Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015

Văn Hóa-Tư Tưởng Triết Học Việt Nam

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

TS. Trần Đăng Sinh & TS. Lê Văn Đoán
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời. Cả cuộc đời Người đã tận tuỵ quên mình vì nước. Hồ Chí Minh cho rằng, tuỳ theo tình hình cụ thể, với các đối tượng cụ thể thì có tiêu chuẩn khác nhau về đạo làm người.

Đối với người cách mạng, những phẩm chất cần thiết phải có là: Tự mình phải: cần kiệm; hoà mà không tư; cả quyết sửa lỗi mình; cẩn thận mà không nhút nhát; hay hỏi; nhẫn lại (chịu khó); hay nghiên cứu xem xét; vì công vong tư; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải làm; giữ chủ nghĩa cho vững; hy sinh; ít lòng tham muốn về vật chất; bí mật.

Khi làm việc người cách mạng phải xem hoàn cảnh kỹ càng; quyết đoán; dũng cảm; phục tùng đoàn thể.

Đối với cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là những người đem chính sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được. Vì vậy người cán bộ phải cần những phẩm chất đạo đức cần thiết: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đối với mình thì không được tự mãn, kiêu ngạo, luôn học hỏi cầu tiến bộ. Đối với đồng chí mình thì phải thân ái, không bao che khuyết điểm của nhau, không hiếu danh, đố kỵ.

Người cán bộ phải phụng sự nhân dân, làm đầy tớ cho dân. Muốn phụng sự nhân dân được tốt cán bộ phải luôn gần gũi nhân dân, biết lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi nhân dân,tổ chức tuyên truyền để dân hiểu dân tin, học hỏi nhân dân, đấu tranh cho lợi ích chính đáng của nhân dân. Cán bộ phải gương mẫu, hết lòng vì dân, thực hành dân chủ, làm trọn công việc, tham gia lao động, luôn rèn luyện lập trường tư tưởng và đạo đức cách mạng, cố gắng học tập chính trị, văn hoá, nắm chắc nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "có biết làm học trò dân mới biết làm được thầy dân" [2].

Đối với trí thức, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết đem tri thức áp dụng vào thực tế, lý luận phải phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận, biết khiêm tốn, không kiêu ngạo. Người trí thức phải yêu nước, thương dân, hy sinh đấu tranh vì dân vì nước, gương mẫu chấp hành luật pháp, tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ. Trí thức phải yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc.

Đối với bộ đội, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có những phẩm chất sau:
1. Mỗi việc đều phải theo mệnh lệnh cấp trên.
2. Tuyệt đối không đem của công dung cho việc tư.
3. Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân.
4. Khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ.
5. Nói năng cử động phải lễ phép, phải kính người già, yêu trẻ con.
6. Mua bán phải công bình.
7. Mượn cái gì phải trả tử tế.
8. Hỏng cái gì phải bồi thường.
9. Phải giúp đỡ dân, bất kỳ việc to, việc nhỏ.
10. Trong bộ đội từ trên xuống dưới phải đồng cam cộng khổ.
11. Chớ ve gái, say sưa, cờ bạc, hút sách.
12. Phải giúp đỡ gia đìnhchiến sĩ nơi mình đóng, phải giúp đỡ việc tăng gia sản xuất.

Người bộ đội phải đồng cam cộng khổ, có ý thức kỷ luật, siêng năng tập tành, biết giữ bí mật, đối với địch phải kiên quyết, dũng cảm, mưu trí, đối đãi nhân đạo với tù binh. Tóm lại người bộ đội phải có trí, dũng, liêm, trung.

Đối với công an cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có phẩm chất tư cách:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc phải tận tuỵ
Đối với địch, phải kiên quyết, khôn khéo.

Đối với thanh niên, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có những phẩm chất đạo đức cần thiết. Đó là:
• Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Luôn trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
• Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn. Phải yêu và trọng lao động.
• Phải nâng cao ý thức tổ chức, giữ gìn kỷ luật. Phải bảo vệ của công. Phải quan tâm đến đời sống của nhân dân.
• Điều gì phải thì cố làm cho bằng được, điều gì trái thì hết sức tránh.
• Có tinh thần gan dạ, sáng tạo, vượt khó khăn gian khổ, có chí tiến thủ.
• Phải trung thành, thật thà, chính trực. luân khiêm tốn và giản dị.
• Luôn là tấm gương sang cho thiếu nhi và nhi đồng về mọi mặt cho các em noi theo.
• Cần chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động chân tay. Chống lười biếng, lãng phí, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang.
• Phải tin tưởng ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau.
• Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nhĩa tự do.

Đối với học sinh, Hồ Chí Minh cho rằng, phải giáo dục toàn diện về trí, mỹ, đức. Để thực hiện giáo dục toàn diện, học sinh cần ôn lại điều đã học, học thêm những tri thức mới; biết phân biệt cái gì là đẹp, cái gì không đẹp; biết yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công; có tính thành thật, dũng cảm, kính thầy, yêu bạn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau; yêu kính giúp đỡ cha mẹ; tham gia những việc có ích cho xã hội.

Chú thích:

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 418-419.

(temple.edu)
-----------------------------------------------------------
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM (tiếp)

Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy

VIII. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh

1. Hoàn cảnh lịch sử.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau thất bại của phong trào Cần vương, của các phong trào cách mạng mang tính dân chủ tư sản, cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Hồ Chí Minh (1890 – 1969) xuất thân trong một gia đình yêu nước. Trước sự thống khổ của đời sống nhân dân Người đã quyết định đi theo một con đường mới. Năm 1911 Hồ Chí Minh sang Pháp, vừa làm công nhân vừa học tập. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng về dân tộc và thuộc địa của Lênin và tìm ra hướng đi cho cách mạng Việt Nam . Năm 1920 Hồ Chí Minh là một thành viên của Đảng xã hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp. Từ 1923 Hồ Chí Minh sang Liên Xô, cuối năm 1924 về Trung Quốc để lập ra tổ chức cách mạng mácxít là "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội".

Năm 1930 Hồ Chí Minh thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương và lập ra một Đảng cộng sản Việt Nam. Từ năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi tạo nên những kỳ tích trong thế kỷ XX.

2. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh

Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng này đề cập đến các phương diện khác nhau về chính trị từ đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đến nguyên tắc cơ bản để xây dựng một chế độ xã hội mới và bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước, xây dựng một quốc gia giàu mạnh. Tư tưởng này có tiền đề lý luận là những tư tưởng tiến bộ trong lịch sử Việt Nam, trong di sản văn hoá nhân loại, là chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hết sức phong phú và có những nội dung nổi bật là:

a. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Như tất cả mọi người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tư tưởng độc lập dân tộc. Tư tưởng này được đúc kết trong luận điểm "Không có gì quí hơn độc lập tự do". Hồ Chí Minh cho rằng "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Nhưng theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc của nhân dân vì "Nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì".

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và đi tới kết luận: dân chỉ có thể được hưởng hạnh phúc khi đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội bởi các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới thực tế đã không đem lại hạnh phúc cho mọi người dân.

b. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết là tư tưởng chiến lược quan trọng hàng đầu trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh.

Theo Hồ Chí Minh, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Có sức mạnh đoàn kết thì cách mạng nhất định thắng lợi.

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.

Sức mạnh vô địch để nhân dân Việt Nam có thể chiến thắng kẻ thù, để giành độc lập thống nhất cho tổ quốc là sự đoàn kết.

Hồ Chí Minh kêu gọi đoàn kết từ trong Đảng cộng sản đến đoàn kết ngoài xã hội, đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Hồ Chí Minh luôn tổ chức ra các mặt trận để đoàn kết các lực lượng xã hội trên cơ sở lợi ích chung của dân tộc. Tư tưởng đó đã tạo nên sự chung sức chung lòng, kề vai sát cánh của toàn thể nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình cách mạng đồng thời còn tạo nên sự gắn bó với các nước láng riềng, với nhân dân tiến bộ trên thế giới làm nên sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

c. Xây dựng một Đảng cách mạng chân chính.

Hồ Chí Minh cho rằng muốn cách mạng thành công thì sức cách mạng phải tập trung. Muốn sức mạnh tập trung thì phải có Đảng cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nên đó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhưng đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc. Vì vậy, Đảng phải có lý luận tiên tiến làm kim chỉ nam. Các đảng viên của Đảng phải có tinh thần tiên phong, gương mẫu. Đảng phải thường xuyên được củng cố và phải dựa vào dân để xây dựng Đảng. Nhờ có tư tưởng chỉ đạo này mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự nghiệp bảo vệ nền độc lập và thống nhất của tổ quốc cũng như sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn lịch sử mới.

d. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hành dân chủ rộng rãi.

Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân có thể xem là một tư tưởng chính trị nổi bật của Hồ Chí Minh. Tư tưởng này được trình bày nhất quán trong toàn bộ lý luận về nhà nước. Có thể khái quát những nội dung chính của tư tưởng này như sau:

— Một là, về nguyên tắc tất cả quyền lực trong nước Việt Nam đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là người lựa chọn những người xứng đáng vào cơ quan nhà nước, kiểm soát sự hoạt động của các cơ quan nhà nước và viên chức nhà nước đồng thời có quyền bãi miễn những người không xứng đáng.

— Các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều là đầy tớ của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.

— Bộ máy nhà nước phải đảm bảo được tính hiện đại, phải có đủ các cơ quan luật pháp, hành pháp, tư pháp, dân chủ và có hiệu lực.

— Nhà nước của dân, do dân, vì dân phải mang bản chất giai cấp công nhân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

— Đội ngũ cán bộ nhà nước phải có hai điều kiện cơ bản: có đức và có tài; phải thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, chống quan liêu, tham ô, lãng phí, xa rời nhân dân.

e. Tư tưởng lấy dân làm gốc.

Triết lý lấy dân làm gốc là một triết lý chính trị truyền thống của phương Đông, đặc biệt là của Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng triết lý lấy dân làm gốc trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh được mở rộng và được cụ thể hoá ở các nội dung sau:

– Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân.

– Nhà nước và cán bộ phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.

– Phải dựa vào dân để giải quyết mọi công việc.

– Phải gần dân, tin dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân và rèn luyện đạo đức.

– Phải biết phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân.

Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh không phải là sự khái quát các tư tưởng chính trị đã có trong lịch sử ở phương Đông, phương Tây mà là sự tiếp thu có phê phán các tư tưởng này và bổ sung những nội dung mới tạo nên một sắc thái riêng biệt.

(temple.edu)
------------------------------------------------------------------------------------

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

PGS.TS. NguyễnThế Kiệt
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Trong việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã chọn lọc để phát huy những mặt tốt, từ bỏ những mặt tiêu cực đồng thời cách tân, bổ sung những nhân tố mới cho phù hợp với thực tiễn và thời đại. Điều đó thể hiện ở một số mặt cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước truyền thống: Hồ Chí Minh đã cơ cấu lại, đã phát huy cao độ những giá trị đạo đức truyền thống trong các chuyển biến mới của dân tộc, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật và các phong trào lớn đang dâng lên cuồn cuộn ở thể kỷ XX; phong trào dân chủ, phong trào giải phóng dân tộc và phát triển xã hội chủ nghĩa [2]. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, đã gắn tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đã phát huy khí phách hào hùng của cả dân tộc, kế tục tốt đẹp của ông cha, đó là:

— Hồ Chí Minh đã vượt qua chiếc áo chật hẹp của chủ nghĩa yêu nước cũ; xác lập trong ý thức xã hội một chủ nghĩa yêu nước mới, khác hẳn với tinh thần "vị quốc", yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế. Từ đây, Người đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong việc lựa chọn con đường mới để địa phương dân tộc mà các văn nhân, chí sĩ trước đây không thành công vì chưa kết hợp được một cách đúng đắn các năng lượng giải phóng của dân tộc với các năng lượng giải phóng quốc tế [3].

— Quan điểm về giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giải phóng dân tộc bao gồm cả cộng đồng dân tộc sống trên giải đất này, giải phóng đồng bào miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Yêu nước gắn liền với nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân... Bản thân Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, không chỉ trong hành động, trong lời nói mà cả trong mọi lĩnh vực giao tiếp văn hoá, ở đâu Người cũng phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

— Người coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới: Chủ nghĩa yêu nước thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tinh thần quốc tế trong sáng yêu cầu tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Khi mỗi quốc gia thực hiện lợi ích của dân tộc mình, không xâm lược đến lợi ích dân tộc khác, quốc tế khác. Người không chỉ quan tâm và chiến đấu cho con người Việt Nam mà còn quan tâm chiến đấu cho những con người, những dân tộc cùng cảnh ngộ như Việt Nam. Tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh đã làm cho uy tín của Người vượt khỏi biên giới Việt Nam. Thế giới tìm về Người, ngưỡng mộ và đi theo lý tưởng của Người. Tuy nhiên như Người khẳng định: "Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày" [3]. Điều đó có nghĩa là phải ra sức giải thích tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước [3].

Thứ hai, tinh thần tập thể cộng đồng. Trong tư tưởng, tình cảm, hành động, chủ trương chính sách của Người, hiện lên rất rõ dấu ấn sâu sắc tinh thần tập thể cộng đồng kếp hợp nhuần nhuyễn với ý thức cách mạng, cụ thể là:

— Quan tâm nhiều đến cộng đồng, nhấn mạnh nghĩa vụ cá nhân với cộng đồng. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm quê hương gắn liền với lòng yêu nước, với tinh thần cộng đồng dân tộc, cộng đồng quốc gia. Người ôm ấp một gia đình rộng lớn Việt Nam, Người sống bằng tâm hồn của cộng đồng dân tộc, đau nỗi đau của dân, buồn nỗi buồn của dân, chịu khổ trước dân, hưởng thụ sau dân. Bác sĩ Vũ Đình Tụng một nhân sĩ Công giáo có con hy sinh trong chiến đấu, Người viết thư thăm hỏi: "Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt 1 đoạn ruột" [4]. Người giáo dục công dân coi làng xã là nhà, hợp tác xã là nhà, thầy thuốc phải như mẹ hiền, người chỉ huy, người chính trị viên phải thương yêu chiến sĩ như anh em ruột.

— Phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc sâu sắc, tinh thần khoan dung, rộng mở trong giao lưu văn hoá tư tưởng, tinh thần bao dung, tôn trọng các tôn giáo. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công". Trước lúc đi xa, trong di chúc Người còn nhắc nhở chúng ta, " đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta... cần giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".

— Tinh thần cộng đồng thân ái [5] không còn giới hạn trong phạm vi "người trong một nước" như trước kia. Quan hệ tình nghĩa gia đình không phải chỉ thể hiện trong phạm vi gia đình mà còn thể hiện trong phạm vi thế giới, "thế giới đại đồng".

— Tinh thần tập thể gắn liền với tinh thần dân chủ, bình đẳng và khác về chất với tính cộng đồng mang tính đẳng cấp thứ bậc trước kia. Bản thân người tự ví mình: như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận, "cán bộ các cấp là công bộc của dân, vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân". Người rất thích khí phách anh hùng và thái độ tôn trọng con người trong hai câu thơ của Lỗ Tấn.

Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu
Tức là, người chiến sĩ cách mạng trước kẻ địch hung dữ đến đâu vẫn trợn mắt coi khinh, còn đối với quần chúng nhân dân thì cúi đầu làm trâu ngựa.

Người còn nhấn mạnh: "việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân phải hết sức tránh" [6].

Thứ ba, tinh thần nhân ái. Dân tộc Việt Nam vốn yêu quý con người, coi "người ta là hoa, đất", "thương người như thể thương thân"...

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh có một số đặc điểm sau:

Một là, lòng yêu thương con người, trước hết là những người cùng khổ nhất trong xã hội. Và, Người cho rằng, phải hoà vào quần chúng lao khổ bị nô dịch để thức tỉnh và khơi nguồn sức mạnh, tìm ra vũ khí tinh thần, vật chất để giải phóng họ. Đúng như Mông-ta-rông ca ngợi: "cụ Hồ Chí Minh là chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói thèm khát một cuộc sống cho ra người... Cụ dạy cuộc chiến đấu vì nhân phẩm và tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác. Cụ đã bênh vực những ai yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ" [7]. Đó là tinh thần nhân văn cách mạng, nhân văn chiến đấu để giải phóng nhân loại đau khổ bằng chính lực lượng của họ.

Hai là, ý thức giải phóng cho dân tộc mình, đất nước mình là vấn đề lớn nhất, bao trùm nhất trong chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh yêu người phải gắn với yêu dân, yêu nước nồng nàn, yêu thương nhân loại, một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Nhà báo Úc Bớc-xét nói: "Nói tới một người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh" [7].

Ba là, thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người là nét đặc trưng bao trùm nhất trong chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở của tinh thần đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên cơ sở của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Hồ Chí Minh xuất phát từ yêu cầu cấp bách giải phóng dân tộc mình rồi từ đó đi đến giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa, giải phóng giai cấp vô sản để đi đến xã hội cộng sản. Mục tiêu đó quan xuyến cả cuộc đời Hồ Chí Minh.

Bốn là, yêu thương con người thể hiện trước hết ở sự tin tưởng, kính trọng nhân dân.
Trong cuộc đời Bác, lòng yêu thương Người dành cho đồng bào, đồng chí, các tầng lớp nhân dân thật mênh mông. Bằng lời nói và việc làm, bằng sự chỉ đạo nêu gương, Người đã chỉ cho mọi người thấy thế nào là đạo đức cao đẹp. Người quan tâm giáo dục con người, khuyến khích cái tốt, khuyên người làm điều thiện, chống cái ác. Người tạo điều kiện, động viên, dìu dắt, nâng cao tâm hồn và tình cảm đồng bào, đồng chí. Mọi người đều cảm thấy mình lớn lên và tự hào trước tấm gương đạo đức của Người. Người giáo dục nhân dân tinh thần quốc tế trong sáng, không bài ngoại, không cố chấp hận thù... Người đề cao tính chất thiêng liêng của phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, đánh giá cao những người có công dựng nước, giữ nước của dân tộc. Người nêu cao cái thiêng của chủ nghĩa nhân văn hiền thần để ngăn chặn cái ác, lấy cái cao cả thiêng liêng ở cõi vĩnh hằng để khơi dậy nghĩa vụ cao quý nơi trần thế. Tinh thần bao dung của Hồ Chí Minh trước cuộc sống tâm linh của con người là như vậy.

Năm là, trong chủ nghĩa nhân đạo Hồ Chí Minh, sự thương yêu con người gắn bó, hoà nhập với thiên nhiên và muôn vật, hoà nhập giữa thiên thời địa lợi với nhân hoà. Về điều này, Người không những đã kế thừa những gì tốt đẹp nhất của dân tộc và nhân loại, mà đã đi trước thời đại. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo soi vào Hồ Chí Minh đều cảm thấy có những giá trị nhân văn của mình trong đó.

Có thể nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh kết thành diện mạo đạo đức của thời đại mang tên Người là những tư tưởng đã cơ cấu lại các giá trị đạo đức truyền thống hoà quyện với tinh hoa đạo đức nhân loại và được nâng lên một tầm cao mới. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành một sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam./.

Chú thích
2. Xem Tư tưởng Hồ Chí Minh: Truyền thống dân tộc và nhân loại. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 56.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T., tr. 172.
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 264.
5. Xem Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Truyền thống dân tộc và nhân loại. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 63.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 30.
7. Xem Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh. Tập 3. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 276-279, 235.
----------------------------------------------------------------------------------
TRIẾT LÝ VỀ NHÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TS. Trương Quốc Chính & TS. Nguyễn Thuý Vân
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Xuất thân từ gia đình nhà nho, khoa bảng, nhưng ở Hồ Chí Minh, triết lý về nhân dân có một nội dung khác về cơ bản với quan niệm nho giáo truyền thống. Đây không phải là sự thương hại của "bề trên" nhìn xuống, không phải sự động lòng trắc ẩn của người đứng ngoài cuộc mà là sự đồng cảm sâu sắc của những người cùng cảnh ngộ. Đây là tư tưởng xuất phát từ những trải nghiệm bản thân của Hồ Chí Minh khi mẹ chết mà em còn nhỏ, phải tự mình bế em đi xin sữa; cha bị hàm oan và bị đẩy đi xa; cảnh nghèo đói cùng cực của dân quê Nghệ Tĩnh; cảnh khổ sở của dân phu làm đường; cảnh phu xe, người bán hàng rong gầy ốm lam lũ đối lập với sự xa hoa thừa thãi của thực dân và vua quan phong kiến... Chính vì thế nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân là lòng yêu thương những "người cùng khổ" bao gồm người dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa. Triết lý về nhân dân trong đó đã được nâng lên đến tầm chủ nghĩa nhân văn: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề ...là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức".

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm "dân", "nhân dân" có nội hàm rất rộng, chúng được dùng để chỉ: "mọi con dân nước Việt", "mỗi một người con Rồng, cháu Tiên", không phân biệt tín ngưỡng, tộc người, sang hèn. Nhân dân được xem vừa là tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi cá nhân người Việt Nam cụ thể, đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc, nghĩa là mỗi cá nhân đều tham gia với tư cách thành viên hợp thành khối đại đoàn kết toàn dân. Hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, Hồ Chí Minh có những triết lý sâu sắc về bản chất và sức mạnh tiềm tàng của quần chúng nhân dân: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Theo đó, dân chúng biết nhiều cách giải quyết vấn đề một cách mau chóng đầy đủ mà ngay cả những người tài giỏi, những đoàn thể nghĩ mãi không ra. Như vậy, những người cách mạng không chỉ lãnh đạo mà còn phải học tập quần chúng nhân dân.

Về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: Người là gốc của làng nước, công nông là gốc của cách mạng vì vậy cần quan tâm việc giáo dục, giác ngộ, tổ chức quần chúng, lấy sức mạnh của quần chúng để chiến thắng sức mạnh vật chất của giai cấp thống trị. Phải chăm lo bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phải đem tài của dân, sức của dân, của của dân để làm lợi cho dân; coi trọng, trọng dụng, đào tạo nhân tài; công nông phải trí thức hoá và trí thức phải gắn bó với công nông... Vấn đề giải phóng con người, giải phóng quần chúng nhân dân: phải kết hợp hài hoà giữa cá nhân và tập thể bởi vì: "Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh".

Triết lý về nhân dân của Hồ Chí Minh còn gắn với quan điểm về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo V.I. Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước, và theo Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai và phục vụ lợi ích của ai. Theo đó, sau khi cách mạng thành công, phải thiết lập được chính quyền nhà nước của đại bộ phận nhân dân trong xã hội. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người..." Và "Nước lấy dân làm gốc... gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Mặc dù đều là tư tưởng lấy dân làm gốc, nhưng ở các quan niệm trước đây, dân tuy là gốc, nhưng không phải là người chủ thực sự của quyền lực chính trị; người chủ thực sự của quốc gia vẫn chỉ là một người, đó là người đứng đầu chính quyền phong kiến - nhà Vua. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người chủ thật sự của đất nước. Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Người luôn luôn giáo dục công nhân viên chức: phải thương yêu dân, dựa vào dân, gần gũi dân, lắng nghe học hỏi dân, tin tưởng dân. Cán bộ là "đầy tớ" cho dân chứ không phải là "ông quan cách mạng". Nhà nước là một tổ chức để nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Sau cách mạng tháng Tám 1945, Người khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" Người luôn luôn chủ trương: chính quyền của chúng ta phải là chính quyền của dân, do dân và vì dân - tức là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước chính là nhân dân. Nói về nguyên tắc tập trung quyền lực - toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân - cũng đồng thời là nói tới tính giai cấp của quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước, điều này là biểu hiện sinh động của luận điểm triết học mácxít: Khi lợi ích của giai cấp thống trị được thể hiện trong lợi ích chung của dân tộc thì lúc ấy, tất cả quyền lực sẽ thuộc về nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân... Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân nếu đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình.

Mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân đã thể hiện rõ tư tưởng do dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh: không có ai khác ngoài nhân dân là chủ thể xây dựng nhà nước XHCN; nhân dân là người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Nhà nước phải có nghĩa vụ và trách nhiệm làm cho điều đó trở thành hiện thực. Người nói: "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân... làm cho mọi người công dân Việt Nam thật sự tham gia vào công việc nhà nước".

(temple.edu)
----------------------------------------------------------------------------------------
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM (tiếp)

Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy

IX. Triết học chính trị Việt Nam từ 1930 đến nay.

1. Hoàn cảnh lịch sử.

Từ năm 1930 đến đầu thế kỷ XXI, lịch sử Việt Nam đã có những biến cố lịch sử hết sức quan trọng.

— Ngày 03/02/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ đó cho đến ngày nay.

— Ngày 19/8/1945 cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại quyền độc lập sau gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến đã tồn tại gần 1.000 năm trong lịch sử Việt Nam (kể từ sau thời kỳ Bắc thuộc).

— Từ năm 1945 đến 1954 dưới sự lãnh đạo sáng suốt và kiên cường của Đảng cộng sản nhân dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu cũ lần thứ hai của Pháp.

Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp đã bị tiêu diệt. 2.688 tỷ phrăng và 2.600 triệu đô la Mỹ viện trợ bị tiêu phí vì mục đích phi nghĩa. 20 lần chính phủ Pháp bị đổ, 7 lần toàn quyền Pháp bị triệu hồi, 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. Cuối cùng thực dân Pháp đã buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

— Từ năm 1954 đến năm 1975, nhân dân Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:

+ Xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
+ Đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Trong thời gian này, Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới có qui mô lớn nhất, kéo dài nhất, ác liệt và dã man nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai của Hoa Kỳ.

Theo thống kê sơ bộ của Bộ Lao động thương binh và xã hội Việt Nam (tháng 10/1993), con số hy sinh và thiệt hại của Việt Nam như sau:

1,1 triệu người liệt sĩ, 600.000 người thương binh, 300.000 người mất tích, gần 2.000.000 người dân thường bị giết hại, 2.000.000 người dân thường bị tàn tật, 2.000.000 người bị nhiễm chất độc hoá học (trong đó có khoảng 50.000 trẻ em bị dị dạng).

Chiến thắng của nhân dân Việt Nam đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam trong 117 năm và giành lại hoàn toàn quyền độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc, mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho đất nước. Đó là một thiên anh hùng ca vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam, một trong những sự kiện nổi bật của thế kỷ XX.

Như vậy, riêng trong thế kỷ XX, Việt Nam phải giành tới 3/4 thời gian để tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ nhất, hy sinh lớn nhất, giành lại nền độc lập, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

— Từ năm 1975 đến nay là giai đoạn Việt Nam bước vào con đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa .

Thời kỳ 1975 – 1985 đất nước vừa trải qua chiến tranh. Hậu quả của chiến tranh hết sức nặng nề lại bị bao vây cấm vận về kinh tế cùng với cơ chế quản lý cũ đã gây nên những khó khăn trầm trọng về kinh tế – xã hội.

— Từ năm 1986 đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện, đã tạo ra những chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực:

+ Đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng.
+ Xuất khẩu lương thực đứng hàng thứ 3 thế giới.
+ Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh.
+ Chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.
+ Quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng.
+ Văn hoá, xã hội có những bước phát triển mới.

Việt Nam ngày càng có vị thế xứng đáng trong khu vực và trên trường quốc tế.

2. Những nội dung cơ bản về triết học chính trị.

Triết học chính trị Việt Nam từ năm 1930 đến nay vẫn chưa trở thành một hệ thống lý luận độc lập. Tuy vậy, các quan điểm triết học về chính trị ngày càng rõ ràng và được trình bày trong các lý luận về triết học, lý luận về nhà nước, lý luận về Đảng cộng sản và sau đó được trình bày trong chính trị học.

Nội dung triết học chính trị Việt Nam từ năm 1930 đến nay rất phong phú song những vấn đề cơ bản nổi bật nhất là:

a. Tư tưởng giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia thống nhất.

Đây là tư tưởng chính trị cơ bản xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam. Trong thời đại Hồ Chí Minh tư tưởng này phát triển đến đỉnh cao và trở thành triết lý cơ bản trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Năm 1930 cuộc cách mạng của Việt Nam được xác định là cuộc cách mạng chống đế quốc và phong kiến tay sai. Nhưng nhiệm vụ giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam vào những năm trước cách mạng Tháng 8 là: quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy. Cuộc cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc Nhật – Pháp và bọn phản quốc. Lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng là công, nông do giai cấp công nhân lãnh đạo cùng tất cả những người Việt Nam yêu nước thuộc các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau.

Sau khi cách mạng Tháng 8 thành công, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai, tư tưởng chỉ đạo của cách mạng Việt Nam là toàn dân đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trường ký và toàn diện, quyết giành cho được độc lập và thống nhất thật sự, quyết bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng Tháng 8. Chính tư tưởng chiến lược này là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp.

Sau khi thực dân Pháp thất bại, Mỹ vào thay Pháp ở miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam thì tư tưởng chính trị chủ đạo là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiến quyết, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Tư tưởng cơ bản đó đã phát huy được nguồn lực bên trong của dân tộc Việt Nam, kết hợp với sự ủng hộ rộng rãi của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới kể cả nhân dân Pháp và Mỹ tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng các thế lực đế quốc lớn trên thế giới trong thế kỷ XX.

b. Tư tưởng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa .

Tư tưởng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một trong những tư tưởng chính trị trọng yếu của Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Xuất phát từ lý luận về hình thái kinh tế – xã hội của triết học chính trị mácxít, Việt Nam khẳng định:

— Sự phát triển của lịch sử Việt Nam không đi đúng tuần tự qua các giai đoạn phát triển như nhiều quốc gia trên thế giới và có sự phát triển đặc thù.

— Trong điều kiện những biến đổi của thế giới ở thế kỷ XX và dựa vào thực tế của đất nước Việt Nam, Việt Nam có thể phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội mà không cần phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa sau khi đã giành được độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

— Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực sự đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, mới làm cho đất nước Việt Nam thực sự vững mạnh.

— chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hiểu là:

"Một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".

Để thực hiện mục tiêu đó, cách mạng Việt Nam phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiểu khâu trung gian. Việt Nam coi trọng việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa , đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa kết hợp nội lực với ngoại lực, truyền thống với hiện đại để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước. Cùng với quá trình đó, Việt Nam cũng tiến hành xây dựng một nền văn hoá dân tộc tiên tiến, chế độ chính trị tiên tiến và các quan hệ xã hội tốt đẹp khác. Đây là tư tưởng chính trị hết sức cơ bản của Việt Nam trong điều kiện mới.

c. Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Lý luận về Nhà nước chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng chính trị Việt Nam đặc biệt là trong lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1941, Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu ra quan điểm là không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô Viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa. Chính phủ này phải do quốc dân đại hội cử ra, phải đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân gồm tất cả các đảng phái cách mạng, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu ra.

Sau cách mạng Tháng 8, tư tưởng trên đã được cụ thể hoá trong hiến pháp. Điều 1 của hiến pháp năm 1946 qui định: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bình trong nước của nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.

Từ năm 1954, do miền Bắc Việt Nam được giải phóng và phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa nên Nhà nước Việt Nam chuyển sang làm nhiệm vụ của Nhà nước vô sản.

Do trong thực tế, hoạt động của Nhà nước có nhiều hạn chế nên từ 1992 đã bắt đầu hình thành lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là quan điểm chính trị mới nhất về Nhà nước, trong triết lý chính trị Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau đây:

— Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước.

— Tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.

— Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính tối cao của pháp luật.

— Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thống nhất và phân công giữa các cơ quan luật pháp, hành pháp và tư pháp.

— Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự giám sát của nhân dân.

Đó là những quan điểm chỉ đạo để xây dựng và nâng cao vai trò hoạt động của Nhà nước Việt Nam hiện nay.

d. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu, là nhân tố quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

— Đại đoàn kết dân tộc là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam.

— Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của liên minh công nhân, nông dân, trí thức là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam.

— Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn kết đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài.

— Đại đoàn kết đòi hỏi phải xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn ổn định chính trị, tạo nên sự đồng thuận xã hội vì tương lai của dân tộc.

Đó là tư tưởng đoàn kết thực sự rộng rãi xuất phát từ lợi ích của toàn dân tộc, từ yêu cầu đẩy mạnh sự phát triển của đất nước.

Tư tưởng đoàn kết của Việt Nam còn mở rộng đến sự đoàn kết các quốc gia, các tổ chức tiến bộ trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi.

Những tư tưởng chính trị trên đây là đỉnh cao của triết học chính trị Việt Nam. Đó là kết quả của sự đúc kết các tư tưởng chính trị đã hình thành trên 2.000 năm trong lịch sử. Đó cũng là sự đúc kết những tư tưởng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh. Những tư tưởng này sẽ được tiếp tục phát triển trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa .

(temple.edu)
-----------------------------------------------------------------------------------------
TRIẾT LÝ VỀ NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

TS. Trương Quốc Chính &
TS. Nguyễn Thuý Vân
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người cho thấy, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử. Vậy quyết định sự phát triển của xã hội là quần chúng nhân dân hay cá nhân lãnh tụ? Phải thừa nhận rằng, mọi quá trình vận động, phát triển của lịch sử đều diễn ra thông qua hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức. Trong đó, quần chúng nhân dân có vai trò quyết định, bởi vì họ là đại bộ phận đông đảo dân chúng có sự thống nhất với nhau về lợi ích căn bản, tự liên kết lại một cách tự nhiên khách quan thành một tập thể to lớn có tính toàn xã hội để giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định. Như vậy "quần chúng nhân dân" là khái niệm chỉ:

Một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần (hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân)

Hai là, những bộ phận dân cư chống lại các giai cấp áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.

Ba là, những giai cấp, tầng lớp dân cư thông qua hoạt động của họ, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Khái niệm quần chúng nhân dân là một phạm trù có tính lịch sử, nó không bất biến mà luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của lịch sử.

Trong bài viết này, chúng tôi khảo cứu triết lý về nhân dân giới hạn trong phạm vi lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thời Lý–Trần đến thời đại Hồ Chí Minh và được chia làm bốn thời kỳ:

1. Triết lý về nhân dân thời Lý–Trần

Nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ X, tiếp theo đó đã trụ vững trước sự tấn công xâm lược của ngoại xâm chủ yếu là nhờ vào sức mạnh của toàn thể nhân dân. Vai trò này đã được ghi nhận một cách rõ rệt và có hệ thống trong lĩnh vực tư tưởng thời Lý–Trần. Trong đó những quan niệm và triết lý về nhân dân là sự tiếp nối một dòng chảy liên tục dòng tư tưởng về độc lập và tự chủ của đất nước mà nhân dân là cơ sở. Một trong những quy luật cơ bản của chiến tranh giữ nước là phải dựa vào nhân dân, phải dựa vào khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức nhân dân thành một lực lượng vật chất mới có thể chiến thắng. Chính vì vậy, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân và cả đoàn kết trong nội bộ giai cấp thống trị để có sức mạnh trong chiến tranh vệ quốc đã trở thành vấn đề trung tâm của tư tưởng thời đại.

Các nhà tư tưởng thời kỳ này nói nhiều về "ý dân", "lòng dân" và họ coi việc "khoan thư sức dân" là điều hệ trọng bậc nhất trong các hoạt động chính trị. Theo họ, đó là căn cứ, là mục đích cho những chủ trương chính trị lớn như việc dời đô, kế vị hay thay đổi vương triều, phát động chiến tranh... Trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, theo nghĩa đó, để chiến thắng phải "khoan thư sức dân", tranh thủ và vận động được sự đồng lòng của người dân cả nước. Trong "Chiếu dời đô", Lý Công Uẩn đã nói: "Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân...". Trong bài "Văn lộ bố" khi tiến hành cuộc chiến tấn công quân Tống ở biên giới phía Bắc, Lý Thường Kiệt đã nói: "Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Trần Tự Khánh, người có công lớn trong việc gây dựng cơ đồ nhà Trần cũng thường viện dẫn tới lòng dân để làm căn cứ cho các hành động chinh phạt...

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thì cho rằng nhân dân là cơ sở để tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước. Khi tổng kết kinh nghiệm các cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc đã nói "... đến thời Đinh Lê, dùng được người hiền lương đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mỏi mệt suy yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống đó là một thì... Mới rồi Toa Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hoà mục, cả nước góp sức lại, giặc tự bị bắt... vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước"1. Luận điểm quan trọng nhất của Trần Quốc Tuấn là khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân dân, theo đó, nhân dân là nơi hội tụ những tiềm lực về kinh tế và quốc phòng bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền của đất nước. Ông còn chỉ ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển tài năng của những cá nhân anh hùng: Chim hồng hộc bay cao được là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường thôi, theo đó, những cá nhân anh hùng chỉ có thể thể hiện được vai trò của mình, làm nên sự nghiệp là nhờ vào sự giúp đỡ, ủng hộ, đồng lòng của quần chúng nhân dân. Như vậy, Trần Quốc Tuấn đã khái quát triết lý về vai trò của nhân dân trong chiến tranh giữ nước, đó là đoàn kết toàn dân, cả nước chung sức đánh giặc, phải khoan thư sức dân làm nền móng cho khối đoàn kết đó, khi chiến tranh xảy ra, nó có thể làm cho sức mạnh của nhân dân được tăng lên gấp bội. Đây là triết lý có tính phổ biến của mọi cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, đã được chứng minh bởi các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt chống quân Tống ở thế kỷ X và XI, chống Nguyên Mông thế kỷ XIII.

Ngay từ thời Lý, việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được xem là việc hệ trọng nhất của công việc trị nước. Sự quan tâm của người cầm quyền đối với nhân dân chủ yếu biểu hiện như là một sự xót thương những nỗi đau khổ và cực nhọc của dân chúng. Theo quan điểm của các nhà Nho ở thế kỷ XIV, sự quan tâm đến nhân dân được xét đến như một vấn để bức thiết của việc cầm quyền (đạo trị nước). Trong lĩnh vực tư tưởng thời kỳ này, nhân dân được nhìn nhận như là lực lượng xã hội cần phải được quan tâm khi tiến hành những cuộc chiến tranh cứu nước và duy trì trật tự xã hội để có được sự thịnh vượng chung cho đất nước. Lúc này nhân dân được đề cập như một hiện tượng cần thiết cho nhu cầu chính trị của vương triều phong kiến. Nhân dân được coi trọng nhưng chỉ trong khuôn khổ nhu cầu chính trị đó mà thôi, họ vẫn chỉ được coi là những công cụ, được sai khiến và sử dụng nhằm củng cố chế độ bóc lột phong kiến và quyền hạn tối thượng của nhà vua. Tư tưởng khoan thư sức dân xét đến cùng cũng chỉ xuất phát từ lợi ích của giai cấp phong kiến, địa chủ. Lòng thương yêu dân chúng của tầng lớp trên trong xã hội gồm vua, quan, nho sĩ trí thức... chỉ là tình cảm của bề trên đối với đám dân chúng bần hàn, nghèo khổ bên dưới chứ không phải là của những người cùng cảnh ngộ, đó là sự biểu hiện của những quan hệ không bình đẳng.

Thực chất, quan điểm và chính sách thân dân thời kỳ Lý - Trần có mục đích điều chỉnh mối quan hệ nhà nước phong kiến - nhân dân, điều hoà mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ, phong kiến với nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. Điều này đã ít nhiều làm giảm bớt sự cực khổ, nặng nề trong cuộc sống của người dân. Lúc này, chế độ phong kiến Việt Nam đang phát triển mạnh và đạt được nhiều thành tích rực rỡ của nó, còn đảm nhiệm được vai trò lịch sử, vì thế quan điểm và chính sách thân dân đã có tác dụng góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân để chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế, văn hoá, đất nước đạt được sự thịnh vượng. Mặc dù vậy, khái niệm nhân dân thời kỳ này còn có hạn chế vì chưa đề cập đến thân phận của mọi tầng lớp xã hội (ví dụ tầng lớp nô tỳ...).

2. Triết lý về nhân dân thời Hậu Lê

Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần, năm 1406, nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhà Hồ chỉ sau mấy tháng là thất bại bởi vì nhà Hồ đã đánh giặc một mình, vì để mất lòng dân. Hồ Nguyên Trừng - con trai của Hồ Quý Ly đã từng nói: không sợ giặc, chỉ sợ lòng dân không theo. Nguyễn Trãi nhận xét: Hồ Quý Ly thất bại bởi đã không thực hiện triết lý khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ mà trước đó Trần Hưng Đạo đã tổng kết. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, triết lý về nhân dân luôn gắn chặt với "nhân nghĩa", Ông cho rằng cứu nước việc đầu tiên là phải cứu dân: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" (Đại cáo bình Ngô). Theo Ông, dân chúng (tức nhân dân) là người dân lao động - những người chịu nhiều đau khổ và bị áp bức bóc lột nhiều nhất không chỉ khi có nạn ngoại xâm mà thậm chí cả khi đất nước yên bình... nên lý tưởng về nhân nghĩa của Ông là đất nước thái bình, nhân dân no đủ, bên trên thì vua sáng tôi hiền, bên dưới thì tận trong thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu. Phải xem dân là gốc nước, dân có quan hệ đến an nguy của triều đại. Bởi vì theo Ông, nhân dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định đến việc ủng hộ hay phế truất một triều đại, một ông vua: nhà Trần có một quá khứ chống ngoại xâm rất hiển hách và vinh quan nhưng vẫn sụp đổ do về cuối lòng dân chán ghét, nhà Hồ, mặc dù có nhiều cải cách kinh tế, chính trị mạnh mẽ nhưng do bị dân oán giận nên mới bị mất về tay giặc Minh, bản thân quân Minh cũng do nhân dân căm giận mà đại bại, phong trào khởi nnghĩa Lam Sơn được lòng tin của dân nên đã thành công. Ông đã nhắc lại câu nói: mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân... thuyền lật mới tin rằng dân như nước... để thể hiện triết lý về nhân dân của mình: vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định. Dân như nước, nước có thể đẩy thuyền, cũng có thể lật thuyền.

Triết lý về nhân dân của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở tư tưởng về cộng đồng nhân dân, theo đó thì cứu nước và cả dựng nước là công việc của đại đa số người dân, của "trăm họ". Trong những công việc này, nếu mọi người dân đều đồng lòng thì sẽ có sức mạnh. Nhà Hồ thất bại vì quân của họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng; Lê Lợi thắng vì quân không quá vài mươi vạn nhưng ai cũng một lòng. Cá nhân phải gắn với cộng đồng, phải trở thành phần tử cố kết của cộng đồng. Thông qua tình yêu thương và quyền lợi, sự công bằng, đồng cam cộng khổ, giải quyết hài hoà các lợi ích, nhu cầu của quần chúng nhân dân thì mới gắn bó được họ để tạo ra sức mạnh. Mọi chủ trương đường lối, chính sách, mọi quan hệ đối xử của triều đình, nhà nước đều phải căn cứ vào lòng dân bởi vì, các công việc của nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp quan hệ đến nhân dân, đều có thể gây cho nhân dân một sự phản ứng và từ đó xuất hiện có thể là tư tưởng ủng hộ hoặc chống đối. Lòng dân ủng hộ thì làm, chống đối thì phải huỷ bỏ.

Các nhà sử học thời hậu Lê đề cao tư tưởng dân bản, đã nâng tư tưởng "dân bản" lên thành như một triết lý (học thuyết) để trị nước. Sử gia Ngô Sĩ Liên có luận điểm về lòng dân, theo đó, có dân ủng hộ thì mọi việc đều thắng lợi, dân không ủng hộ thì mọi việc có thể bị thất bại. Xét từ góc độ kinh tế, nội dung dân bản là lo lắng đến đời sống của người lao động, mà chủ yếu là nông dân. Thương dân là phải tiết kiệm sức dân, làm cho dân đông, dân giàu. Tuy nhiên, tư tưởng dân bản mà các nhà sử học đề cập tới có ý nghĩa là "chăn nuôi dân", ban ơn cho dân - trước hết không phải là và chỉ là vì dân mà thực chất là vì quyền lợi, lợi ích lâu dài của giai cấp thống trị và nhà vua. Lê Tung một nhà sử học thời kỳ này đã cho rằng trị nước chăn dân tức là: "... đặt sinh dân lên chiếu đệm ấm êm để cơ đồ sự nghiệp to lớn của đế vương cùng với trời đất lâu dài mãi mãi..."2 Ngoài ra, một quan niệm chung và cũng là một triết lý khá phổ biến của xã hội Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XV là tin ở mệnh trời - biểu hiện của sự thắng thế của những quan niệm Nho giáo đối với Phật giáo lúc này. Tuy vậy quan niệm này ở Việt Nam có sự khác biệt so với Nho giáo nguyên gốc vì nó cho rằng trời và người là hai thực thể nhưng không đối lập nhau mà phải dựa vào nhau như âm và dương. Trời và người cảm ứng lẫn nhau, chính quyền (nhà vua, triều đình) cũng như người dân phải quan sát các hiện tượng tự nhiên để biết ý trời: "thiên nhân cảm ứng" - người là chủ thể mà trời là khách thể, có thể thông hiểu và tương cảm lẫn nhau. Mặc dù tin ở mệnh trời, nhưng thực ra, người ta không hiểu và cũng không cần hiểu bản chất của "trời" là gì, vì thế họ đồng nhất việc của con người với việc của trời, đồng nhất bản thể xã hội với bản thể tự nhiên. Các nhà viết sử thời kỳ này cũng đã có những quan niệm về vấn đề này theo hướng tích cực, tin ở sức mạnh của con người, của nhân dân nên họ đi đến triết lý: nhân định có thể thắng thiên tức là dù tin ở trời và sự điều khiển cuộc sống con người của trời, của mệnh trời, nhưng vẫn khẳng định, bằng sức mạnh của con người, của đại đa số quần chúng nhân dân, có thể tự định đoạt vận mệnh của nhân dân, của dân tộc. Chính vì thế, người Việt Nam trong lịch sử mới có thể lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh.

3. Triết lý về nhân dân thời kỳ Lê, Mạc và Trịnh - Nguyễn phân tranh

Từ thế kỷ XVI, nhất là cuối XVII, những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến Vua Lê, Chúa Trịnh với nhà Mạc; đàng Trong với đàng Ngoài và các hệ luỵ do nó gây ra cho xã hội... đã buộc các nhà tư tưởng phải có những suy nghĩ, những triết lý về vị trí, vai trò cũng như thân phận của quần chúng nhân dân. Họ đã cố gắng lý giải nguyên nhân của xã hội thái bình thịnh trị (trị) và xã hội loạn lạc (loạn), và cho rằng lãnh đạo, điều khiển xã hội là tập đoàn phong kiến thống trị nên xã hội "trị" hay "loạn" phụ thuộc nhiều vào thái độ của tập đoàn ấy đối với lòng dân và ý trời. Lòng dân được hiểu là xu hướng và nguyện vọng của dân, còn ý trời là xu thế tất yếu của những lực lượng vô hình chi phối xã hội và con người. Quan điểm duy tâm cho rằng, "ý trời" là ý chí, sức mạnh của một thực thể siêu nhiên có nhân cách; quan điểm duy vật vô thần lại chỉ coi đó như là quy luật khách quan chi phối con người và con người chỉ có thể nhận thức và tuân theo nó mà thôi. Theo Giáo sư Nguyễn Tài Thư (trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1993), thì trong thế kỷ XVIII có hai luồng tư tưởng chủ đạo về các vấn đề "lòng dân", "ý trời" và mối quan hệ giữa chúng.

Một là, quan điểm coi trọng lòng dân, chẳng hạn, Lê Quý Đôn trích dẫn kinh sách và khẳng định thêm về triết lý: Dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên. Cứu dân tức là vì nước; hay Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) cũng có quan điểm tương tự: Dân là gốc, gốc vững nước mới yên (trong bài Biểu dâng vua Quang Trung về tình hình dân tình xứ Nghệ). Ngô Thì Nhậm lại cho rằng: Lòng dân quyết định ý trời - "Trời trông, trời nghe ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển...; Dân hoà cảm ở dưới thì thiên hoà ứng ở trên, hiệu nghiệm được mùa không hẹn mà đến..." (trong tờ "Khải" bàn về chính sự đương thời)

Hai là, quan điểm cho ý trời thể hiện ở lòng dân: "Trời trông và nghe là do ở dân. Cho nên điềm lành điềm dữ trời ứng nghiệm ra, đều có liên quan tới lòng người vui hay buồn...; Điềm lành, điềm dữ của trời ăn khớp với việc của người, chính sự của nước thông suốt đến trời" (Ngô Thì Sĩ, trong Bài khải trình bày tình thực về tai biến).

Quan điểm thứ nhất chưa đạt đến mức là duy vật, nhưng đã biểu lộ một triết lý: coi lòng dân là động lực, nếu được lòng dân thì vận tốt sẽ tới: quan điểm thứ hai lại ngả theo triết lý có tính chất duy tâm tôn giáo truyền thống của phương Đông, đó là thiên nhân cảm ứng.

Ngô Thì Nhậm có triết lý khá sâu sắc về dân tức nhân dân: dân là những người bình thường, chiếm số đông, làm ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội và triều đình, đó là những người phải đi phu, đi lính, đóng thuế; là những người nông dân phải lo lắng đến đồng ruộng khi mưa dầm nắng hạn; là những người thợ dệt phải ngậm ngùi bên khung cửi khi sưu cao thuế nặng. Thái độ và xu hướng của những con người như vậy (nhân dân) có tác động và ảnh trực tiếp tới vận mệnh xã hội và triều đình. Trong triết lý này, thì dân là trung tâm của vũ trụ, của mối quan hệ trời - người; được lòng dân là cơ sở của sự hoà hợp và phát triển, là điều kiện để có được sự cân bằng cả trong xã hội và tự nhiên. Từ những luận điểm của triết lý này, ông đề xuất những phương pháp, cách thức làm thế nào để có được lòng dân: một mặt kế thừa những tư tưởng của các bậc tiền bối như Trần Quốc Tuấn hay Nguyễn Trãi, mặt khác ông cho rằng cần giảm bớt sự đóng góp của dân: "Muốn được lòng dân, cốt là phải làm cho hai xứ (Thanh, Nghệ) và bốn tuyên (Bắc Bộ) được thư thả". Cần làm cho người nông dân được hài lòng, người buôn bán được thoả dạ và binh sĩ được vừa ý.

Truyền thống của Nho giáo luôn gắn yêu dân với kính trời. Vua Tự Đức của Nhà Nguyễn, triều đình phong kiến sau cùng trong lịch sử Việt Nam cũng thể hiện một quan niệm trong triết lý về dân ở phương châm "ái dân" khi ông cho rằng: muốn chuyển tai biến thành điềm lành duy chỉ có biết cách dùng người và biết cách an dân là việc cần kíp hơn hết; ông còn viện dẫn "Kinh thư": trời trông thấy là tự mắt dân trông thấy, trời nghe thấy là tự tai dân nghe thấy. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, ở đây có một sự không rõ ràng và rạch ròi giữa ý trời với lòng dân, mặc dù theo quan điểm chính thống của Nho giáo, kính trời và thương dân luôn đi đôi với nhau: kính trời phải thương dân, không thương dân tức là không kính trời. Nhưng nhân dân lại không phải là trời mà trời sinh ra dân, trời uỷ thác cho vua cai trị dân, vua lại chỉ định trăm quan để trong nom dân. Phần nhiều các vua nhà Nguyễn (từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX) đều không thể không biết tới triết lý: dân là nước, vua là thuyền, nước đỡ thuyền mà cũng có thể nhận chìm thuyền, nên họ thường đề cao triết lý: ý trời khó biết, lòng dân khó lường, nghĩa là cái sự thương dân, yêu dân hay "ái dân" của họ thực chất là sợ dân. Chính vì thế, triết lý "ái dân" được xem là cơ sở của các chính sách cụ thể của triều đình như: giảm sưu thuế cho dân, đơn giản hoá chính sự, hình luật mau lẹ, giảm bắt lính, quan thanh liêm, vua cần kiệm... Tuy nhiên, cũng theo giáo sư Trần Văn Giàu, nếu nhà vua có thương dân, thì đó cũng chỉ như là người cưỡi ngựa thương con ngựa, người nuôi gà thương bầy gà, nhiều nhất là như cha mẹ thương con không đẻ. Mặc dù vua quan luôn tự hào là kẻ chăn dân, tự cho mình là cha mẹ dân, nhưng dân không phải là đối tượng phục vụ của họ mà chỉ là đối tượng bóc lột. Thương dân là cốt để củng cố quyền vua, an dân là cốt để triều đình được vĩnh cửu trường tồn. Các nhà nho Việt Nam nói chung và cả các nhà nho thế kỷ XIX, cũng có chịu ảnh hưởng tích cực của triết lý "ái dân" của Kinh Thư, triết lý "dân quý" của Mạnh Tử.

4. Triết lý về nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh



Tài liệu tham khảo
1. Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1993.

2. Viện Sử học, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý-Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1981.

3. Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến cách mạng Tháng tám, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.

4. Trần Đình Hượu, Các bài giảng về tư tưởng phương đông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.

5. Trần Ngọc Đường, Quyền con người, Quyền công dân trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

6. Viện triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và công bằng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008.

7. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. 
----------------------------------------------------------------------
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM (tiếp)

Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy

VII. Triết học chính trị dân chủ tư sản Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

1. Hoàn cảnh lịch sử.

Sau khi liên quân Pháp – Anh đánh xong Quảng Châu (Trung Quốc), Pháp đã liên minh với Tây ban nha kéo tới dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cuộc xâm lược này gặp sự chống trả quyết liệt của nhân dân Việt Nam và các sĩ phu yêu nước. Thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Song do triều đình phong kiến Việt Nam lúc đó yếu hèn nên ngày 6/6/1884 điều ước Patơnốt đã được triều đình Huế ký, đặt cơ sở cho sự đô hộ lâu dài của thực dân Pháp ở Việt Nam với những chính sách đàn áp bóc lột hết sức vô nhân đạo của chúng. Lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX lại trở thành lịch sử của các phong trào đấu tranh giành độc lập nối tiếp nhau của nhân dân Việt Nam.

Từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu phong kiến yêu nước, phong trào đấu tranh giành độc lập đã nổi lên khắp từ phía Bắc chí Nam. Đó là phong trào Cần Vương. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, căn bản các phong trào này đều thất bại. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái, một cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân kéo dài từ 1884 đến 1913 có qui mô lớn nhưng cuối cùng cũng không thành công. Điều này đã chấm dứt tư tưởng khôi phục nhà nước phong kiến Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) và sau đó là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933). Trong quá trình này, chúng lập ra một bộ máy thống trị chặt chẽ từ Trung ương đến Địa phương, mở rộng các ngành nông nghiệp, khai thác mỏ, thương nghiệp để tận thu các nguồn của cải, tạo ra những chuyển biến đáng kể về kinh tế, xã hội.

Trong điều kiện này đã hình thành những tư tưởng chính trị mới, đặc biệt là tư tưởng cách mạng dân chủ của những nhà cách mạng cấp tiến như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học.

2. Tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản.

(temple.edu)
----------------------------------------------------------------------------------------
TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ SẢN CỦA PHAN CHÂU TRINH

Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy

Khác với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh (1872 – 1926) có khuynh hướng dân chủ tư sản thông qua con đường cải cách xã hội. Nhiệm vụ cấp bách mà Phan Châu Trinh đề ra là thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, xóa bỏ tư tưởng chuyên chế, bồi dưỡng dân trí đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa, phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ông yêu cầu chính quyền thuộc địa thay đổi chính sách cai trị hiện hành như mở rộng dân chủ, cải cách về văn hoá, giáo dục, tạo điều kiện phát triển công thương nghiệp để nhân dân Việt Nam có thể từng bước đi tới văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hoá", tuyên truyền tư tưởng dân quyền: ông lên án chính quyền đô hộ Pháp dùng quan lại Việt Nam làm cho dân điêu đứng, phê phán chính phủ bảo hộ Pháp xem thường dân sĩ Việt Nam gây nên sự phẫn uất trong nhân dân.

Tháng 10/1908, Phan Châu Trinh sang Pháp. Ông đã tham gia lập "Hội đồng bào thân ái" gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương. Ông tiếp xúc với các nhân vật cấp cao ở Bộ thuộc địa. Ông cho rằng phải nhìn Việt Nam trong mối quan hệ với thế giới với cả quá khứ và tương lai. Ông yêu cầu vua Khải Định phải thoái vị "Chớ vì bằng thói cũ không chừa, choán cái ngôi chí tôn, ra cái ngôi chuyên chế hãm chìm quốc dân xuống cái vực sâu thẳm đời đời". Theo ông, chuyên chế nếu không mất ngôi thì mất nước vì "cái độc quyền quân chủ nó giết hẳn cái lòng ái quốc của dân Việt Nam ta, nó làm cho dân ngu muội không biết nước là gì".

Phan Châu Trinh là người đề xướng tư tưởng dân chủ dân quyền sớm ở Việt Nam và là nhà nho tiêu biểu đã tuyên chiến với chế độ quân chủ, vận động, đấu tranh để thành lập nên cộng hòa dân chủ.

Mặc dù đường lối cách mạng của Phan Châu Trinh không đưa sự nghiệp của ông đến thành công nhưng ở đây đã thể hiện một lập trường chính trị mới tạo tiền đề cho những biến đổi về tư tưởng chính trị sau này.

(temple.edu)
--------------------------------------------------------------------------------------
TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ SẢN CỦA PHAN BỘI CHÂU
Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy
Phan Bội Châu (1867 – 1941) có mục đích chính trị là: khôi phục nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, dưới hình thức một nhà nước quân chủ lập hiến. Phương pháp cách mạng của ông là dùng cách mạng bạo lực để giành chính quyền và xuất dương cầu viện. Ông đã thành lập Duy tân hội, "lập Hội Đông Á đồng minh" để đoàn kết với các chí sĩ lưu vong Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Philippin hiện sống ở Nhật Bản. Ông đã tổ chức phong trào Đông du, đưa được 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học để chuẩn bị lực lượng cho cách mạng. Phan Bội Châu cũng đã thành lập Việt Nam quang phục hội (1912), chủ trương đánh đổ thực dân Pháp, thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam. Tư tưởng của Phan Bội Châu lúc đầu chỉ "Cốt sao khôi phục được nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác". Sau khi sang Nhật, ông hình thành tư tưởng "Khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến" và cuối cùng là tư tưởng giành độc lập, xây dựng chế độ dân chủ. Nhưng từ 1925, sau khi bị Pháp bắt đưa về Huế ông đã viết tác phẩm chủ nghĩa xã hội và ca ngợi chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tinh thần yêu nước, Phan Bội Châu đã trở thành nhà tư tưởng dân chủ tư sản tiêu biểu đầu thế kỷ XX ở Việt Nam.
--------------------------------------------------------------------

VẤN ĐỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

TS. Trần Đăng Sinh & TS. Lê Văn Đoán
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

ĐẠO LÀM NGƯỜI. Triết lý nhân sinh, phương châm sống của con người, trả lời câu hỏi: "con người phải sống như thế nào cho phải (Đạo)?"

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề đạo làm người luôn đặt ra và đòi hỏi được giải quyết, bởi nó liên quan tới cuộc sống của mỗi con người trong mỗi giai đoạn của lịch sử dân tộc. Có nhiều cách tiếp cận, lý giải khác nhau về đạo làm người do lập trường, quan điểm và lợi ích khác nhau của con người, giai cấp và thời đại.

Ở Việt Nam tín đồ đạo Phật cho rằng, có hai điều trong việc tu tập đạo lý làm người:

• Thứ nhất: hoàn thiện bản thân; tu dưỡng đạo đức nơi chính mình.

• Thứ hai: có trách nhiệm với những người xung quanh: có bổn phận đem được sự an vui, hạnh phúc đến cho mọi người.

Để thực hiện đạo làm người, con người phải biết thanh lọc nội tâm, biết kiểm soát tâm và đánh giá chính bản thân mình. Là người luôn biết tự trách mình, tìm lỗi chính mình để sửa sai. Là người xem xét hành vi của mình từng chút một; điều bất thiện dù rất nhỏ cũng tránh, điều thiện dù khó khăn đến thế nào cũng không từ nan, và hiểu rõ ranh giới giữa điều xấu và điều tốt.

Con người đối với mọi người luôn khoan dung, tử tế một cách sâu sắc, và luôn e ngại sẽ làm người khác bị tổn thương. Tử tế sâu sắc có nghĩa là hiểu thấu, thông cảm và chia sẻ được những nỗi đau của người khác. Là người độ lượng, yêu thương con người mà không so đo hơn thiệt. Dù làm rất nhiều việc thiện, trong lòng không hề có chút ý nghĩ mưu cầu danh lợi phước báo. Chấp nhận những thiệt thòi bản thân để giữ vững đạo lý làm người.

Đạo làm người được thể hiện trong các quan hệ cụ thể giữa con người trong các mối quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội. Nếu là con cái thì đó là đạo Hiếu đối với bố mẹ. Nếu là bố mẹ thì đó là đạo Từ. Nếu là anh chị em thì đó là đạo Đễ. Nếu là vợ chồng, thầy trò, bạn bè thì đó là đạo Nghĩa. Đạo Nhân là đạo của người trên đối với kẻ dưới. Đạo Trung là đạo của người dân, quan đối với vua (ngày xưa). Ngày nay chúng ta có thể hiểu đó là bổn phận của công dân đối với đất nước. Người theo đạo Công giáo lại tìm thấy đạo làm người trong lời dạy của Chúa. Để làm người phải có đức Nhân. Để có Nhân phải thương yêu người: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách mặc, thăm viếng kẻ hoạn nạn, cho khách ở nhờ, chuộc kẻ làm tôi, chôn cất người chết.

Trần Văn Giàu trong Đạo làm người từ Lý Thường Kiệt đến Hồ Chí Minh (Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006) cho rằng, yêu nước là tiêu chí hàng đầu của đạo làm người trong lịch sử dân tộc Việt nam.

Vào thời Hùng Vương, do phải đấu tranh liên tục chống thiên tai và địch hoạ, người Việt cổ phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tình doàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau trong cuộc sống được phản ánh qua những chuyện thần thoại như bọc trăm chứng; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Thánh Dóng; An Dương Vương xây thành ốc Cổ Loa...

Tinh thần yêu nước, bất khuất đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng là nét nổi trội trong triết lý sống của người Việt thời Hùng Vương. Bà Trưng khởi nghĩa chống lại nhà Hán không phải chỉ để trả thù chồng mà còn đền nợ nước, gây dựng lại cơ nghiệp của Vua Hùng.

Trong suốt thời Bắc thuộc, sống trong cảnh bị thống trị, lệ thuộc bởi các tập doàn phong kiến phương Bắc, người Việt vẫn tiếp tục sống với tinh thần doàn kết, thân ái trong các cộng đồng gia đình, họ tộc, làng xã và nước. Trong gia đình hình thành các giá trị đạo đức mà mỗi thành viên tuân theo các định hướng giá trị ấy: cha phải thương con, con phải hiếu với cha (đạo cha con); vợ chồng phải thuận hoà (đạo vợ chồng); anh em phải đoàn kết yêu thương nhau (tình huynh đệ). Trong họ thì: "một giọt máu đào hơn ao nước lã", trong làng thì: "hàng xóm láng giềng, tắt lửa tối đèn có nhau". Với dân tộc, đất nước thì bất khuất, kiên cường đấu tranh chống chính sách đồng hoá, chống ách đô hộ của các tập đoàn phong kiến phương Bắc.

Bước sang thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ từ thế kỷ X đến XV, quan niệm về đạo làm người của người Việt được nâng lên một tầm cao mới. Triết lý nhân sinh truyền thống được bổ sung bởi triết lý của Nho, Phật, Đạo nên sâu sắc, phong phú hơn.

Những nhà tư tưởng Việt Nam, trên lập trường của Phật giáo, một mặt khuyên con người ta sống phải tu tâm, mặt khác đòi hỏi cái tâm ấy phải hoà đồng với cái tâm chung của thiên hạ. Lời khuyên của vị quốc sư trên núi Yên Tử đối với Trần Thái Tông: "đạo làm quân vương phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình" chính là triết lý nhập thế của những thiền sư thời Lý, Trần.

Những người theo triết lý vô vi của đạo Lão - Trang thì coi cuộc sống xuất thế, ẩn dật là con đường tới hạnh phúc. Còn những nhà tư tưởng theo Nho giáo thì đề cao trung, hiếu, xem đó là đạo của người con hiếu, tôi trung. Thời Lý, các quần thần dự hội thề ở đền Đồng Cổ, hàng năm phải thề độc: "làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần linh chu diệt".

Sang thế kỷ XV- XVI khi nhà nước phong kiến độc tôn Nho giáo thì đạo làm người được phát triển theo hướng trọng Nho. Các nhà tư tưởng tiêu biểu thời này như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao nghĩa quân thần, tận trung với vua, bởi các ông xem vua là người đại diện cho lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Nguyễn Trãi đề cao cương thường của Nho:

Chữ học ngày xưa quên hết dạng
Chẳng quên có một chữ cương thường
Hay:
Bui có một lòng trung với hiếu
Mài chẳng khuyết nhuộm chẳng đen.

Lê Thánh Tông, vị vua anh minh đề cao đức nhân, đức hiếu trên lập trường nhà Nho: "mối lo lắng là con hiếu vua nhân"

Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đề cao đạo cương thường (tam cương, ngũ thường), về sau ông phát triển thêm, cho rằng đạo làm người phải trung chính (trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, hoà giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, thấy của phi nghĩa không tham, vui làm điều thiện, bao dung, chí thành với người khác).

Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào cảnh khủng hoảng và suy tàn, quan niệm về đạo làm người dựa trên lập tường của Nho giáo cũng có những biểu hiện khác nhau.

Nguyễn Dư - nhà tư tưởng thế kỷ XVI, một mặt vẫn đề cao đạo cương thường của Nho, mặt khác ông nhấn mạnh trí, nhân nghĩa của con người: "phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức, ở nhân chứ không phải ở bạo". Làm người quân tử, theo ông phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, trong đó tu thân là gốc. Bởi muốn tề được gia, phải tự sửa mình trước, khiến mình không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đất.

Phùng Khắc Khoan (1528- 1613) cho rằng, làm người thì đức trung, hiếu, nhân nghĩa phải đặt lên hàng đầu: "bình sinh chí lớn để cả vào vua và cha", "chỉ một tấm lòng giữ tròn trung hiếu, làm cho công danh được mãi mãi về sau".

Ngô Thì Nhậm (1746- 1803) đề cao đạo Nho, lấy đức hạnh trung hiếu, nhân nghĩa làm đầu: "đạo có gì khác đâu, trung hiếu mà thôi"; "nhân nghĩa trung chính là đạo lớn của người...".

Nhìn chung từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII các nhà tư tưởng thời phong kiến ở Việt Nam thường giải quyết vấn đề đạo làm người trên lập trường ý thức hệ Nho giáo, lấy cương thường, nhân nghĩa làm trọng.

Sang thế kỷ XIX, xã hội có nhiều biến động sâu sắc, giai cấp địa chủ phong kiến không còn đủ khả năng lãnh đạo dân tộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của tư bản phương Tây. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng vẫn nói đến đạo làm người xung quanh giá trị yêu nước, trung quân, nhân nghĩa.

Làm người phải biết xả thân vì nghĩa lớn. Nghĩa lớn chính là sự biết hy sinh cá nhân giữ trọn nghĩa trung quân, ái quốc:

Nguyễn Đình Chiểu nhà yêu nước tiêu biểu thế kỷ XIX cho rằng:

"... Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm khổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ..."

Làm người khi giặc đến giày xéo quê hương thì:

"... Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã dành rành, một chữ ấm đủ đền công đó..."[1]

Với các sĩ phu và văn thân cuối thế kỷ XIX thì đạo làm người gắn với đạo vua tôi, vì vua cũng là vì nước, họ tự nguyện dấn thân vào con đường tranh đấu chống thực dân xâm lược Pháp, chấp nhận sự hy sinh cả tính mạng.

Sang đầu thế kỷ XX, khi chế độ phong kiến mà hệ tư tưởng của nó là Nho giáo không còn sức sống, quan niệm về đạo làm người có những yếu tố mới. Một số các nhà Nho yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh gắn sự nghiệp của đời mình vào sự nghiệp của đất nước theo hướng duy tân. Một số người phất cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám...Nguyễn Thái Học đại biểu cho giai cấp tiểu tư sản chủ trương bạo động lật đổ chế độ thực dân phong kiến mà không ngại hy sinh.

Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã tạo ra sự thay đổi chất trong quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Để làm người, không có con đường nào khác là tranh đấu chống ách áp bức của thực dân và phong kiến, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp cần lao thông qua thực tiễn cách mạng. Nhiều thanh niên Việt Nam giác ngộ lý tưởng cách mạng, chấp nhận sự hy sinh trên con đường đấu tranh vì độc lập tự do cho của Tổ quốc như Phạm Hồng Thái, Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu...

Từ cách tiếp cận lịch sử có thể thấy rằng, vấn đề đạo làm người là một nội dung quan trọng trong triết lý nhân sinh của người Việt Nam, có quá trình hình thành, ngày càng được bổ sung và phát triển qua các giai đoạn lịch sử.

Trong thời đại ngày nay, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, cần phải giáo dục, xây dựng con người mới. Con người mới phải có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi, sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính" [3]

Tiêu chí của đạo làm người trong xã hội ngày nay đòi hỏi sự phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

Có thể nói, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, ĐẠO làm người đựợc coi là giá trị "nền" của mọi giá trị trên đời. Tuy nhiên nhận thức về đạo làm người là một quá trình, được bổ sung và phát triển liên tục qua các giai đoạn của lịch sử xã hội. Quan niệm về đạo làm người chịu sự qui định của thực tiễn lịch sử. Quan niệm về đạo làm người dựa trên đạo đức học mácxít và tư tưởng Hồ Chí Minh đạt được giá trị khách quan và khoa học, là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội trong thời đại ngày nay.

Chú thích:
[1] Theo Lê Sĩ Thắng, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
[3] ĐCSVN, Cương lĩnh xâ ydựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.15.

(temple.edu)
----------------------------------------------------------------------------
TƯ TƯỞNG VỀ NHÂN DÂN CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

TS. Trương Quốc Chính & TS. Nguyễn Thuý Vân
Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tư tưởng tiêu biểu của thế kỷ XVI là người có nhiều triết lý về thế giới và nhân sinh mang tính triết học. Triết lý về nhân dân của ông gắn liền với những quan niệm về con người và mối quan hệ con người - tự nhiên, theo đó, con người là một bộ phận của tự nhiên, giữa người và trời có sự thống nhất: "Thiên nhân tương dữ hựu tương phù" tức là trời và người có quan hệ với nhau và phù hợp với nhau. Con người cũng như vạn vật sinh ra một cách tự nhiên, thực ra, trời chính là giới tự nhiên chứ không phải là một thực thể siêu nhiên có nhân cách. Tuy nhiên, do đồng nhất quy luật xã hội với quy luật tự nhiên nên ông cũng đã có những quan niệm duy tâm, cho cuộc sống con người là phụ thuộc số, mệnh. Ông có quan niệm về đạo trời, đạo người - sự phát triển của xã hội và vận mệnh cuộc đời con người và lý giải đạo người trên cơ sở đạo trời, không thừa nhận vai trò hoạt động của con người trong sự phát triển xã hội và bản thân nó mà tất cả đều do số, mệnh, do trời định... Do thế giới quan này nên, quan niệm về đạo người của ông mang nhiều những nội dung đạo đức mà cơ bản là "trung chính" có nghĩa là thiện, là nhân, là yêu thương và cứu giúp con người. Nhưng cũng chính do tính chất duy tâm của thế giới quan đó nên ông cũng có nhiều triết lý nhân sinh mang tính chất tiêu cực: khuyên con người an phận, thủ tiêu đấu tranh và do đó làm cho hệ thống lý luận của ông nhiều khi tự mâu thuẫn với chính nó. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà Nho sống gần gũi với nhân dân nên đồng cảm với họ, luôn mơ ước về một xã hội thái bình, thịnh trị - nhân dân được sinh sống yên ổn, no đủ trong một xã hội hoà bình, không có chiến tranh, triết lý chủ yếu theo quan điểm của ông ở vấn đề này mang nội dung "nhân nghĩa" - "Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh" có nghĩa là từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. Triết lý nhân nghĩa của ông biểu hiện ở tư tưởng chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo; đất nước phải được hoà bình, triều đình phải có chính sách cứu vớt những người nghèo khổ, nhà vua phải chăm lo soi xét đến đời sống của muôn dân: "Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân" tức là nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo. Triết lý này không phải là sự thương xót, thông cảm của bề trên đối với kẻ dưới mà là xuất phát từ những nhận thức sâu sắc về đời sống và vai trò của quần chúng nhân dân trong xã hội: "Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả"; "Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân". Mặc dù đã thấy được vai trò của nhân dân trong sự an nguy của xã hội, nhưng do hạn chế về xuất thân và giai cấp, ông vẫn không xác định được vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Quan niệm sai về sự phát triển của xã hội, ông đã không thừa nhận tính năng động chủ quan của con người trong hoạt động xã hội. Triết lý "dĩ hoà vi quý" cũng là một điểm nổi bật trong hệ thống lý luận của ông. Trong một giới hạn nhất định và trong những trường hợp cụ thể thì "hoà" là một triết lý sống tốt đẹp, là biện pháp để hành động có hiệu quả và còn là động lực của sự phát triển. Thế nhưng trong triết lý này của ông lại coi "hoà" là nguyên tắc tuyệt đối, vô điều kiện thì đó lại là một sự đồng nhất sai lầm.
Dân vi quý, xã tắc thứ tri, quân vi khinh. _ Không Tử _

(temple.edu)
------------------------------------------------------------------------------------
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy
Đến Lê Quí Đôn (1726 – 1784) thì triết lý chính trị đã có một bước tiến rõ nét so với các nhà tư tưởng thế kỷ XVII. Lê Quí Đôn là người học rộng, đỗ đầu trong các cuộc thi, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, có cống hiến nhiều về học thuật và có tầm nhìn rộng.
Lê Quí Đôn là người có ý thức xây dựng một nền văn hoá dân tộc, sưu tập, hệ thống hoá các tác phẩm thi văn từ thời Lý đến thời Lê. Ông đề cao các nhân tài của đất nước, phê phán thái độ xem thường người Việt và sự xâm lấn đất đai của phong kiến Trung Quốc. Ông đánh giá cao những sản vật vốn có của đất nước. Điều đó đã nêu cao lòng tự hào dân tộc và bồi đắp thêm ý chí dân tộc, tự cường. Mặt khác, Lê quí Đôn cũng là người đã thấy được những hạn chế của văn hoá truyền thống Trung Quốc và mở rộng việc nghiên cứu về các tài liệu thiên văn, địa lý, khoa học ở phương Tây. Vì vậy, về quan điểm chính trị, Lê Quí Đôn có những điểm khác biệt với các nhà nho đương thời. Theo ông, sự nghiệp của các vua chúa phải là Vương đạo cộng với Bá đạo. Do đó đường lối trị nước không phải là Nho giáo mà là Nho gia cộng với Pháp gia. Cách xử lý công việc phải kết hợp mềm với cứng, Nhân nghĩa phải đi đôi với "thuật" và "thế". Việc đánh giá con người theo ông không chỉ dựa vào đức mà còn phải dựa vào tài. Có thể nói ở Lê Quí Đôn đã thể hiện rõ một sự chuyển biến về tư tưởng chính trị.
---------------------------------------------------------------------------

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NGUYỄN TRÃI

Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy

Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm của ông mà điển hình là trong "Cáo bình Ngô", một áng văn bất hủ, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Việt Nam. Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi mang tính triết lý sâu sắc, phản ánh kiến thức uyên bác của ông về Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo cũng như về lịch sử, văn hoá dân tộc, cuộc sống của nhân dân.

Có thể xem Nguyễn Trãi là người đầu tiên nêu lên những yếu tố cơ bản của một quốc gia có chủ quyền. Trong các bức thư gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi luôn khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập nằm ngoài lãnh địa Trung Quốc, có một nền văn hoá riêng. Trong Cáo bình Ngô, ông khẳng định:

"Xét như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến
Bờ cõi sông núi đã riêng
Phong tục Bắc nam cũng khác".

Như vậy, quan niệm về quốc gia dân tộc, ở Nguyễn Trãi đã được hiểu với một nghĩa đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn nhiều so với giai đoạn lịch sử trước.

Tư tưởng chính trị nổi bật ở Nguyễn Trãi còn là tư tưởng "nhân nghĩa". Mặc dù "nhân", "nghĩa" là phạm trù mà Nho giáo đã sử dụng, song ở Nguyễn Trãi "nhân nghĩa" lại có những nét riêng, độc đáo và trở thành một phạm trù chính trị – xã hội rõ rệt.

Nguyễn Trãi viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Vì vậy, mục đích của các cuộc chiến tranh của Việt Nam không phải để "đánh chém" mà muốn "để người ta sống" làm cho "dân yên".

Quan niệm về "dân" trong tư tưởng của Nguyễn Trãi được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả những dân cày, những điền nô, gia nô, tôi tớ, những người lao khổ trong xã hội.

Nguyễn Trãi kể tội quân giặc, trước hết là tội
"Treo dân đen trên lò bạo ngược
Hầm con đỏ dưới hố tai ương"

Vì vậy mà phải dùng binh, nhưng "binh cốt để bảo vệ dân". Dân trong tư tưởng Nguyễn Trãi không chỉ là những người cần phải cứu vớt mà sức mạnh của dân còn là sức mạnh cơ bản, là nền tảng của quốc gia. Vì dân "Như con sông chở thuyền và lật đổ thuyền cũng lại là dân". Theo ông "Dân mà không tin thì nước không thể đứng vững được. Chính nhân dân đã góp công góp của cho chiến tranh để tạo nên một đội quân hùng mạnh: "Gươm mài đá núi cũng mòn. Voi uống nước, nước sông phải cạn". Nhờ vậy mà có chiến thắng.

Tư tưởng "yên dân" là tư tưởng cốt yếu của nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa còn là dùng nhân nghĩa để chiến thắng, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi viết:

Trọn hay,
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cườn g bạo.

Vì vậy, mặc dù sức mạnh như "chẻ tre", Nguyễn Trãi vẫn kêu gọi tướng giặc cầu hòa, ông không muốn để những người dân vô tội phải chết uổng... Khi quân giặc đã thất bại, chúng vẫn được cấp cho 500 chiếc thuyền và 10 cỗ xe ngựa cùng đầy đủ lương thực, thực phẩm để về nước được chu toàn.

Cũng với tư tưởng nhân nghĩa này, Nguyễn Trãi đã chủ trương xây dựng một chính quyền trong sạch, chống tham quan ô lại để có được cuộc sống yên vui cho người dân ở tận các nơi thôn dã. Nhà nước theo ông phải có kỷ cương, có luật lệ nghiêm chỉnh nhưng đồng thời cũng phải là nhà nước "nhân chính" vì pháp lệnh phải "để lòng vào nhân nghĩa." Nhờ theo tư tưởng đó mà đất nước Đại Việt thế kỷ XV đã trở thành một quốc gia giàu mạnh khiến "người phương xa sợ uy, mến đức đều đến tỏ lòng thành thực để xem cảnh tượng thái bình".
Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân _ Nguyễn Trãi _ (1380 - 1442)
Nên thợ nên thầy vì có học, no ăn no mặc bởi hay làm _ Nguyễn Trãi _ (1380 - 1442)

(temple.edu)
---------------------------------------------------------------------------------
SUY NGẪM MỘT SỐ CÂU NÓI CỦA HỒ CHÍ MINH
- Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu (9/1945)
- Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm (9/1945)
- Dân cường thì nước thịnh (3/1946)
- Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thông thái (10/1946)
- Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người
- Một người dù có khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người để có nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Như vậy thì vấn đề mới được giải quyết chu đáo, tránh khỏi sai lầm.
- Ai cũng cần có lòng tự trọng, tự tin. Không có lòng tự trọng, tự tin là người vô dụng.
- Chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng. Nhưng chúng ta biết rằng: muốn cải thiện đời sống, thì trước phải ra sức thi đua phát triển sản xuất; và trước phải nâng cao mức sống của nhân dân, rồi mới nâng cao mức sống của cá nhân mình.
- Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết kết hợp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ.
- Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ Đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn.
- Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người.
- Bất cứ một người lao động nào, dù thông minh đến đâu, đôi lúc cũng có thể sai lầm. Chỉ có những kẻ ngồi không mới không sai lầm mà thôi. Nhưng làm việc mà có sai lầm còn hơn là sợ sai lầm mà khoanh tay ngồi không.
- Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho người.
- Phê bình là không phải để mỉa mai, nói xấu. Phê bình là để giúp nhau tiến bộ.
-------------------------------------------------------------------------------
DANH SĨ NGÔ THÌ NHẬM: CHẤP NHẬN LÀM CON THUYỀN ĐƠN LẺ

Với người cùng thời, Ngô Thì Nhậm đã là một “cô châu” (con thuyền đơn lẻ). Tuy nhiên, đánh giá về ông, chúng ta hôm nay chỉ có thể nói rằng, nhà văn hóa này có thể không thành công ở một số giai đoạn nhưng tựu trung vẫn là thành đạt đối với muôn đời. Và hơn thế nữa, ông luôn “thành nhân” trong bất cứ thời điểm nào của cuộc đời mình, bất luận những đồn đại lắm khi ác ý và tà ý của những người hay những triều đại thù địch với tư tưởng mà ông theo đuổi.

CON NHÀ TÔNG…

Ngô gia văn phái ở làng Tả Thanh Oai (tục gọi là làng Tó, thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội) nức tiếng trí thức và thành đạt: 11 người đỗ Tiến sĩ. Không ngẫu nhiên mà dân gian thời ấy vẫn đồn câu: “Họ Ngô một bồ tiến sĩ”. Cụ Đan Nhạc Ngô Trân, cụ nội của Ngô Thì Nhậm, từng được coi là một trong “Trường An thất hổ” (bảy con hổ ở kinh thành Thăng Long) nhờ tài văn chương và đã dạy Ngô Thì Nhậm từ thuở ông còn để chỏm. Ông nội ông, thi sĩ Ngô Thì Ức, cũng được truyền tụng nhiều giai thoại nhờ hay chữ, 14 tuổi đã đỗ thứ hai kỳ thi Hương.

Cha ông, Ngô Thì Sĩ (1276-1780), ngoài việc được cụ Ngô Trân kèm cặp, còn được cho đi theo học những bậc danh gia ở Thăng Long và cuối cùng đã đỗ Tiến sĩ, làm quan khá lớn ở thời Lê - Trịnh. Ngô Thì Sĩ, như cha ông mình, nổi tiếng hay chữ, lại không thích a dua theo người đời và hay bị thiên hạ, nhất là đám đồng liêu kém tài hơn gièm pha. Hoạn lộ hơn 30 năm lăn lộn quan trường của Ngô Thì Sĩ vì thế lắm thăng trầm nhưng nhìn chung có thể coi là mỹ mãn. Tuy vậy, cho tới phút cuối cùng của đời mình, ông luôn giữ được cốt cách nghệ sĩ trội hơn phẩm hạnh công thần: thành đạt nhưng không hãnh tiến, tài cao nhưng không kiêu bạc...

Là con cháu của những bậc tiền bối như thế, Ngô Thì Nhậm trong tính cách và học vấn đã thừa kế được những nét tinh hoa cũng như những mâu thuẫn muôn đời của kẻ sĩ thời phong kiến. Ngay từ nhỏ, Ngô Thì Nhậm có thể được coi là một thần đồng. 11 tuổi, đã thông làu kinh truyện; 16 tuổi, đã viết được cả một sách nhan đề Nhị thập thất sử toát yếu. 21 tuổi đã soạn xong Tứ gia tuyết phả... Đỗ Tiến sĩ năm 30 tuổi (1775), ông đi làm quan nhưng vẫn không quên việc viết sách và đọc sách. Và cả dạy học nữa...

Về tính cách, Ngô Thì Nhậm thông minh nhưng không cậy tài mà xao lãng việc học hành, trái lại luôn rất cần cù dùi mài kinh sử. Ông biết cách để làm quan nhưng không sợ mất chức. Theo những tư liệu lịch sử còn lại từ thời đó, Ngô Thì Nhậm không chỉ văn hay thơ giỏi mà còn rất thông thạo việc quan trường. Ông biết tìm ra lối đi lên trong những rối rắm của cung đình thời Lê - Trịnh mà vẫn giữ được tấm lòng hướng thiện của mình.

Cha ông trong thư gửi cho ông đã khen: “Con ta lấy tài năng gặp được tao ngộ dị thường, lấy tâm cơ đáp ứng với ủy nhiệm khó khăn, lấy trung thành làm liều thuốc để gạt bỏ gian hiểm và làm tiêu khí lam chướng... Bậc đại trượng phu văn võ cùng đi đôi, bằng phẳng và hiểm trở coi là một: thật xứng đáng!”.

Ngô Thì Nhậm luôn nhạy bén với đời nhưng luôn biết cách tuân theo những tiêu chí của văn hóa truyền thống. Luôn hành xử theo kiểu kính trên nhường dưới nhưng ông cũng không ngại ngần “bùng nổ” khi gặp sự bất bằng. Nho nhã, điềm đạm nhưng cũng có khi ông trở nên bướng bỉnh tột cùng và sẵn sàng bất chấp tất cả để đi theo con đường mà ông cho là chính đạo. Trong Vi chí phú, Ngô Thì Nhậm viết: “Ta hãy yên tĩnh lòng ta, giữ điều ẩn ước của ta. Khi việc làm của ta thuận với mệnh trời, thì đem cả thiên hạ bắc lên cân, cũng không cho là lớn. Ta hãy giữ gìn thân ta, đi con đường rộng lớn của ta. Khi bước đi của ta hợp với “lý”, thì dù có xéo lên đuôi hổ cũng không sao cả!”.

Cách hành xử rất có cá tính của ông đã dẫn đời ông đi qua nhiều biến cố...

VỊ DÂN, KHÔNG VỊ DANH

Rất khó nói là Ngô Thì Nhậm có phải là một kẻ sĩ gặp thời hay không. Ông bước vào quan trường trong một giai đoạn quá phức tạp của lịch sử nước Việt. Cái hình thái triều chính vua Lê - chúa Trịnh đã làm phân tâm không ít trí thức và làm tăng thêm những thử thách không hẳn đã là cần thiết đối với họ, khi vua chính danh nhưng lại không thực quyền, còn chúa thực quyền nhưng lại vẫn phải “giả lễ chúa Mường” trước thiên hạ. Ngô Thì Nhậm đã hành xử theo đúng nhu cầu của đời sống, phò tá người mà lúc đó đang thật sự điều hành quốc gia. Mục tiêu của ông ngay từ thời trẻ đã rất rõ ràng: làm gì cũng phải vì quyền lợi thực chất của các “con dân”, chứ không phải giáo điều tuân thủ những tiêu chí cũ mốc và mang nặng tính đạo đức giả.

Ngô Thì Nhậm công khai bày tỏ lòng trung thành nhất mực với chúa Trịnh Sâm khi vị chúa này còn sáng suốt và còn đủ sức lo chuyện quốc gia đại sự. Ông làm được và ông nói được nên ông có thể công khai bày tỏ quan điểm của mình: “Làm người bề tôi... biết có thể làm được mà không làm, thế là bất trung. Đứng ở một triều có thể nói được mà lặng im không nói, thế là bất thành”. Lập danh, nhưng Ngô Thì Nhậm không mưu lợi cho cá nhân mình, dám nói lên những điều mà ông nhận thức được từ thực tế “cây đời mãi mãi xanh tươi” (chữ của Goethe), dù biết rằng thế là không vừa lòng người trên hay có thể phương hại tới những cá nhân nào đấy.

Ông trình lên chúa những thông tin xác thực nhất về nhân tâm trong thiên hạ và những gian khó của người dân. Ông phê phán những chủ trương sai không có lợi cho dân, cho thế nước. Ông công khai tố cáo những tham quan bất tài, lưu manh, chỉ biết nịnh trên mà thăng tiến. Và ông cũng biết cân nhắc chỗ đứng mà ông coi là đúng trong bàn cờ chính trị có quá nhiều dữ kiện của thời đại. Thái độ của ông ủng hộ Đặng Thị Huệ, nhìn theo con mắt hôm nay, là có thể hiểu được vì ông thực sự chỉ muốn giữ yên triều chính, kẻo thiên hạ đại loạn, nhân quần thêm phải lầm than. Trong hai cái dở, ông đã chọn cái ít dở hơn, chứ không phải ông xu thời.

Rồi khi anh hùng Nguyễn Huệ dấy cờ lên, Ngô Thì Nhậm khi nhận thấy đấy mới là minh chủ đích thực của mình, đã không ngần ngại đứng về phía nghĩa quân Tây Sơn, bất chấp mọi gièm pha, dị nghị từ tứ phía. Về sau, Ngô Thì Nhậm cho rằng, việc ông gặp được vua Quang Trung chính là mối lương duyên “kết nghĩa vườn đào”:

“Thiên tương anh kiệt kết đồng bào,
Thệ bả thâm tâm tố dữ đào.
Kha thúc thử phiên hương hỏa đính,
Khẳng giao thốn thổ hứa Tôn, Tào”
(Dịch nghĩa: Trời xui những người hào kiệt kết thành anh em ruột, Cùng nhau thề thốt, đem tấm lòng sâu giãi tỏ với cây đào. Ba anh em nặng lời đính ước lửa hương, Quyết không để cho một tấc đất lọt vào tay họ Tôn, họ Tào).

Ngô Thì Nhậm đã không lầm. Trong cõi trần thế, vua Quang Trung chính là bậc tri âm tri kỷ với ông. Dù từng rất được chúa Trịnh Sâm trọng dụng nhưng có lẽ hết đời Ngô Thì Nhậm cũng không thể nào quên được ơn tri ngộ đặc biệt mà vua Quang Trung đã dành cho ông khi người anh hùng áo vải đất Tây Sơn tuyên bố với quần thần: “Ngô Thì Nhậm vừa là bầy tôi, vừa là khách”. Ngay từ lúc mới “sơ kiến tân giao” thôi, Nguyễn Huệ đã giao nhiều trọng trách cho Ngô Thì Nhậm. Và Ngô Thì Nhậm đã không hề phụ ơn tri âm tri kỷ đó. 5 năm làm việc dưới quyền vua Quang Trung đủ để sáng danh chính nghĩa của Ngô Thì Nhậm tới muôn đời sau...

Ấy vậy cho nên sau khi vua Quang Trung băng hà, nhà Tây Sơn thất thế, Ngô Thì Nhậm đã không phò mới nới cũ theo nhà Nguyễn. Thái độ của ông trước Đặng Trần Thường trên sân Văn Miếu ngày 16/2 năm Quý Hợi (7/3/1803) thực sự là khẳng khái. Ông đã giễu cợt những đầu óc hủ bại chỉ biết nhìn sự đời ở cái vỏ bên ngoài mà không biết được những động cơ chân chính của một bậc chân quân tử: dù thế Chiến Quốc hay thế Xuân Thu nào nào đi chăng nữa, một trí thức đích thực cũng phải hành xử theo lợi ích của dân, của nước và khéo léo lướt trên những con sóng ba đào của thời thế tiến tới mục tiêu phụng sự non sông của mình. Trận đòn thù của người bạn học cũ đắc thế nhưng bất lực vì thua trí và khí hơn đã khiến Ngô Thì Nhậm suy sụp sức khỏe rất nhanh. Và ông đã qua đời sau đó không lâu.

CON THUYỀN ĐƠN LẺ

Cô châu (Con thuyền đơn lẻ ) là nhan đề một bài thơ mà Ngô Thì Nhậm viết hồi còn trai trẻ. Đấy là một lời thổ lộ vừa kiêu hãnh vừa đau đớn:

“Nhân nghĩa vị cao, trung tín đà,
Niên niên phiếm tác Đẩu quang xa.
Tiên nguyên bất dụng thiên tao phóng,
Phật hải hà phương nhất diệp qua...”
(Dịch nghĩa: Nhân nghĩa làm con sào, trung tín làm bánh lái, Đóng thành một chiếc bè, hàng năm giong lên vùng sao Đẩu. Tìm nguồn Tiên lọ phải thuyền nghìn chiếc, Qua biển Phật, chỉ cần một mái này).

Với người cùng thời, Ngô Thì Nhậm đã là một “cô châu”. Tuy nhiên, đánh giá về ông, chúng ta hôm nay chỉ có thể nói rằng, nhà văn hóa này có thể không thành công ở một số giai đoạn nhưng tựu trung vẫn là thành đạt đối với muôn đời. Và hơn thế nữa, ông luôn “thành nhân” trong bất cứ thời điểm nào của cuộc đời mình, bất luận những đồn đại lắm khi ác ý và tà ý của những người hay những triều đại thù địch với tư tưởng mà ông theo đuổi. Bởi lẽ, ông là người thức thời nhưng kiên định. Thức thời trong cách xử thế, kiên định trong việc đi tới mục tiêu chính nghĩa của đời mình.


Trần Hà
(antgct.cand.com.vn)
----------------------------------------------------------------
Trong lĩnh vực giáo dục, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc khi phân tích hai văn bản Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung là Chiếu cầu hiền và Chiếu khuyến học đã khẳng định: "Ông thuộc vào hàng ngũ nhân tài kiệt xuất, với cốt cách quân tử kẻ sỹ... mà dân ta tôn vinh, ghi nhớ đời đời, vận dụng vào cuộc sống làm cho dân cường nước thịnh"

Chiếu cầu hiền: "Khi trong nước có biến cố người hiền ở ẩn, không chịu xuất hiện. Trẫm tìm chưa ra. Nay đang buổi khó khăn, vận trời rối loạn, nhà vua có nhiều thiếu sót, biên cương đang lo khôi phục, nỗi đau khổ của dân chưa được hồi sinh, người quân tử phải ra mà sửa sang việc đời. Trẫm nghĩ một người không dựng nên cuộc thái bình. Thăm dò trong cõi, thế nào cũng có người kiệt xuất, vậy ban tờ Chiếu này để trăm họ ai có tài năng học thuật mưu chước hơn người thì dâng lên, hoặc tiến cử, trình kiến, tự dâng thư (Nói đúng thì nghe, nói không đúng thì không bắt tội) tùy tài sẽ sắp xếp công việc. Nay trời đất thanh bình là lúc hiền giả gặp gió mây, những người tài đức nên hăng hái ra thi thố trước sân vua một lòng kính cẩn cùng nhau hưởng phúc tôi vinh".

Chiếu khuyến học: "Xây dựng đất nước lấy việc học làm đầu, tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc. Sau thời loạn phải sửa sang và đẩy mạnh việc giáo hóa và đặt lại khoa cử. Đó là phương pháp lớn để chuyển loạn làm trị. Lên ngôi Vua tôn trọng nho học, quý mến kẻ sỹ, muốn được người có tài ba giúp nước. Lập tờ Chiếu này khuyên các nơi lập trường học, chọn nho sĩ có học hành tốt ra làm thầy giảng dạy rèn tập. Mỗi Phủ phải có Văn Miếu, có quan huấn đạo ... "

Dĩ học vi tiên - Dĩ tài vi bản (Lấy việc học làm đầu - Lấy việc tuyển mộ nhân tài làm gốc)
_ Ngô Thì Nhậm _ (1746 - 1803)

PGS.TS Đặng Quốc Bảo

Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số 34+35, tháng 11/2012
------------------------------------------------------------------------------
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NGÔ THÌ NHẬM
Gs.Ts. Trần Phúc Thăng
Hồ Chí Minh National Political Academy
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803).cho xã hội loạn lạc không phải do trời mà do các chính sách của triều đình gây ra. Trong xã hội, ông chú ý đến hai lực lượng cơ bản là dân và quan lại. Theo ông, dân là trung tâm của vũ trụ, của mối quan hệ trời – người. Ông nói: "Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển", "trong nước yên là nhờ ở được lòng dân". Để được lòng dân thì phải có các chính sách làm cho dân được "thỏa dạ" binh sĩ dược "vừa ý", phải bãi bỏ các chính sách gây ra tham nhũng làm cho dân điêu tàn.
Lực lượng thứ hai ông chú ý là hàng ngũ quan lại. Theo ông, quan lại phải là những người vừa có văn tức là có tri thức vừa có hạnh tức là có đạo đức.
Người có hạnh, theo ông là người sống trong sạch, biết liêm sỉ và có khí tiết. Đồng thời họ phải thức thời, nhạy cảm và phải dũng cảm để có những quyết định sáng suốt.
Mặc dù nhấn mạnh đến yêu cầu người làm quan phải biết liêm sỉ, nhưng Ngô Thì Nhậm đã có con mắt nhìn thực tế, không nói giáo lý một chiều theo kiểu Nho giáo. Theo ông, nguyên nhân của tình trạng thầy giảng dạy không tinh, đại thần xử phạt không công minh, quan lại không liêm khiết không phải chỉ là do đạo đức kém mà mấu chốt lại do sự thiếu thốn mà ra. Ông cho đó là điều khẩn cấp và "Nếu không nắm được mấu chốt, thì dù "trí" có thể biết được, nhưng "thế" không vươn tới được. Vì vậy, theo ông, "Điều mấu chốt là hãy đem cài tình trạng thiếu thốn và cái thực sự thiếu thốn mà nghiên cứu chỉnh lý lại đã. Đó là tâm pháp làm trị của muôn đời".
Quan điểm lấy việc làm cho dân được no đủ, quan lại được sung túc là công việc cơ bản, là một tư tưởng tiến bộ đã tiếp cận với các tư tưởng mới.
Ta hãy yên tĩnh lòng ta, giữ điều ẩn ước của ta. Khi việc làm của ta thuận với mệnh trời, thì đem cả thiên hạ bắc lên cân, cũng không cho là lớn. Ta hãy giữ gìn thân ta, đi con đường rộng lớn của ta. Khi bước đi của ta hợp với lý, thì dù có xéo lên đuôi hổ cũng không sao cả! 
_ Ngô Thì Nhậm _ (1746 - 1803)
-------------------------------------------------------------------------------------------------
MINH TRIẾT VIỆT VỀ GIÁO DỤC VÀ HỌC HÀNH

PGS.TS Đặng Quốc Bảo
Tạp chí Giáo dục Thủ đô số 31, tháng 8/2012

Giáo dục và học hành cho thế hệ trẻ vô luận ở đất nước nào cũng được xem trọng. Mỗi dân tộc có những tuyên ngôn, mỗi thời đại có những tuyên ngôn. Việt Nam là đất nước văn hiến. Dân tộc ta có những thông điệp đặc sắc ở lĩnh vực này. Có thông điệp trong tiếp biến văn hóa, ta lĩnh hội ý tưởng của nhân loại, của dân tộc khác rồi phát biểu cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước mình. Có thông điệp mang dấu ấn Việt, thể hiện quan điểm sống nhân văn và thực tiễn trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Nhìn tổng quát các thông điệp ở lĩnh vực này của người Việt đều hướng vào việc khuyên thế hệ trẻ tu thân tốt và xử thế khéo. Thông điệp có trong kho tàng ca dao tục ngữ và có từ các lời phát biểu của các nhà văn hóa chính trị xuất sắc của đất nước. Cách nói của người Việt ngắn gọn về câu chữ song lại hàm xúc về ý tưởng và chỉ dẫn hành động. Các thông điệp tạo nên Minh triết Việt về giáo dục & học hành đặc sắc.

Chúng tôi xin trình bày một số tìm hiểu bước đầu về những thông điệp này:

1. Dĩ học vi tiên – Dĩ tài vi bản:

Thông điệp này được vua Quang Trung nêu ra sau khi đại phá quân Thanh lên ngôi Hoàng đế (1789).

Trong chiếu khuyến học có ghi “Xây dựng đất nước lấy việc học làm đầu; tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc”(tìm lẽ trị bình là tìm quy luật làm cho đất nước hưng trị, thiên hạ thái bình). Khi truyền về các cộng đồng, lời văn trên được cô lại thành 8 từ: “Dĩ học vi tiên -Dĩ tài vi bản”khắc vào các bức hoành phi treo tại các đình làng.

Cần nhấn mạnh rằng ý tưởng tôn trọng hiền tài đã được Đại Việt xác định từ ba thế kỷ trước đó. Lê Thánh Tông, vị minh quân triều Lê (1442 – 1497) qua danh thần Thân Nhân Trung (1418 – 1499) nêu tuyên ngôn sau và khắc vào bia đặt tại Quốc Tử Giám – Văn Miếu:

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường
Nguyên khí suy thì thế nước hèn”

Trong cuộc hội nhập với thế giới ở thế kỷ XX dòng chảy văn hóa này được phát triển sâu sắc, phong phú hơn.

Cuộc Duy tân giáo dục 1905 ở Quảng Nam được nhà cách mạng Phan Châu Trinh nêu thành tuyên ngôn.
“Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh”

Dân trí được Cụ Phan và những người đồng chí của mình coi là nền móng xây dựng xã hội dân chủ, chấn hưng dân khí rồi từ đó thực hiện cải thiện dân sinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khai sáng cho dân tộc con đường giáo dục cách mạng ngay sau ngày 2/9/1945 đã có những lời dạy làm phấn khích toàn dân tộc. Người nói:
- Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu (9/1945)
- Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm (9/1945)
- Dân cường thì nước thịnh (3/1946)
- Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thông thái (10/1946)
Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người (9/1958)

Bước vào thời kỳ đổi mới, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”

Những văn bản chính sách của Đảng và Nhà nước đã khẳng định luận điểm “Nâng cao dân trí -Đào tạo nhân lực – Bồi dưỡng nhân tài”. Dân trí được xem là yếu tố then chốt cấu thành nhân cách mỗi con người, nhân cách dân tộc, tạo thành bệ phóng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao và đội ngũ người tài đức của đất nước.

Người Việt quan niệm: cái cốt lõi của nhân cách là “sống có tình – có nghĩa" (Hồ Chí Minh) – sống có tấm lòng và trách nhiệm. Và con đường phát triển nhân cách được đặt trên cái kiềng ba chân: Tu thân – Xử thế và Dưỡng sinh. (Nguyễn Khắc Viện)


2. Học ăn – Học nói – Học gói – Học mở

Buổi giao thời hai thế kỷ XX, XXI, trên thế giới quảng bá “Bốn trụ cột của việc học” do Jacques Delors đề xuất.

Người Việt từ bao đời nay đã giáo dục cho con em mình một bộ bốn của việc học qua câu tục ngữ:“Học ăn – Học nói – Học gói – Học mở”

Học ăn hiểu theo nghĩa rộng là học cách lĩnh hội.
Học nói hiểu theo nghĩa rộng là học cách diễn đạt.
Học mở hiểu theo nghĩa rộng là học cách khai triển.
Học gói hiểu theo nghĩa rộng là học cách kết thúc.

Cuộc sống theo dòng chảy thường nhật và ngày nay trong cuộc hội nhập sâu với thời đại thì bốn điều trên càng quan trọng với phát triển nhân cách. Ngẫm ra từ đứa trẻ lên ba đến cụ già, từ người bình thường đến cán bộ cao cấp đều phải có sự nghiêm cẩn: “Học ăn – Học nói – Học gói – Học mở”.

Bác Hồ có tới hai lần trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (viết năm 1947) khuyên cán bộ phải chú ý tới bốn việc học trên. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong tác phẩm “Về giáo dục và đào tạo” (viết năm 2000) đã nhấn mạnh tầm quan trọng về dạy cho học sinh – sinh viên “Học ăn – Học nói – Học gói – Học mở” khi đất nước bước vào cuộc đổi mới.

3. “Nên thợ nên thày vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm”

Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn của Việt Nam Nguyễn Trãi (1380-1442) đã có thông điệp trên đây.

Như vậy là ý tưởng xây dựng một nền giáo dục lao động gắn "Học - Làm" tôn vinh "Người thợ - Người thày" đã được Nhà khai sáng đạo Nho Việt truyền bá trong đời sống dân tộc từ thế kỷ XV.

Trong “Quốc âm thi tập” (bài XXIII) Nguyễn Trãi còn nhắc nhở:

“Có đức thì hơn nửa có tài”
“Tích đức cho con hơn tích của
Đua lành cùng thế mượn đua khôn”

Đáng tiếc là về sau Đạo Nho ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của Tống Nho đã đi vào từ chương khoa cử khi nhấn mạnh:

“Vạn ban giai hạ phẩm
Duy hữu độc thư cao”
(mọi công việc đều tầm thường, chỉ đọc sách là cao quý)

Tuy nhiên cuối thế kỷ thứ XIX, một số nhà Nho tiến bộ đã nhận ra sự tiêu cực của xu hướng này, họ hô hào canh tân việc học, lấy thực học thực nghiệp làm trọng.

Nguyễn Tư Giản (1823-1890), Hoàng Giáp, Thượng thư Bộ Lại thời Tự Đức đã phát biểu: kẻ sĩ cũng phải tham gia vào việc đồng áng, bởi vì “ngồi mà ăn không là xấu”, “ngồi không làm lụng thì chân tay lười biếng, thân thể bạc nhược”, “nhà trường không chỉ dạy cho người ta hư văn mà phải cung cấp cái học hữu dụng, phải vừa học vừa biết làm việc, kết hợp “Tri và Hành”.

Nguyễn Trường Tộ (1830-1874), viết: “Học là gì, học là học cái chưa biết để mà biết. Biết để mà làm việc. Làm tức là làm công việc thực tế trong nước hiện nay và để hữu dụng cho đời sau mãi mãi”.

Bước vào nền giáo dục cách mạng, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước ta đã xây dựng được nguyên lý giáo dục theo phương châm:

•Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất
•Học đi đôi với hành
•Lý luận gắn liền với đời sống thực tế.

Bác Hồ lấy ý tưởng: Bác học, Thâm vấn, Thận tư, Minh biện, Đốc hành nêu thành phương châm 4H:“Học – Hỏi – Hiểu – Hành”.

Người nhấn mạnh:
“Học với hành phải đi đôi
Học mà không hành thì học vô ích
Hành mà không học thì hành không trôi chảy”

Người yêu cầu thế hệ trẻ phải phấn đấu có Tri thức hoàn toàn. Người dạy:

“Một người học xong đại học có thể gọi là có tri thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm những việc khác. Nói tóm lại công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách chứ không phải là tri thức hoàn toàn. Y muốn thành người tri thức hoàn toàn thì phải đem tri thức đó áp dụng vào thực tế”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 235)

Trong bút tích ghi ở trang đầu Sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc – nay là Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, ngay từ tháng 9/1949, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học để làm việc, làm người ... ”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 684)

Bốn trụ cột của việc học mà Jacques Delors nêu ra khi nhân loại bước vào Thế kỷ XXI, bao gồm: “học để biết, để làm, để chung sống, để làm người” đã được thể hiện trong dòng chảy Minh triết Giáo dục Việt.

4. “Cái nợ khác có thể trả được
Cái nợ “Học” là cái nợ chung thân”

Ông Thượng Chi (1892 – 1945), một nhà văn hóa Việt xuất sắc đã có lời bàn trên từ những thập niên đầu của thế kỷ XX.

Ở bối cảnh hiện nay đọc lời văn của ông càng gợi cho ta nhiều cảm xúc. Điều ông nói có trong thông điệp “Học suốt đời”.

Sinh ra và sống ở trên đời, mỗi người đều có “Nợ đời”. Muốn làm người xứng đáng với đời thì phải học để trả món nợ này. Chính vì vậy "cái nợ học là cái nợ chung thân".

Minh triết sống phương Đông thường căn dặn con em bốn điều: “Tu – Tề - Trị - Bình” (tu dưỡng bản thân, lo liệu cho gia đình yên vui phát đạt, biết hành động góp phần làm cho đất nước hưng trị, thiên hạ thái bình).

Để làm được bốn điều trên thì phải “Học”.

Trên một số sách báo khoa học giáo dục nước ta hiện nay có thông điệp: “Giáo dục thường xuyên – Đào tạo liên tục – Học tập suốt đời”. Thông điệp có hàm ý yêu cầu con người không ngừng làm cho bộ ba: “con tim, đôi tay, bộ óc” được hoàn thiện để thích ứng với dòng chảy cuộc sống đang phát triển mạnh mẽ. Học tập suốt đời vừa hiểu theo nghĩa trực diện cho bản thân, vừa hiểu theo nghĩa rộng. Đó là quá trình để con hơn cha là nhà có phúc (Lời dạy của Bác Hồ- 1961).

5. “Học đi chỉ có một năm,
Học dừng học đến mòn răng chưa thành”

Đây là câu ca dao mà bà mẹ Việt Nam ru con từ lúc nằm nôi. Các nhà nho dạy kẻ sĩ “Tri túc bất nhục – Tri chỉ bất đãi” (biết đủ chẳng nhục, biết dừng chẳng nguy). Ứng xử hiện đại thường yêu cầu con người “Tri độ”, “Tri giới hạn”. Tất cả các điều nêu trên đều có hàm ý khuyên con người biết chừng mực, biết tiết độ trong cuộc sống.

Con người vốn mang ba đặc trưng xấu: “Tham – Sân – Si”. Cuộc sống tiêu thụ hiện đại càng có chiều hướng đẩy con người từ tham vọng đến tham bạo. Lời ru con của bà mẹ Việt Nam như một lời nhắn nhủ sâu sắc: "Học đi" là cần, song có phần nào dễ hơn "Học dừng". Đây là công việc học cả đời mà chưa chắc đã trọn vẹn. "Dừng" không phải là “đứng yên lại”. Đó là lúc tìm một khoảng tĩnh lặng chuẩn bị bước tiến xa hơn, mạnh hơn.

Tiếp thu lời khuyên: “Thái quá là dở mà bất cập thì cũng chẳng hay gì!”, trước cuộc sống tiêu thụ hiện nay, người Việt nhắc nhở chính khách: chớ có tăng trưởng GDP vô độ, một sự “tăng trưởng” làm mất tương lai, sự tăng trưởng mà “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Còn ở gia đình người Việt khuyên sự ứng xử:

"Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê"

6. Đại học chi đạo – Tại minh minh đức– Tại thân dân

Ngày 21/7/1956 đến nói chuyện với tri thức Thủ đô tham gia một khóa huấn luyện chính trị, Bác Hồ có lời tâm tình: Theo ý riêng tôi thì hạt nhân ấy (hạt nhân của việc tu dưỡng) có thể tóm tắt trong 11 chữ “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”. Bác nói thêm:“Nói tóm lại, minh minh đức tức là chính tâm. Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân lên trên hết. Nói một cách khác tức là :

“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
(Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ)
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, trang 215

Bác Hồ đã lấy ý “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân” trong sách “Đại học” để nói câu trên (Con đường học rộng lớn, đi trên con đường này phải có đức sáng và lý tưởng đổi mới).

Tân dân bằng việc làm mới nhân dân là một ý tưởng tích cực của Nho gia. Cái tài tình của Hồ Chí Minh là thêm một chữ “H” vào từ “Tân” thành “Thân” đã làm cho thông điệp được "Việt nam hóa" biểu thị lẽ sống của dân tộc trong thời đại mới.

“Thân dân”: đem bản thân mình phục vụ nhân dân, tạo cho thông điệp nhân văn hơn, đằm thắm hơn. Có thể nói mục tiêu “Phục vụ nhân dân” là nguyên tắc cốt lõi vĩnh hằng của việc học mà Bác Hồ nhắn nhủ thế hệ trẻ.

(hanoi.edu.vn)
----------------------------------------------------------------------------------
NHỮNG DI SẢN TƯ TƯỞNG VÔ GIÁ CHO SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN GIÁO DỤC ĐẤT NƯỚC

PGS.TS Đặng Quốc Bảo
Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số 34+35, tháng 11/2012

Có một lớp các nhà nho Việt ưu tú đã để lại dấu ấn tư tưởng rất có giá trị cho sự phát triển lý luận giáo dục của dân tộc suốt chiều dài lịch sử. Trong số đó quê hương Hà Nội tự hào có ba vị tiêu biểu là Chu Văn An (T.kỷ 13), Nguyễn Trãi (T.kỷ 15), Ngô Thì Nhậm (T.kỷ 18). Bài viết này xin tổng thuật một số ý tưởng giáo dục của ba nhà văn hóa trên mà giá trị nội dung còn sống động và cần thiết cho cuộc đổi mới hôm nay.

1. Chu Văn An (1292 - 1370)

Tên thật là Chu An, tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn là nhà giáo, thầy thuốc, đại quan vương triều Trần. Ông được coi là người đầu tiên đóng dấu son nổi bật cho nền giáo dục đất nước .

Chu Văn An quê ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Nay là thôn Văn, xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Là người chính trực, từng đỗ Thái học sinh (như tiến sĩ ngày nay), nhưng ông không ra làm quan mà mở trường dạy học ở Hoàng Cung bên cạnh dòng Tô lịch.

Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) biết tiếng ông thanh liêm vời ông ra giúp, bổ nhiệm ông giữ chức Tư nghiệp Quốc tử giám (như Hiệu trưởng trường đại học), giao cho ông dạy dỗ thái tử Trần Vượng (sau này là vua Trần Hiến Tông).

Thời gian đảm nhiệm chức trách Tư nghiệp Quốc tử giám, ông soạn sách "Tứ thư thuyết ước", tóm tắt tinh hoa các sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung để dạy cho môn sinh. Quan điểm của ông tóm tắt trong 8 chữ: "Cùng lý, Chính tâm, Trừ tà, Cự bế", chú trọng sự thực hành đối với giáo lý của Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Ông đào tạo được rất nhiều học trò, có tài liệu nói đạt tới ba ngàn người, trong đó có một số môn sinh có tài đức cao như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.

Đời vua Trần Dụ Tông (1341 - 1368) thấy bọn gian thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng sớ lên nhà vua xin chém 7 tên (thường gọi là thất trảm sớ), vua không chấp nhận, ông từ quan về núi Phượng Hoàng (Chí Linh - Hải Dương) dạy học, viết sách.

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Tuy ở núi Chí Linh song ông vẫn quan tâm việc ở triều. Những dịp lễ trọng, ông đều về dự. Dụ Tông đem chính sự giao cho ông, ông từ chối. Thái hậu Bảo Từ nói về ông: "Đó là bậc cao hiền, giữ mình trong sạch, dẫu là thiên tử cũng không thể khuất phục được ông khi bắt ông làm việc trái đạo lý". Vua đem của cải ban cho ông, ông lạy tạ xong đem cho người khác.

Khi mất (1370) ông được vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) ban tên thụy là Văn Trinh, hiệu là Khang Tiết đưa vào thờ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám cùng với Chu Công, Khổng Tử.

Câu đối thờ ông trong văn bia của Quốc Tử Giám có ghi:
"Trần văn thử hà thời, Dục vong đại phi hiền giả lạc.
Phượng sơn tồn ẩn sứ, Trí lưu trường ngưỡng triết nhân phong"
(Cuối đời Trần là đời nào mà có người hiền giả chỉ ham ngâm vịnh ... Núi Phượng hoàng vẫn còn dấu vết Người ở ẩn, đỉnh non mãi mãi ngưỡng mộ phong thái triết nhân).

Ngoài bộ sách "Tứ thư thuyết ước", khi dạy học ở Chí Linh ông còn soạn tập thơ chữ hán "Tiều ẩn thi tập" và tập thơ chữ việt "Quốc ngữ thi tập" (Tập này sau bị quân Minh lấy đem về Tàu).

Trong tác phẩm của mình, Chu Văn An nhấn mạnh trách nhiệm của nhà giáo dục: "Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người. Công đức tới đâu ân huệ để lại cho đời sau đến đấy, đều là phận sự của nhà nho chúng ta".

Chu Văn An được dân tộc coi là Sư biểu cho các thế hệ giáo giới Việt Nam. Hà Nội nơi ông sinh, thờ ông trong Văn Miếu. Chí Linh, Hải Dương nơi ông mất lập đền thờ ông rất trang trọng.

Hàng năm vào ngày khai giảng bế giảng, đặc biệt các dịp trọng lễ, ngày 20/11 (ngày Nhà giáo Việt Nam) ở nước ta có một truyền thống đẹp: Các đoàn đại biểu giáo dục từ nhiều miền của đất nước đến thắp hương tưởng niệm ông hoặc ở Văn Miếu hoặc ở Chí Linh. Họ hứa với ông phấn đấu trở thành "Sư hinh" (người thày giáo cao quý) người công dân xứng đáng cho đất nước..

2. Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

Ông là Anh hùng dân tộc. UNESCO (Tổ chức Văn hóa khoa học của Liên hiệp quốc) trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông (1980) đã tôn vinh ông là Danh nhân văn hóa thế giới.

Ông có hiệu Ức Trai, là cháu ngoại quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, tôn thất nhà Trần, con danh sĩ Nguyễn Phi Khanh, quê làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay là thôn Nhị Khê, xã Quốc Tuấn, huyện Thường Tín, Hà Nội.

Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh năm Canh thìn 1400 đời nhà Hồ lúc ông mới 20 tuổi, được bổ chức Ngự sử đài chánh chương, cùng làm quan với cha là Nguyễn Phi Khanh tại triều có chức Hàn lâm học sỹ.

Năm Đinh Hợi (1407) nhà Minh cướp nước ta, cha ông bị chúng bắt giải về Kim Lăng. Ông tiễn cha đến tận Nam quan. Phi Khanh khuyên ông về lo việc báo thù cha, rửa hận nước. Ông vâng lời trở về, song bị giặc Minh bắt giam lỏng ở Đông Quan (bây giờ là khu vực nội thành Hà Nội).

Năm 1418, ông cùng Trần Nguyên Hãn trốn được khỏi Đông Quan vào Lam Sơn dâng kế sách bình Ngô lên Lê Lợi.

Suốt 10 năm kháng chiến chống giặc Minh, Nguyễn Trãi là nhà tham mưu chiến lược cho Lê Lợi về quân sự và ngoại giao, góp phần quyết định thành công cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.

Năm Mậu Thân 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan phục hầu, cho theo họ vua có tên là Lê Trãi, rất tin dùng ông. Tuy vậy sau khi Lê Lợi mất, bọn gian thần trong triều ghen ghét gièm pha ông, nên ông cáo quan về ẩn dật ở Côn Sơn, phải đợi đến khi Lê Thái Tông giết được Lê Sát (1442) vời ông ra giúp việc chính trị, ông mới trở lại triều đình. Nhưng không bao lâu xẩy ra vụ Lệ chi viên, Lê Thái Tông đột tử, bè đảng Lê Sát còn ở triều nhân cớ này ghép ông tội giết vua, tống ngục rồi thực hiện việc chu di tam tộc (16/8 Nhâm Tuất - 19/9/1442).

Khi Lê Tư Thành lên ngôi (1460) nỗi oan khuất của ông mới được giải. Lê Thánh Tông ví Ông "Tâm sáng như sao Khuê” (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo).

Khi cuộc kháng chiến chống Minh thành công, Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao cho soạn "Bình Ngô đại cáo". Đây là áng hùng văn thiên cổ nêu tuyên ngôn chính trị của Đại Việt, chan chứa lòng tự hào dân tộc và tính nhân văn hiếu sinh sâu sắc.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước vốn xưng nền văn hiến đã lâu ..."

Ngoài "Bình Ngô đại cáo", ông đã sáng tác nhiều tác phẩm giá trị như "Dư địa chí", "Quốc âm thi tập", "Toàn tập tân biên".

Trong "Toàn tập tân biên", Nguyễn Trãi soạn quốc sách cho Lê Thái Tổ tuyển mộ người hiền tài xây dựng đất nước lúc hòa bình.

"Vậy hạ lệnh các cấp mỗi người đều cử một người ... Có tài văn võ thì Trẫm sẽ tùy tài trao chức ... Tiến hiền thì được trọng thưởng ... Nếu cử được người tài đức hơn người tất được trọng thưởng. Chiếu này ban ra ... các quan đều phải tiến cử được người hiền tài ".

Quốc âm thi tập là tác phẩm quan trọng của Nguyễn Trãi về mặt văn chương. Trong tác phẩm này chứa đựng nhiều ý tưởng giá trị về giáo dục. Tiêu biểu là hai câu:

"Nên thợ, nên thày vì có học
No ăn, no mặc bởi hay làm"
(Bài số 173 trong Quốc âm thi tập)

Hai câu này định hướng chính sách kinh tế giáo dục của quốc gia quan triết tư tưởng vương đạo vô luận ở hoàn cảnh nào.

3. Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)

Ngô Thì Nhậm là con cả của Ngô Thì Sỹ, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, sinh ngày 9/11 Bính dần (25/10/1746), quê làng Tó, Thanh Trì, Hà Đông, nay là phố Triều Khúc, quậnThanh Xuân, Hà Nội.

Thuở nhỏ rất thông minh và có chí, được cụ nội, ông nội và cha dạy dỗ một cách nghiêm cẩn nên học vấn vững vàng sớm có hoài bão lớn.

Ông đỗ Giải nguyên năm 23 tuổi, đỗ Sỹ vọng năm 24 tuổi được bổ quan, nhưng vì cha mất sớm nên ông xin nghỉ quan cư tang ở nhà. Năm 29 tuổi ông đỗ Tiến sỹ được bổ chức Hộ khoa cấp sự trung (một chức làm nhiệm vụ tra xét công việc sai trái của các Bộ Hộ) năm sau được thăng làm giám sát Ngự sử Sơn nam (một chức quan kiểm tra việc thuế khóa chi tiêu) rồi thăng Đốc đồng Kinh Bắc - Thái nguyên (chức quan xét việc tố tụng). Năm 1779, Ngô Thì Nhậm được triệu về kinh phong chức Đông các hiệu thư (Làm nhiệm vụ hiệu đính các văn từ sách vở).

Cuộc đời quan trường như vậy tạo cho ông một sự hiểu biết khá rộng về thực tiễn. Tuy nhiên sau vụ án Canh Tý (Trịnh Tông lật Trịnh Cán) rồi loạn kiêu binh, ông phải tránh về Sơn Nam để tránh rắc rối ở triều đình.

Năm 1786, Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất dẹp họ Trịnh lấy lại quyền hành cho vua Lê, ông được triều đình vời về kinh giữ chức Đô cấp sự trung bộ Hộ rồi thăng Hiệu thư kiêm toàn tu Quốc sử.

Năm 1788, Tây Sơn ra Bắc lần thứ 2, Lê Chiêu Thống bỏ chạy, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ tiến cử với Nguyễn Huệ. Vị lãnh tụ này cảm nhận được tài năng của Ngô Thì Nhậm đã yêu mến trọng dụng ông phong chức Công bộ thị lang tước Trình phái hầu.

Cuối năm 1788 khi quân Thanh xâm chiếm nước ta, Ngô Thì Nhậm có công lớn trong việc tham mưu giúp Quang Trung đại phá quân Thanh làm nên chiến công hiển hách mùa xuân Kỷ Dậu (1789).

Năm 1790, ông được Quang Trung cử giữ chức Binh bộ thượng thư kiêm chức Tổng tài quốc sử quán, hoạch định đường lối kinh tế giáo dục cho đất nước vượt các khó khăn sau bao năm ly loạn.

Sau khi Quang Trung mất (ngày 29/4 nhuận năm Nhâm Tý 1792), chính sự nhà Tây Sơn suy đồi, triều đình rối ren. Ngô Thì Nhậm rất buồn, nhưng biết mình không thể xoay chuyển được. Năm 1796, ông cáo quan lui về quê nhà lập thiền viện nghiên cứu và dạy học, giữ khí tiết nhà nho.

Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh thắng Quang Toản lên ngôi Gia Long. Nhà Nguyễn đã tiến hành một cuộc khủng bố trả thù dã man dòng họ Tây Sơn và những người phục vụ cho triều đình Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm dù không làm việc tại triều vẫn bị Gia Long tị hiềm để ý.

Năm 1803 khi ra Bắc, Gia Long bắt Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích (em rể ông) đến tra xét ở nơi hành tại, hạch tội hai ông đã giúp Quang Trung, sai quân đánh đòn ở Văn miếu. Với Ngô Thì Nhậm, Gia Long ngầm sai đánh tàn nhẫn thành phế nhân rồi đuổi về nhà. Ít ngày sau ông mất (Ngày 16/2 Quý Hợi - 9/3/1803) hưởng dương 57 tuổi.

Trong lĩnh vực giáo dục, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc khi phân tích hai văn bản ông soạn thảo cho Quang Trung là Chiếu cầu hiền và Chiếu khuyến học đã khẳng định: "Ông thuộc vào hàng ngũ nhân tài kiệt xuất, với cốt cách quân tử kẻ sỹ... mà dân ta tôn vinh, ghi nhớ đời đời, vận dụng vào cuộc sống làm cho dân cường nước thịnh"

Chiếu cầu hiền: "Khi trong nước có biến cố người hiền ở ẩn, không chịu xuất hiện. Trẫm tìm chưa ra. Nay đang buổi khó khăn, vận trời rối loạn, nhà vua có nhiều thiếu sót, biên cương đang lo khôi phục, nỗi đau khổ của dân chưa được hồi sinh, người quân tử phải ra mà sửa sang việc đời. Trẫm nghĩ một người không dựng nên cuộc thái bình. Thăm dò trong cõi, thế nào cũng có người kiệt xuất, vậy ban tờ Chiếu này để trăm họ ai có tài năng học thuật mưu chước hơn người thì dâng lên, hoặc tiến cử, trình kiến, tự dâng thư (Nói đúng thì nghe, nói không đúng thì không bắt tội) tùy tài sẽ sắp xếp công việc. Nay trời đất thanh bình là lúc hiền giả gặp gió mây, những người tài đức nên hăng hái ra thi thố trước sân vua một lòng kính cẩn cùng nhau hưởng phúc tôi vinh".

Chiếu khuyến học: "Xây dựng đất nước lấy việc học làm đầu, tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc. Sau thời loạn phải sửa sang và đẩy mạnh việc giáo hóa và đặt lại khoa cử. Đó là phương pháp lớn để chuyển loạn làm trị. Lên ngôi Vua tôn trọng nho học, quý mến kẻ sỹ, muốn được người có tài ba giúp nước. Lập tờ Chiếu này khuyên các nơi lập trường học, chọn nho sĩ có học hành tốt ra làm thầy giảng dạy rèn tập. Mỗi Phủ phải có Văn Miếu, có quan huấn đạo ... "

Chiếu khuyến học dưới thời Quang Trung được phổ biến về mọi làng xã. Thuở ấy các đình làng đều treo hoành phi có nội dung cô lại thành tám chữ:

"Dĩ học vi tiên - Dĩ tài vi bản"
(Lấy việc học làm đầu - Lấy việc tuyển mộ nhân tài làm gốc).

(hanoi.edu.vn)
------------------------------------------------------------------------------------
MỘT SỐ CÂU NÓI CỦA LÊ QUÝ ĐÔN

- Giữ đời sống bình thường không gì bằng tiêu dùng sẻn nhặt.

- Bồi dưỡng sinh lực không gì bằng ít dục tình.

- Sau khi uống rượu nên giữ gìn lời nói; đương lúc ăn nên ngậm lòng giận dỗi; nhịn những việc khó có thể nhịn được; hòa thuận với người không hòa thuận; ăn uống không có tiết độ là căn do mắc bệnh; tư tưởng không đúng đắn là nguồn gốc hại mình; bệnh tật từ miệng vào, họa hoạn từ miệng nói ra; nhún mình có thể theo được mọi người; hiếu thắng tất gặp địch thủ; bủn xỉn quá tất hao phí lớn, tích trữ nhiều tất mất mát to; cẩn thận thì không lo, nhẫn nại thì không nhục; tĩnh dưỡng thì thường được yên, sẻn nhặt thì thường được đủ.

- Càng thu lượm lẽ phải thì càng đầy đủ, càng tế nhị tư tưởng thì càng rộng lớn, càng sâu dày bao nhiêu thì càng cao sang bấy nhiêu.

- Mọi việc không khắc trách ở người khác, thì dẫu giá lạnh lửa bỏng cũng không rối loạn lòng ta.

- Nói nhiều, nhiều việc hỏng; việc nhiều, phải nghĩ nhiều; giữ được lòng giản dị thì lòng tự yên, biết được hạn định của mình thì lòng tự đầy đủ.

- Không để tâm bới vẽ sự việc thì không có việc gì bận rộn trong lòng, cho nên trong lòng tĩnh mịch thì sinh sáng suốt, trong lòng náo động thì sinh tối tăm.

- Người lái buôn gian dối làm rối loạn thị trường; người nông phu lười biếng, làm hỏng cả ruộng đất; người độc phu tàn tạo làm nhiễu loạn cả nước; con ngựa ốm yếu làm nhơ nhuốc cả đàn.

- Làm giàu không sẻn nhặt, lúc nghèo phải hối hận; lúc thấy việc không học hỏi, lúc thi thố mới hối hận; lúc say bói dại dột, lúc tỉnh phải hối hận; lúc bình thường không nghỉ ngơi, lúc có bệnh mới hối hận.

- Người khinh suất lời nói, tất nhiên lời nói kém phần tin chắc; người tâng bốc thạo tất nhiên chê bai cũng thạo; việc không nên làm hết, quyền thế không nên dùng hết, lời nói không nên nói hết; phúc trạch không nên hưởng hết.

- Người nào nói ta xấu, đấy là thầy ta; người nào khen ta hay, đấy là thù địch của ta.

- Chỗ bất cập của người khác, ta nên lượng tình mà tha thứ; chỗ thiếu sót của ta, ta nên dùng lý lẽ mà nghiêm trách.

- Dạy con phải dạy cho có nghề nghiệp thường thì không đến nỗi lưu ly thất sở.

- Trong bụng cần phải từ bi, công việc cần phải phương tiện. Những sự tàn nhẫn khắc bạc, chỉ gây mối oán hận với người ngoài.

- Việc gì không can thiệp đến mình, dầu mảy may cũng không lý hội đến. Rượu ngon, sắc đẹp, của cải, tức khí, bốn điểm này cần phải kiêng kị, vì có thể làm hại đến bản thân…

“Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, lại được giao du với nhiều bậc hiền sĩ đại phu, thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt Bắc sang sứ Trung Quốc, mặt Tây bình định Ai Lao, mặt Nam trấn thủ Thuận - Quảng, đi đến đâu cũng để ý tìm tòi, phàm việc gì mắt thấy tai nghe, đều dùng hiểu biết để ghi chép, lại phụ thêm lời bình sơ qua, giao tiểu đồng đựng vào túi sách, lâu ngày tích tập, sau mới chép lại thành phiên…”. Ông thường thích nhắc lại lời của Vương Hy Chi thời nhà Tấn: “Đọc sách mà tìm được một nghĩa cũng như được một thuyền hạt ngọc”…

Lê Quý Đôn dẫn lời của Tôn Huệ nhà Tần: “Danh vị lớn không nên đeo lấy mãi, công việc lớn không nên gánh vác mãi, quyền thế lớn không nên giữ mãi, uy vọng lớn không nên bám lấy mãi”. Ông cũng cảnh báo những hậu họa của cảnh đời phú quý bằng cách dẫn lời của Ngũ Dung Am để tôn vinh những tiền lệ tốt: “Gia đình nhà tấn thân (tức là quan lại - LHV), tì thiếp nhiều, đủ cung cấp về sự say mê sắc dục, mà không đủ để làm nguồn gốc bồi dưỡng sinh mệnh thọ trường; tôi tớ nhiều, đủ để khoe khoang về uy thế, mà không đủ để làm phúc trạch dưỡng sinh; ruộng nhà nhiều, đủ để chơi bời xa xỉ, mà không đủ để ngăn được nhà quyền thế chiếm đoạt. Cho nên người vợ xấu của Vũ Hầu, con ngựa què của Kinh Công, viên tướng quốc họ Tiêu làm nhà không sửa sang tường nóc. Xét đến hành vi của triết nhân ngày trước, không điều gì là không đáng làm khuôn phép. Vậy thì tất cả những người quân tử, sao không theo khuôn phép ấy?”.

Theo Lê Quý Đôn, bài châm sau đây của cổ nhân cần được mỗi người trong chúng ta luôn để cạnh chỗ ngồi: “Uống rượu ít, ăn cháo nhiều; ăn rau nhiều, ăn thịt ít; ít khi mở miệng, nhiều khi nhắm mắt; ít khi ở chung, nhiều khi nằm riêng; chứa nhiều sách cổ, ít chứa hạt ngọc; cầu danh ít, nhẫn nhục nhiều; làm điều lành nhiều, cầu lợi lộc ít”…

Ông cũng từng dẫn lời Thôi Viện nhà Hậu Hán với tư cách bài minh để cạnh chỗ ngồi: “Đừng nói điều sở đoản của người khác, đừng khoe điều sở trường của mình, làm ơn cho ai đừng để bụng, chịu ơn của ai đừng có quên, đừng ham mê lời khen của thế tục, chỉ lấy điều nhân làm mối giềng, suy nghĩ kỹ rồi sau sẽ hành động, dù lời nói chê bai dị nghị cũng không hại gì, đừng để cho tiếng khen quá sự thực, giữ mình như người vụng dại, thánh nhân lại lấy làm hay; mềm dẻo là con đường sống, Lão Tử răn người cương cường: ở chỗ đen mà không thấm màu đen, bên ngoài như mờ tối mà bên trong bao hàm đức sáng suốt; cẩn thận lời nói, tiết độ ăn uống, tự biết phận đã đầy đủ thì có thể thắng được sự không lành…”.

Có 5 nguy cơ mất nước nếu không ngăn chặn được, đó là:
_ Trẻ không kính già
_ Trò không kính thầy
_ Binh kiêu tướng thoái
_ Tham nhũng tràn lan
_ Sĩ phu ngoảnh mặt
  _Lê Qúy Đôn _

Lưu Hùng Văn
(antgct.cand.com.vn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét