Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Những điều biết về Gia Cát Lượng Khổng Minh

Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng
Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng 
Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây: 
1) Hoà hiếu với Đông Ngô. 
2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp. 
3) Ổn định nội bộ.
4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài.
5) Bình định man tộc.
6) Hưng binh đánh Ngụy.
Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi).
Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.
Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:
Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang.
Trần Thọ phê rằng:
Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.
Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.
Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại.

Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:
- Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.

Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.

Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây. Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.

Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.

Sách Thục Ký chép:
Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời.
Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:
“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”
Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:
Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.

Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.

Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.
Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng:
- Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.
Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục


=================================================================================
Thiên thời vẫn trong tay họ Tào, Địa lợi họ Ngô độc chiếm, chúa ta giữ lấy Nhân hòa, mà trong trướng toàn bọn Ngụy Diên, Mã Tốc... Xuất Kỳ Sơn cũng chỉ để thỏa chí ta thôi, chứ cơ nghiệp nhà Hán đã đến ngày thay ngôi đổi chủ rồi. Không còn đường về Long Trung cày ruộng nữa...
Mã Tốc làm mất Nhai Đình, ta phải gạt lệ mà chém, ấy là do lỗi dùng người của ta. Ta đã thương mà cưng chiều hắn, hắn chỉ là kẻ thuộc làu binh pháp trên giấy mà không có kinh nghiệm thực tiễn, ta chém hắn cũng là tự cắt ruột mình. Còn Ngụy Diên, sớm hay muộn hắn cũng sẽ làm phản. Phải để lại kế trừ khử hắn mới được. Mệnh ta trời điểm rồi, chỉ còn Khương Duy có thể nối chí ta, nhưng nhà Hán đã mạt mất rồi... Sớm hay muộn thế kiềng ba chân cũng gãy...

Ơn tri ngộ với Chúa công ta còn chưa trả được, mà trời cao lại cứ giở trò khăm. Đọ trí với trí, ta nào biết sợ gì họ hàng nhà Tư Mã, chỉ là cái mệnh trời đã thế, không cãi lại được. Nếu có hận gì, thì mối hận duy nhất là ta đã không nghe lời đám ẩn sĩ ở Long Trung, quyết xuống núi để bây giờ dang dở cả...
================================================================================
Thơ đề Vũ Hầu Miếu - Đỗ Phủ
Di miếu đan thanh lạc
Không sơn thảo mộc trường
Do văn từ Hậu chủ 
Bất phục ngọa Nam dương
Dịch nghĩa:-- Miếu Thờ Vũ Hầu
Miếu xưa nét vẽ xanh đỏ đã phai lạt.
Núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm.
Còn nghe văng vẳng biểu xuất sư dâng từ biệt Hậu Chủ [để đi phạt Ngụy].
[Mất tại trận] chẳng còn dịp trở về Nam dương nằm khểnh [như ý nguyện sau khi công thành danh toại] nữa.
--Bản dịch của Trần Trọng Kim--
Ngôi đền cũ nhạt màu xanh đỏ,
Núi quạnh-hiu còn đó cỏ cây.
Biểu từ lời vẳng bên tai,
Không còn trở lại nằm dài Nam-dương
=================================================================================
Vô đề

Thương thiên như viên cái,
Lục địa như kỳ cục,
Thế nhân hắc bạch phân,
Vãng lai tranh vinh lộc;
Bần giả tự an an,
Phú giả tự lạc lạc,
Nam Dương hữu ẩn thổ,
Cao miên ngoạ bất túc.

Không đề

Trời tròn như lọng che,
Đất xoay như cuộc cờ,
Tuồng đời đen trắng lẫn,
Tranh nhau vinh với nhục.
Kẻ vinh mặt vênh váo,
Người nhục thân chen chúc,
Người ẩn sĩ Nam Dương,N
ằm ngủ không nháy mắt. 

Bài thơ này được La Quán Trung chép trong "Tam quốc diễn nghĩa" là của Gia Cát Lượng, khi ba anh em Lưu Bị cùng đoàn tuỳ tùng vừa tới trước gò Ngoạ Long, thấy xa xa có mấy người đang cày ruộng bên suờn núi, miệng hát nghêu ngao.

=================================================================================
Thuật nhìn người

Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách “Tướng Uyên” trong đó có đưa ra nhận xét về tính cách con người như sau: “Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung”. 

Vì vậy, để giúp các bậc “chính nhân quân tử” hiểu thấu được lòng người, Gia Cát Lượng đã viết riêng một chương có tên là “Tri nhân” (hiểu người) cho bộ sách Tướng Uyên của mình trong đó ông đưa ra 7 cách để hiểu được lòng người khác như sau:

1. Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.

2. Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết biến thái.

3. Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
Giờ đây, sau gần 2.000 năm, những triết lý này vẫn mang đầy tính thực tiễn; áp dụng cách 7 cách trên của Gia Cát Lượng vào cuộc sống ngày nay sẽ giúp bạn vừa xem nhân diện, vừa biết cách thử tâm, đức, trí tuệ, tài năng của một người; để tìm được một người đồng hành, một đối tác làm ăn tốt trong cuộc sống, trở thành nhà lãnh đạo thành công.
4. Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét đức dũng.

5. Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.

6. Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.

7. Hẹn công việc với họ để đo chữ tín.

=================================================================================
Trong văn hóa Trung Hoa, Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh là hóa thân của trí tuệ quân sự, chính trị. Những lời sấm truyền, thuật tử vi, tiên tri của ông để lại cho tới nay vẫn chưa được giải mã hết.

ố của ông là một trong 1.000 lá số của những người có ảnh hưởng lớn nhất cổ kim, được in trong cuốn Tử vi đẩu số toàn thư Trung Quốc. Theo lý giải tử vi, Khổng Minh là người tuyệt thế kỳ tài, thiên hạ vô song.
Từ nhỏ, Khổng Minh tỏ ra cực kỳ hiếu học, đọc đủ loại sách vở và tầm sư học đạo khắp nơi. Dịch lý (hay còn gọi là Kinh Dịch) được ông nghiên cứu khá nhiều, sau đó kết hợp với Chu Dịch của Chu Văn Vương đời nhà Chu để sáng tạo ra Gia Cát thần toán - sách về xem bói vẫn còn bán chạy cho tới ngày nay ở Trung Quốc.
Những chuyện Khổng Minh xem bói, đoán trước tương lai được kể khá nhiều trong dã sử và chính sử. Chuyện nổi tiếng nhất là việc ông khiến Lưu Bá Ôn - danh tướng văn võ song toàn thời nhà Minh phải phục sát đất, dù Lưu sinh sau Khổng Minh tới hơn 500 năm.
Trong phiên bản được nhiều người ưa thích nhất, Lưu Bá Ôn có lần thân chinh dẫn tướng sĩ vượt núi băng rừng truy kích quân địch, không may ngã vào một hang núi. Lần mò trong hang, Lưu gặp tấm bia đá khắc 14 chữ: Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn. Dưới bia khắc dòng chữ nhỏ: Gia Cát Lượng thủ bút.
Hàng chữ kia có hàm ý: Gia Cát Lượng xứng đáng là quân sư của mọi thời đại, nhưng làm tướng thống nhất sơn hà thì có Lưu Bá Ôn. Sau tấm bia còn vẽ đường rời khỏi hang núi, nhờ đó Lưu Bá Ôn thoát khỏi cảnh chết đói chốn hoang vu. Sau này, Lưu Bá Ôn giúp Minh thái tổ Chu Nguyên Chương đoạt được thiên hạ.
Trong Gia Cát Lượng dã sử, trước khi bậc tuyệt thế kỳ tài qua đời, ông để lại một túi gấm và dặn con cháu bảy đời sau khi gặp nguy khốn hãy mở ra. Gia Cát Linh là cháu đời thứ bảy của Gia Cát Lượng. Gia Cát Linh lỡ tay đánh chết người, bị kiện tới Huyện nha. Bấy giờ Gia Cát Linh sực nhớ tới chiếc túi gấm do tổ tiên truyền lại, ông bèn lấy chiếc túi giao cho quan huyện. Quan huyện mở ra xem, thấy miệng túi có miếng lụa thêu chữ: "Xuống bệ ba bước hãy xem!".
Quan huyện hơi nghi ngờ nhưng cũng bước xuống bệ đường ba bước. Bỗng "rầm" một tiếng, chiếc xà trên nóc nhà đã rơi xuống đập nát bàn ghế nơi quan ngồi. Tiếp đó, ông mở túi gấm ra xem, thấy đáy túi còn miếng lụa có hai câu: "Ta cứu người cái họa sập nhà, ngươi giúp ta thằng cháu bảy đời”. Quan huyện hỏi kỹ lại sự tình, Gia Cát Linh đúng là cháu bảy đời của Gia Cát Lượng. Nhờ đó, Gia Cát Linh thoát chết.
Trước ngựa gieo quẻ
Một thuật xem tử vi khác của Khổng Minh là Mã Tiền Khóa (trước ngựa gieo quẻ), tương truyền Gia Cát Khổng Minh vào lúc nhàn hạ trong quân ngũ đã sáng tác ra. Đây là bài tiên tri dự đoán những đại sự trong thiên hạ, tổng cộng có 14 khóa.
Mã Tiền Khóa ngắn gọn súc tích lạ thường, chỉ có 14 khóa (bài thơ), mỗi khóa dự đoán một thời đại lịch sử, mà mỗi một khóa lại tuân theo một trật tự sắp xếp. Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi rồi, người ta xem lại mới thấy Khổng Minh tiên tri chính xác. Đương nhiên, những người phản đối cho rằng, đó chỉ là cách suy diễn của đời sau, khi sự đã rồi. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu tiên tri lại đưa ra biện giải riêng.
Năm 1911, người của Đồng Minh Hội Cách Mạng Đảng tại các nơi phát động khởi nghĩa vũ trang, triều Thanh lung lay sắp đổ. Ngày 1/1-/1912, Chính phủ Cộng hòa thành lập tại Nam Kinh, Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng thống lâm thời. Ngày 13/2/1912, Hoàng đế nhà Thanh chính thức thoái vị, vương triều Đại Thanh kết thúc. Thỉ hậu ngưu tiền” – “Lợn sau trâu trước” chính là chỉ sự kiện này.
Năm 1911 là năm Tân Hợi, cũng là năm con lợn, “thỉ” chỉ “lợn”; năm 1913 là năm con trâu, do đó năm 1912 Hoàng đế nhà Thanh thoái vị và Chính phủ Cộng hòa thành lập, chính là năm “lợn sau trâu trước” (giữa năm lợn và năm trâu).
“Thiên nhân nhất khẩu” – “Nghìn người một miệng” là câu chơi chữ, “Thiên, nhân, khẩu” ba chữ hợp lại thành chữ “hòa” trong “Cộng hòa”. “Ngũ nhị đảo trí” – “Năm hai đảo ngược”, “Ngũ” và “nhị” ở đây là thuật ngữ trong Kinh Dịch. Với một quẻ Lục Họa, tổng cộng có sáu hào, theo đó mà phân biệt gọi là “nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục”, trong đó hào số năm là tôn vị, đại biểu cho ngôi Vua, hào số hai là thần vị, trên ngôi Vua, dưới bề tôi, chính là trật tự bình thường. “Ngũ nhị đảo trí” chính là vua mất chức mà dân lên nắm quyền.
Câu cuối, “Bằng lai vô cữu” cho tới nay vẫn chưa được lý giải hoàn toàn. Những nhà tiên tri Trung Quốc lập luận rằng, “Bằng lai vô cữu” – “Bạn đến không trách” là chỉ trong thời gian Trung Hoa dân quốc mới thành lập, bị các nước coi thường, Nhật Bản xâm lược, nhưng cuối cùng không bị tổn thương.

NguồnFB: https://www.facebook.com/HoiNhungNguoiHamMoKhongMinhGiaCatLuong/photos/a.218097921652503.47190.200814596714169/218097924985836/?type=1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét