại Anh, nơi chúng đã gây một ảnh hưởng sâu đậm suốt từ đó. Ở một mức nào đó, điều này đánh dấu một sự khác biệt giữa Anh và Mỹ, nơi quyền cá nhân thường được chú trọng nhiều hơn do đó người ta miễn cưỡng hơn khi phải hy sinh cá nhân cho hạnh phúc của đa số và ít sẵn sàng hơn khi phải chấp nhận sự can thiệp của chính phủ.

Trong tác phẩm Dẫn nhập vào các nguyên tắc luân lý và pháp chế (1789), Bentham viết: ''Thực chất, nguyên tắc vị lợi được sử dụng để chuẩn ý hoặc phủ nhận mọi loại hành vi, xét đến ảnh hưởng của chúng đối với lợi ích chung của cả cộng đồng - nói cách khác, xét đến khuynh hướng phát huy hay đối kháng với hạnh phúc và lợi ích của một cộng đồng''. Ông xác định “lợi ích'' là những gì mang đến hoan lạc, hạnh phúc, tiện nghi, tiến bộ hoặc bất cứ hình thức nào ngăn ngừa được khổ đau, tội ác và bất hạnh.

Sự chính đáng của hành vi tùy thuộc vào sự vị lợi của nó; và sự vị lợi được đo lường bằng những hệ quả mà hành vi thường tạo ra. Trong số những từ ngữ để diễn tả các hệ quả, quan trọng nhất đối với Bentham là hai từ ngữ mà ông đã dùng để mở đầu tác phẩm Các nguyên tắc, đau khổ và lạc thú. Vì Bentham nghĩ rằng, đây là những từ ngữ rõ ràng, dễ hiểu, do đó có thể được dùng để đưa ra một ý nghĩa ngắn gọn đích xác. Vì thế, đối với Bentham, thiện hảo là sự tối đa hóa lạc thú và là sự tối thiểu hoá đau khổ. Ngược lại, như ông nói trong Các nguyên tắc, chúng ta sẽ chia bài ''trong sự đồng bóng thay vì lý trí, trong bóng tối thay vì ánh sáng''. Theo Bentham, nguyên tắc vị lợi - được lý giải bằng các từ ngữ lạc thú và đau khổ - là biện pháp thích đáng duy nhất của giá trị bởi vì nó là biện pháp toàn diện duy nhất.

E rằng, mọi người không biết cách chọn lựa những lạc thú có giá trị nhất trong phạm vi có thể, Bentham đã sáng tạo ra một công cụ đo lường lạc thú. Nó được gọi là phép tính lạc thú'' (Hedonist Calculus), bao gồm 7 tiêu chuẩn nhằm giản tiện hóa công việc lựa chọn những lạc thú khả dĩ. Khi một cá nhân đứng trước tình huống phải chọn một trong hai thú vui nào đó, anh ta có thể sử dụng 7 tiêu chuẩn dưới đây như cơ sở để đi đến quyết định: 1. Cường độ: mức độ tác động của lạc thú; 2. Thời lượng: thời gian diễn ra lạc thú; 3. Xác định hay bất định: mức độ đảm bảo rằng, một kinh nghiệm đặc biệt nào đó sẽ mang đến khoái cảm trong quá trình tham gia lạc thú; 4. Sự gần gũi hay xa cách: mức độ gần gũi, chặt chẽ của lạc thú xét về mặt không gian và thời gian; 5. Sự phong phú: khả năng tiếp cận với các thú vui phụ khác; 6. Độ thuần thục: mức độ loại trừ các yếu tố gây khó chịu và đau đớn; 7. Phạm vi: khả năng chia sẻ niềm hoan lạc với người khác.
Và để đảm bảo rằng, mọi người không vượt quá giới hạn quyền lợi cá nhân trong quá trình mưu cầu lạc thú riêng, Bentham đã đề xuất 4 hình thức trừng phạt (hay ngăn ngừa) đối với các hành vi trái đạo đức. Chúng có thể được minh họa như sau: 1. Hình phạt thể xác: nếu một cá nhân ăn uống quá độ, anh ta sẽ chán ứ, bội thực hay đổ bệnh 2. Hình phạt pháp lý: nếu một cá nhân tìm kiếm thú vui bất hợp pháp, anh ta có thể bị phạt tù hay nhận lãnh các án phạt khác; 3. Hình phạt công đạo: nếu một cá nhân tìm đến những thú vui bất công, anh ta có thể bị khai trừ khỏi xã hội cộng đồng hoặc bị công luận chỉ trích; 4. Hình phạt tôn giáo: nếu một cá nhân buông thả mình trong những lạc thú cấm kỵ và vô luân, Thượng Đế sẽ trừng phạt anh ta (ngay trong kiếp này hay ở kiếp khác).

NHỮNG CẢI CÁCH LUẬT PHÁP VÀ XÃ HỘI

Sau những rối loạn xã hội nảy sinh từ Cách mạng Pháp và những biến động về kinh tế của cách mạng kỹ nghệ, có nhiều đòi hỏi phải cải cách để hiện đại hóa luật pháp. Khuôn mặt đáng kể nhất trong cuộc vận động cải cách là triết gia vị lợi Bentham, người đã âm thầm chuẩn bị cải cách toàn bộ luật pháp một cách triệt để. Ông làm cho luật pháp bớt tính chất kỹ thuật hơn và dễ tiếp cận hơn đối với công chúng, nhưng mãi đến năm 1789, tác phẩm Dẫn nhập vào các nguyên tắc luân lý và pháp chế mới được xuất bản.
Ông công kích những thứ luật pháp bịa đặt và những điều không bình thường khác liên quan đến lịch sử. Ông tán thành hay thay đổi cơ bản trong hệ thống luật pháp: để có được hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, các luật gia, chứ không phải các quan tòa, phải soạn thảo luật pháp; và những mục đích của luật pháp phải thay đổi theo thời gian và không gian.

Tác phẩm Các nguyên tắc được tìm đọc khắp thế giới. Bentham trở thành công dân Pháp năm 1792 và những lời khuyên của ông được trân trọng đón nhận trong hầu hết các nước châu Âu và Hoa Kỳ. Việc soạn luật là một trong những mối bận tâm chính của Bentham và tham vọng của ông là được phép soạn ra một bộ luật cho nước Anh và vài quốc gia khác. Nhưng ông bị chỉ trích đã đánh giá thấp những khó khăn nội tại của công việc và nhu cầu phải có sự đa dạng của các thiết chế được thích nghi với truyền thống và văn minh.

Dự phóng lớn nhất của Bentham là pháp chế: thăm dò và đặt nền tảng lý thuyết cho một hệ thống luật và chính quyền hoàn chỉnh. Vì dự phóng này mà ông cần một biện pháp hoàn thiện, hoặc giá trị; và dự phóng này đối với Bentham là nguyên tắc vị lợi, còn được gọi là nguyên tắc hạnh phúc nhiều nhất. Trong tác phẩm Các nguyên tắc, Bentham khởi đầu chương I với lời tuyên bố đầy kích thích rằng, ''Tự nhiên đã đặt con người dưới sự thống trị của hay người chủ, đau khổ và lạc thú''. Mục tiêu của Bentham là tạo ra hạnh phúc, vui vẻ. Phương tiện được sử dụng là ''lý trí và luật pháp'': luật pháp đúng đắn sẽ sinh ra hạnh phúc, và luật pháp đúng đắn là luật pháp phù hợp với lý trí, tức là phù hợp với nguyên tắc vị lợi. Trong bản thảo các hệ thống luật của Bentham, mỗi luật cụ thể gắn với một ''lời diễn giải của lý trí về luật này''. Lời diễn giải cho thấy giá trị của nó đồng thời, Bentham hy vọng, tăng thêm hiệu quả của nó. Bởi vì, như ông từng nói, quyền lực đem lý trí cho luật pháp trong chốc lát, nhưng chính luật phải dựa vào lý trí để có được sự bền vững”.

Mục tiêu gia tăng hạnh phúc của Bentham là mục tiêu thực tiễn; và ông đưa ra những đề xuất hoàn toàn thực tiễn, như xe lửa mà lực giữa Lon-don và Edinburg, hay kênh đào Panama, hay làm đông lạnh món đậu Hà Lan. Trong số những đề xuất cải cách pháp lý và xã hội có bản thiết kế để xây dựng nhà tù mà ông gọi là panopticon. Nó sẽ có hình tròn sao cho những người giám ngục có thể ngồi ở giữa và thấy hết các tù nhân. Nó cũng sẽ được tư nhân quản lý, bằng một hợp đồng với Bentham như người giám quản. Do đó, Bentham không chỉ, có ý định tạo ra cái mà ông gọi là ''cái cối xay để nghiền những kẻ hư hỏng thành lương thiện'' mà còn kiếm tiền từ quy trình đó. Mặc dù nó không bao giờ được xây dựng, ý tưởng đó đã tác động đến nhiều thế hệ tư tưởng gia sau này và ảnh hưởng đến bản thiết kế cấp tiến của Nhà tù Pentonville cũng như nhiều nhà tù khác.

Ông trở thành người lãnh đạo một nhóm được biết tới như là những con người cấp tiến trong triết học dẫn đầu phong trào vận động cho sự cải cách sâu rộng nhà tù, chế độ kiểm duyệt, giáo dục, luật lệ chi phối sinh hoạt tình dục, sự thối nát trong các thể chế công cộng - tóm lại là tất cả những gì từ đó đã trở thành chương trình nghị sự phái tự do cánh tả phục vụ cho chính sách xã hội.

Những ảnh hưởng chính yếu về mặt triết học trên Bentham đến từ các nhà tư tưởng tiền Cách mạng Pháp; và những phát triển xa hơn của chúng qua ông đã đưa tới sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội Anh sau này vào thế kỷ 19. Bentham và những hậu duệ chủ yếu của ông là những con người độc lập về tư tưởng; và vì thời bấy giờ những con người độc lập tư tưởng vẫn chưa được phép theo học tại trường Oxford và Cambridge, nên họ đã thành lập trường đại học đầu tiên của Anh kể từ thời Trung cổ, University College London, xây dựng năm 1826. Jeremy Bentham nay vẫn còn hiện diện ở đó trong nghĩa đen đầy đủ nhất. Tại tiền sảnh, trong một cái hòm kính, xác ướp của ông vẫn ngồi trong bộ trang phục thường ngày của ông, chỉ có cái đầu được thay thế bằng một mô hình bằng sáp. Và mãi cho tới gần dây, ông vẫn còn được mô tả trong cái văn bản của Hội đồng quản trị nhà trường như đang hiện diện nhưng không bỏ phiếu.''

Bentham ít là triết gia hơn là nhà phê bình luật và của các thiết chế tư pháp và chính trị. Không may là ông không biết hạn chế đó. Ông tìm cách định nghĩa những cái ông nghĩ là những khái niệm cơ bản của đạo đức, nhưng đa số những định nghĩa đó hoặc quá đơn giản hoặc hàm hồ, hoặc vừa quá đơn giản vừa hàm hỗ, và ''phép tính hạnh phúc'' của ông, một phương pháp tính toán định lượng của niềm vui, như ngay cả những người hâm mộ ông nồng nhiệt nhất cũng thừa nhận, là không thể sử dụng được. Với tư cách là một nhà đạo đức và một nhà tâm lý học, Bentham cũng tỏ ra bất cập; những luận chứng của ông, mặc dù đôi khi công phu, vẫn dựa quá nhiều vào những tiền đề bất túc và hàm hồ. Những phân tích của ông về các khái niệm mà con người sử dụng để mô tả và giải thích hành vi nhân bản là quá đơn giản.

NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH

- Fragment on government (1776; Tản luận về chính quyền)
- Introduction to Principtes of Morals and Legislation (1780, Dẫn - nhập vào các nguyên tắc luân lý và pháp chế).
- Punishments and Rewards (1811; Trừng phạt và tưởng thưởng).

(trích từ tác phẩm 101 Triết gia, Mai Sơn biên soạn)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỘT TRONG NHỮNG LÝ DO ỦNG HỘ SỰ TÁI PHÂN PHỐI TÀI SẢN, theo JOHN RAWLS:
Rawls nhận ra rằng một số cá nhân được sinh ra với tài năng, trí tuệ, và vẻ đẹp lớn hơn so với người khác, và tương tự như vậy đối những người được sinh ra trong gia đình giàu có. Các phẩm chất tự nhiên mà một người sở hữu, và gia đình mà mỗi người sinh ra với, là một vấn đề may rủi, điều mà Rawls miêu tả như là sự may rủi tự nhiên.
Từ sự may rủi tự nhiên này, các cá nhân nhận được một sự chia sẻ không công bằng về những thuận lợi (như những thuận lợi về kinh tế -- nếu họ sinh ra trong gia đình giàu có, họ kế thừa nhiều tiền hơn người sinh ra trong gia đình nghèo khó; và nếu họ từ tự nhiên đã thông minh hơn, họ sẽ kiếm được một nghề trả lương cao hơn so với những người kém thông mình hơn).
Những người như vậy không xứng đáng với phần thưởng bất bình đằng này; sự bất bình đẳng bắt nguồn từ may rủi tự nhiên này là không công bằng, do vậy nó phải được điều chỉnh bằng sự tái phân phối.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét