Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng
Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây:
1) Hoà hiếu với Đông Ngô.
2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp.
3) Ổn định nội bộ.
4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài.
5) Bình định man tộc.
6) Hưng binh đánh Ngụy.
Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi).
Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.
Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:
Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang.
Trần Thọ phê rằng:
Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.
Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.
Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại.
Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:
- Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.
Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.
Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây. Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.
Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.
Sách Thục Ký chép:
Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời.
Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:
“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”
Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:
Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.
Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.
Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.
Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng:
- Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.
Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục
=================================================================================
Thiên thời vẫn trong tay họ Tào, Địa lợi họ Ngô độc chiếm, chúa ta giữ lấy Nhân hòa, mà trong trướng toàn bọn Ngụy Diên, Mã Tốc... Xuất Kỳ Sơn cũng chỉ để thỏa chí ta thôi, chứ cơ nghiệp nhà Hán đã đến ngày thay ngôi đổi chủ rồi. Không còn đường về Long Trung cày ruộng nữa...
Mã Tốc làm mất Nhai Đình, ta phải gạt lệ mà chém, ấy là do lỗi dùng người của ta. Ta đã thương mà cưng chiều hắn, hắn chỉ là kẻ thuộc làu binh pháp trên giấy mà không có kinh nghiệm thực tiễn, ta chém hắn cũng là tự cắt ruột mình. Còn Ngụy Diên, sớm hay muộn hắn cũng sẽ làm phản. Phải để lại kế trừ khử hắn mới được. Mệnh ta trời điểm rồi, chỉ còn Khương Duy có thể nối chí ta, nhưng nhà Hán đã mạt mất rồi... Sớm hay muộn thế kiềng ba chân cũng gãy...
Ơn tri ngộ với Chúa công ta còn chưa trả được, mà trời cao lại cứ giở trò khăm. Đọ trí với trí, ta nào biết sợ gì họ hàng nhà Tư Mã, chỉ là cái mệnh trời đã thế, không cãi lại được. Nếu có hận gì, thì mối hận duy nhất là ta đã không nghe lời đám ẩn sĩ ở Long Trung, quyết xuống núi để bây giờ dang dở cả...
================================================================================
Thơ đề Vũ Hầu Miếu - Đỗ Phủ
Di miếu đan thanh lạc
Không sơn thảo mộc trường
Do văn từ Hậu chủ
Bất phục ngọa Nam dương
Không sơn thảo mộc trường
Do văn từ Hậu chủ
Bất phục ngọa Nam dương
Dịch nghĩa:-- Miếu Thờ Vũ Hầu
Miếu xưa nét vẽ xanh đỏ đã phai lạt.
Núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm.
Còn nghe văng vẳng biểu xuất sư dâng từ biệt Hậu Chủ [để đi phạt Ngụy].
[Mất tại trận] chẳng còn dịp trở về Nam dương nằm khểnh [như ý nguyện sau khi công thành danh toại] nữa.
Núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm.
Còn nghe văng vẳng biểu xuất sư dâng từ biệt Hậu Chủ [để đi phạt Ngụy].
[Mất tại trận] chẳng còn dịp trở về Nam dương nằm khểnh [như ý nguyện sau khi công thành danh toại] nữa.
--Bản dịch của Trần Trọng Kim--
Ngôi đền cũ nhạt màu xanh đỏ,
Núi quạnh-hiu còn đó cỏ cây.
Biểu từ lời vẳng bên tai,
Không còn trở lại nằm dài Nam-dương
Núi quạnh-hiu còn đó cỏ cây.
Biểu từ lời vẳng bên tai,
Không còn trở lại nằm dài Nam-dương
=================================================================================
Vô đề
Thương thiên như viên cái,
Lục địa như kỳ cục,
Thế nhân hắc bạch phân,
Vãng lai tranh vinh lộc;
Bần giả tự an an,
Phú giả tự lạc lạc,
Nam Dương hữu ẩn thổ,
Cao miên ngoạ bất túc.
Không đề
Trời tròn như lọng che,
Đất xoay như cuộc cờ,
Tuồng đời đen trắng lẫn,
Tranh nhau vinh với nhục.
Kẻ vinh mặt vênh váo,
Người nhục thân chen chúc,
Người ẩn sĩ Nam Dương,N
ằm ngủ không nháy mắt.
Bài thơ này được La Quán Trung chép trong "Tam quốc diễn nghĩa" là của Gia Cát Lượng, khi ba anh em Lưu Bị cùng đoàn tuỳ tùng vừa tới trước gò Ngoạ Long, thấy xa xa có mấy người đang cày ruộng bên suờn núi, miệng hát nghêu ngao.
=================================================================================
Thuật nhìn người
Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách “Tướng Uyên” trong đó có đưa ra nhận xét về tính cách con người như sau: “Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung”.
Vì vậy, để giúp các bậc “chính nhân quân tử” hiểu thấu được lòng người, Gia Cát Lượng đã viết riêng một chương có tên là “Tri nhân” (hiểu người) cho bộ sách Tướng Uyên của mình trong đó ông đưa ra 7 cách để hiểu được lòng người khác như sau:
1. Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.
2. Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết biến thái.
3. Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
Giờ đây, sau gần 2.000 năm, những triết lý này vẫn mang đầy tính thực tiễn; áp dụng cách 7 cách trên của Gia Cát Lượng vào cuộc sống ngày nay sẽ giúp bạn vừa xem nhân diện, vừa biết cách thử tâm, đức, trí tuệ, tài năng của một người; để tìm được một người đồng hành, một đối tác làm ăn tốt trong cuộc sống, trở thành nhà lãnh đạo thành công.
4. Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét đức dũng.
5. Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.
6. Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.
7. Hẹn công việc với họ để đo chữ tín.
=================================================================================
NguồnFB: https://www.facebook.com/HoiNhungNguoiHamMoKhongMinhGiaCatLuong/photos/a.218097921652503.47190.200814596714169/218097924985836/?type=1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét