Trong 40 năm qua, những kẻ có liên quan đến cái chết của Che lần lượt qua đời. Đó là "báo ứng".
Sau sự hy sinh của người anh hùng Ernesto Che Guevara, những người da đỏ Bolivia gọi ông là đấng thần linh, người đã ban cho họ sức mạnh và che chở họ khỏi hòn tên mũi đạn.
La Igera là một làng miền núi. Che đã bị bắn ở đây. Đời sống của dân làng còn khó khăn, nhưng họ đã có người che chở từ 40 năm nay.
Một phụ nữ da đỏ nói: “Trên thực tế Che Guevara không chết. Khi sống ông đã muốn giúp đỡ chúng tôi, nay sau khi đã qua đời ông vẫn bảo vệ chúng tôi”.
Trong 40 năm qua, những kẻ có liên quan đến cái chết của Che lần lượt qua đời. Theo ông Osvaldo Peredo đó là "báo ứng".
Gary Prado chính là người đã bắt Che. Khi ấy Đại úy Prado chỉ huy một nhóm phục kích ở làng La Igera. Việc bắt được Che đã mở cho Prado con đường thăng tiến trên nấc thang danh vọng, ông ta đã leo lên cấp tướng. Năm 1981, một phát súng của cấp dưới đã buộc ông tướng này phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Song, dù sao ông ta vẫn còn may. Những kẻ săn lùng Che ngày ấy giờ vẫn lần lượt bị “báo ứng”.
Hulia Cortes là cô giáo duy nhất ở làng La Igera. Bà là người chứng kiến những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời của Che. Đến tận bây giờ, bà vẫn nhớ những chi tiết của ngày 9/10/1967.
Bà kể: “Trung úy Uertas ngồi canh gác Che trên chiếc ghế này, còn Che thì ngồi trên chiếc ghế dài ở góc kia”.
Năm 1967, triền sông Rio Grade là tâm điểm săn lùng Che Guevara của binh lính chính phủ. Binh lính Bolivia bao vây quân du kích, mà nòng cốt của nó là người Cuba. Ở làng La Igera không có radio. Lúc bấy giờ, cô giáo trẻ Hulia không biết Che là ai, và tại sao quân chính phủ lại săn lùng ông.
Bà Hulia nói: “Nếu như lúc ấy tôi biết ông là ai, tôi đã có thể thông báo cho những người du kích còn lại, bởi người ta canh gác Che rất lỏng lẻo, những người du kích có thể tấn công để giải thoát cho ông. Tôi đã có thể giúp được ông, vậy mà...”.
Ngày 8/10/1967, Ernesto cùng 17 du kích bị bao vây chặt trong hẻm núi Iudo. Bọn lính dùng súng cối nã vào hẻm núi. Có 4 chiến sĩ hy sinh ngay tại chỗ, những người còn lại cố thoát ra. Che bị thương vào chân và bị bắt cùng 2 người đồng đội. Quân lính Bolivia không thể tin được rằng chiến đấu chống lại họ lại là con người ăn mặc rách rưới và đói khát, nhưng đầy quyết tâm giành thắng lợi.
Hulia Cortes nói: “Che đã nghĩ là mình còn được sống. Nhưng khi người lính bước vào và nói rằng, ông sẽ bị xử bắn, nét mặt ông vẫn không thay đổi. Đó quả là một con người biết tự chủ và tự kiểm soát được bản thân”.
Gary Prado và bà Hulia Cortes.
Gary Prado cho biết: “Che bình thản nói: “Tất cả đã kết thúc”. Rồi ông thốt lên, đại ý là: “Đối với các ông, để tôi sống sẽ tốt hơn bắn tôi chết”. Nhưng lúc ấy tôi không để ý đến câu nói này”.
Quyết định xử bắn ông do chính Tổng thống Bolivia Barrientos thông qua. Vào lúc 13h30’ ngày 9/10/1967, lệnh được thi hành.
Một năm rưỡi sau, ngày 27/4/1969, Tổng thống Barrientos bị chết trong một tai nạn máy bay. Đây là vụ phá hoại, nhưng không tìm được thủ phạm. Barrientos là người đầu tiên trong danh sách những kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Che. Số phận thật trớ trêu.
Năm 1952, Bolivia sục sôi khí thế cách mạng. Barrientos và Che cùng chung một chiến tuyến. Đối với cả hai người, năm 1952 đó đã trở thành điểm so sánh: một người trở thành chiến sĩ cách mạng, người kia trở thành tướng và sau đó thành tổng thống. Cuộc cách mạng ở Bolivia thắng lợi, nhưng giới quân sự đã giành lấy chính quyền.
Sau cuộc cách mạng ở Cuba giành thắng lợi, Che lại tiếp tục cuộc hành trình giải phóng các nước thuộc Mỹ Latinh khỏi ảnh hưởng của Mỹ. Chính vì vậy ông là cái gai trong con mắt của người Mỹ cũng như tay sai của họ. Kẻ thù của ông luôn tìm cách bắt, sát hại ông và chúng đã thành công.
Năm 1966, Che đã đến khu vực sông Rio Grande, một căn cứ đã được chuẩn bị cho ông trong trang trại bỏ hoang. Trang trại thuộc về người bạn gái thân thiết của ông, được ông gọi bằng cái tên Nga - Tania. Bà là điệp viên xuất sắc của tình báo Cuba. Tên thật của bà được Che giữ bí mật.
Tại đây, Che sống nhờ vào sự giúp đỡ của những người nông dân địa phương. Họ cung cấp thực phẩm và che giấu ông khỏi lính chính phủ. Trong những người này, ông tin cậy vào Onorato Rokhas - người chuyên cung cấp thực phẩm cho ông. Thỉnh thoảng, Che lại khám chữa bệnh cho các con của ông ta.
Một lần trong làng xuất hiện một người đàn ông, tên gọi Mario Vargas Salinas. Ông ta là đại úy quân đặc nhiệm Bolivia. Ông đề nghị Rokhas nhận 3 nghìn USD để cung cấp thông tin về đội du kích của Che.
Rokhas đồng ý và kể cho Salinas rằng đội du kích của Che đang chuẩn bị vượt sông Rio - Grande. Đó là ngày 31/8/1967.
Và Rokhas đã trở thành nạn nhân thứ hai trong chuỗi những cái chết bí ẩn. Hai năm sau ngày phản bội Che, ông ta bị bắn chết trên đường phố bởi một phát súng vào giữa mặt. Không tìm ra hung thủ.
Ngày 9/10/1967, Che nằm lại Bolivia, không rời La Igera nữa. Khi còn sống, ông là người lạ đối với dân làng. Sau cái chết, ông đã trở thành tài sản duy nhất của họ, thành linh hồn của La Igera.
Cái chết đã làm Che trở thành bất tử, vì ông đã không sợ nó. Ông mãi mãi chiến thắng cái chết.
Đoàn Thị Phương (theo Pordo)
-------------------------------------------------------------------------------
che đã trở thành người mẫu không chỉ cho nhân dân ta mà còn cho bất kỳ dân tộc nào ở Mỹ Latinh... Máu của Che đã đổ xuống trên đất nước ta, đã đổ xuống ở Bolivia...; dòng máu ấy đã đổ cho tất cả các dân tộc ở châu Mỹ và đã đổ cho Việt Nam... Che đã biết là mình hiến dâng cho Việt Nam mối tình đoàn kết cao cả nhất”.
Và đúng như Fidel đã nói, Che đã trở nên gần gũi và thân thiết với nhiều người Việt Nam, vì chính ông đã gắn bó với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Và đúng như Fidel đã nói, Che đã trở nên gần gũi và thân thiết với nhiều người Việt Nam, vì chính ông đã gắn bó với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Ngay từ năm 1953, khi mới tốt nghiệp Đại học Y khoa, Che đã định hướng đấu tranh giải phóng nhân dân bị áp bức bóc lột. Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu đã đem đến cho ông niềm tin thắng lợi.
Ông tìm đọc tác phẩm “Chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và coi đó là một tài liệu quý giá để xây dựng các lực lượng du kích trong suốt chặng đường đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của các dân tộc bị áp bức ở châu Phi và Mỹ Latinh.--PageBreak--
Chính ông là người đã viết lời tựa cho cuốn sách đó khi được xuất bản và phổ biến rộng rãi ở Tây bán cầu: “Tác phẩm này vượt qua giới hạn của một giai đoạn lịch sử và có giá trị cho cả khu vực..., chứa đựng nhiều vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt cho các dân tộc Mỹ Latinh đang bị chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ thống trị”.
Mùa hè năm 1964, Anh hùng Núp được mời sang thăm Cuba, Che đã tiếp đón anh Núp như người anh từ xa trở về và cùng nhau trao đổi ý kiến nhiều buổi đến tận khuya vẫn chưa muốn nghỉ.
Sau lần gặp Anh hùng Núp, Che rời Cuba cùng với đội ngũ gồm các chiến sĩ du kích kiên trung lên đường đi chiến đấu giải phóng các dân tộc anh em còn bị áp bức ở Mỹ Latinh. Và cũng từ đấy trên Đài Phát thanh và Truyền hình Cuba hàng ngày phát đi, phát lại vở kịch với nhan đề “Người anh hùng của núi rừng” chuyển thể theo nội dung cuốn tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc.
Anh hùng Núp (bên trái ảnh) và huyền thoại Che Guevara tại Cu Ba năm 1964 - Ảnh tư liệu.
Anh hùng Núp và Che không gặp lại nhau, nhưng ở Cuba vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ niệm về cuộc gặp lịch sử giữa hai người. Ngày Anh hùng Núp qua đời, từ Tây bán cầu những người thân của Che đã gửi sang Việt Nam bức ảnh chụp lúc Che và phu nhân - bà Adelaida March - tiếp đón Anh hùng Núp năm xưa.
che và anh hùng NÚP
Che còn dành thời gian tiếp thân mật đoàn 35 sinh viên Việt Nam lần đầu tiên sang Cuba học tập ngay tại văn phòng của ông tại Bộ Công nghiệp ở Quảng trường Cách mạng của thủ đô La Habana.
Ông dành nhiều thời gian trò chuyện rất thân tình và cùng mọi người hát các bài ca cách mạng của Việt Nam, trong đó có bài “Giải phóng miền Nam” cùng nhiều bài hát của Cuba và Mỹ Latinh, như “Hành khúc dân quân”, "Hành khúc 26-7”...
Những năm 60 của thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam đấu tranh gian khổ chống kẻ thù xâm lược, Che đã nói: “Chủ nghĩa đế quốc là thủ phạm của sự xâm lược... Chúng ta đang giương cao ngọn cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với tất cả nhiệt tình, không phải chỉ vì chủ nghĩa quốc tế vô sản, mà còn vì lòng thiết tha với chính nghĩa cách mạng đã in sâu trong chúng ta.
Chúng ta làm việc này còn vì chúng ta đang cùng trận tuyến đấu tranh với những người anh em của mình. Đó là điều cực kỳ quan trọng đối với tương lai của cả châu Mỹ”.
Che là người đã cùng với Chủ tịch Fidel chủ trương thành lập Ủy ban Toàn quốc của Cuba đoàn kết với Việt Nam. Tại lễ kỷ niệm ngày thành lập Ủy ban này, Che đã chủ trì và có bài phát biểu quan trọng.
Ông nói: “Chúng ta chào mừng nhân dân miền Nam Việt Nam như người anh em chiến đấu, như người đồng chí gương mẫu trong giai đoạn lịch sử thế giới khó khăn hiện nay. Dù đế quốc Mỹ có dùng phương tiện chiến tranh gì thì thắng lợi sẽ là giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Việt Nam... Chúng ta biết chắc chắn là nhân dân Việt Nam nhất định sẽ giành được tự do hoàn toàn”.
Với niềm tin và tình cảm nồng nàn đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Che luôn hướng về Việt Nam và động viên các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Ngày 16/4/1966, Che đã gửi tới các dân tộc trên thế giới bức thông điệp lịch sử. Che viết: “Thái độ của chúng ta không phải chỉ là chúc mừng thắng lợi của người bị xâm lược mà phải cùng nhau chia sẻ số phận, cùng hy sinh hoặc cùng nhau chiến thắng. Dân tộc Việt Nam thật vĩ đại!
Dân tộc Việt Nam thật kiên cường và dũng cảm!
Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam đã mang lại cho toàn thế giới một bài học thật vĩ đại! Việt Nam đã dạy cho chúng ta một bài học vĩnh viễn về chủ nghĩa anh hùng... Trước mắt, chúng ta sẽ là một tương lai xán lạn và gần gũi như thế nào nếu hai, ba... nhiều Việt Nam nở hoa trên thế giới.
Hãy tạo ra hai, ba... nhiều Việt Nam, là khẩu hiệu đấu tranh!”.
Đó chính là ý chí, nguyện vọng thiết tha và mệnh lệnh trái tim đưa Che đến với nhiều nơi trên trái đất này đòi hỏi sự nỗ lực khiêm tốn của ông như chính ông đã viết trong thư từ biệt Chủ tịch Fidel, từ biệt cha mẹ và vợ con, trước khi rời Cuba đi chiến đấu tại Congo và tiếp đó là Bolivia.
Tuy ở xa Việt Nam, nhưng Che là người hiểu biết sâu sắc cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam và luôn dành cho sự nghiệp vẻ vang đó sự ủng hộ kiên quyết, mạnh mẽ và vô tư.
Che, như chính bà Melba Hernandez, nguyên Chủ tịch Ủy ban đoàn kết với Việt Nam của Cuba đã từng nói, “là người đi đầu trong phong trào đoàn kết với Việt Nam”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét