Câu 1: 1. Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
1. 1 Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về mặt triết
học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất,
V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
1
1. 1 Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về mặt triết
học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất,
V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
1
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
1.1.1 “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ..."
Phạm trù “vật chất” là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận
thức. Do đó:
- Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không
phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai
lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất
thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
- Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về
mặt nhận thức luận, V.I. Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan
hệ với phạm trù đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa
thông qua cái đối lập với nó).
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của
các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến
nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó
chính là “thực tại khách quan”. Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại ở bên
ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất - cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất cả những gì
tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết
học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm trù khoa học cụ thể, đó là những
dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành
cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất
với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước
Mác.
1.1.2. “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau,
vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi
vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con
người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây, định
nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1.3. “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết
được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của
chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó về nguyên tắc,
không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng
vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
- Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác động vào
giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...) con người có thể nhận
thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ
thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái
gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức
được hay chưa nhận thức được.
1. 2. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được tính chất trực quan,
siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác,
đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về
vật chất.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; định
hướng, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá
những thuộc tính mới của vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật
biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=211506258983646&id=211502745650664
1.1.1 “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ..."
Phạm trù “vật chất” là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận
thức. Do đó:
- Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không
phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai
lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất
thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
- Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về
mặt nhận thức luận, V.I. Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan
hệ với phạm trù đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa
thông qua cái đối lập với nó).
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của
các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến
nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó
chính là “thực tại khách quan”. Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại ở bên
ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất - cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất cả những gì
tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết
học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm trù khoa học cụ thể, đó là những
dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành
cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất
với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước
Mác.
1.1.2. “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau,
vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi
vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con
người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây, định
nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1.3. “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết
được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của
chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó về nguyên tắc,
không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng
vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
- Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác động vào
giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...) con người có thể nhận
thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ
thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái
gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức
được hay chưa nhận thức được.
1. 2. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được tính chất trực quan,
siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác,
đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về
vật chất.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; định
hướng, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá
những thuộc tính mới của vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật
biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=211506258983646&id=211502745650664
Câu 2: Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã
hội, triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc và bản chất của ý thức.
hội, triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc và bản chất của ý thức.
3.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và của
lịch sử xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
3.1.a. Nguồn gốc tự nhiên
a.1. Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc con người
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ
lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào
cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động
bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
- Phản ánh của giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức
phản ánh này đơn giản, thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
- Trên cơ sở phản ánh của giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh cao
hơn về vật chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh - phản ánh sinh học. Hình thức
phản ánh này gắn liền với sự chuyển hoá từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Phản
ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các
sinh vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh
sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích trong cơ thể do
tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và tâm
lý ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật là hình thức phản ánh cao nhất của
động vật, nhưng đó chưa phải là ý thức, mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng
do nhu cầu trực tiếp sinh lý của cơ thể và quy luật sinh học chi phối. Cùng với quá
trình vượn biến thành người, phản ánh ở động vật cấp cao chuyển hoá thành ý thức.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là thuộc tính của dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hoá càng cao thì sự phản
ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển; ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài
của thuộc tính phản ánh của vật chất. Do đó, không được đồng nhất vật chất với ý
thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
a.2. Khách thể vật chất bên ngoài
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người
là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xẩy ra.
Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh)
cùng với thế giới bên ngoài (khách thể vật chất bên ngoài) tác động lên bộ óc - đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song, muốn có sự chuyển biến nhảy vọt từ phản ánh
tâm lý ở động vật sang phản ánh có ý thức của con người, ngoài nguồn gốc tự nhiên
cần phải có nguồn gốc xã hội.
Ý thức con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và của
lịch sử xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
3.1.a. Nguồn gốc tự nhiên
a.1. Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc con người
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ
lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào
cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động
bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
- Phản ánh của giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức
phản ánh này đơn giản, thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
- Trên cơ sở phản ánh của giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh cao
hơn về vật chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh - phản ánh sinh học. Hình thức
phản ánh này gắn liền với sự chuyển hoá từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Phản
ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các
sinh vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh
sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích trong cơ thể do
tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và tâm
lý ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật là hình thức phản ánh cao nhất của
động vật, nhưng đó chưa phải là ý thức, mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng
do nhu cầu trực tiếp sinh lý của cơ thể và quy luật sinh học chi phối. Cùng với quá
trình vượn biến thành người, phản ánh ở động vật cấp cao chuyển hoá thành ý thức.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là thuộc tính của dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hoá càng cao thì sự phản
ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển; ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài
của thuộc tính phản ánh của vật chất. Do đó, không được đồng nhất vật chất với ý
thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
a.2. Khách thể vật chất bên ngoài
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người
là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xẩy ra.
Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh)
cùng với thế giới bên ngoài (khách thể vật chất bên ngoài) tác động lên bộ óc - đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song, muốn có sự chuyển biến nhảy vọt từ phản ánh
tâm lý ở động vật sang phản ánh có ý thức của con người, ngoài nguồn gốc tự nhiên
cần phải có nguồn gốc xã hội.
3.1.b. Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc
con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
b.1. Lao động
Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, là hoạt động đặc thù
của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
- Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
- Lao động là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo.
Lao động giúp cho con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.
Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm
nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển
cùng với lao động.
b.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn
tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ
mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại tri thức từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân
mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy,
Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: "Sau lao động đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành
bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức"
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc
con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
b.1. Lao động
Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, là hoạt động đặc thù
của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
- Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
- Lao động là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo.
Lao động giúp cho con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.
Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm
nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển
cùng với lao động.
b.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn
tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ
mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại tri thức từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân
mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy,
Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: "Sau lao động đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành
bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức"
3. 2. Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo,
tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của
ý thức con người so với tâm lý động vật và với sự "suy nghĩ" của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ
và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã
hội. Ý thức chỉ được nẩy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do
đó ý thức, ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con
người còn tồn tại.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo,
tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của
ý thức con người so với tâm lý động vật và với sự "suy nghĩ" của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ
và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã
hội. Ý thức chỉ được nẩy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do
đó ý thức, ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con
người còn tồn tại.
__________________
Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.1 Nội dung nguyên lý
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá
trình khác nhau.
Trong lịch sử triết học những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách rời nhau. Với quan điểm siêu hình giữa các sự
vật, hiện tượng không có mối liên hệ, ràng buộc quy định nhau.
Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, phép biện chứng
duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát
các mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép
biện chứng duy vật chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến cùng ràng buộc, chi phối lẫn nhau, vận động và biến đổi
không ngừng. Trong thế giới không có sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, biệt lập
nhau.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các
sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng
trong thế giới dù có đa dạng và rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại cụ
thể của một thế giới duy nhất là vật chất. Ý thức của con người không phải là vật
chất nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi vì ý thức cũng chỉ là thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người; hơn nữa nội dung
của ý thức cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính
phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn
khẳng định tính đa dạng của sự liên hệ; bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các
sự vật, hiện tượng khác nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một cách
đa dạng.
Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếu, có
mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh
vực riêng biệt của hiện thực. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có
mối liên hệ bản chất và có mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất nhiên, có
mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật, có mối liên hệ giữa các mặt
của mỗi sự vật.
Phân loại các mối liên hệ là cần thiết bởi vì mỗi loại liên hệ có vai trò khác
nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật. Sự phân loại còn là cơ sở để
xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của các ngành khoa
học cụ thể. Tuy nhiên, việc phân loại liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối vì mỗi loại
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, mỗi mắt khâu của mối liên hệ chung của
toàn bộ thế giới. Đây là cơ sở khoa học không chỉ để phân ngành các khoa học mà
còn là cơ sở để hình thành các khoa học liên ngành
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa
dạng, do đó muốn nhận thức đúng và từ đó có phương pháp tác động có hiệu quả
vào mỗi sự vật phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem
xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật khác; liên hệ trực tiếp và cả
mối liên hệ gián tiếp; đồng thời xem xét các mối liên hệ giữa các yếu tố, thuộc tính
bên trong của sự vật. V.I. Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”.
1
1.1 Nội dung nguyên lý
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá
trình khác nhau.
Trong lịch sử triết học những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách rời nhau. Với quan điểm siêu hình giữa các sự
vật, hiện tượng không có mối liên hệ, ràng buộc quy định nhau.
Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, phép biện chứng
duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát
các mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép
biện chứng duy vật chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến cùng ràng buộc, chi phối lẫn nhau, vận động và biến đổi
không ngừng. Trong thế giới không có sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, biệt lập
nhau.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các
sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng
trong thế giới dù có đa dạng và rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại cụ
thể của một thế giới duy nhất là vật chất. Ý thức của con người không phải là vật
chất nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi vì ý thức cũng chỉ là thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người; hơn nữa nội dung
của ý thức cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính
phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn
khẳng định tính đa dạng của sự liên hệ; bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các
sự vật, hiện tượng khác nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một cách
đa dạng.
Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếu, có
mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh
vực riêng biệt của hiện thực. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có
mối liên hệ bản chất và có mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất nhiên, có
mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật, có mối liên hệ giữa các mặt
của mỗi sự vật.
Phân loại các mối liên hệ là cần thiết bởi vì mỗi loại liên hệ có vai trò khác
nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật. Sự phân loại còn là cơ sở để
xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của các ngành khoa
học cụ thể. Tuy nhiên, việc phân loại liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối vì mỗi loại
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, mỗi mắt khâu của mối liên hệ chung của
toàn bộ thế giới. Đây là cơ sở khoa học không chỉ để phân ngành các khoa học mà
còn là cơ sở để hình thành các khoa học liên ngành
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa
dạng, do đó muốn nhận thức đúng và từ đó có phương pháp tác động có hiệu quả
vào mỗi sự vật phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem
xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật khác; liên hệ trực tiếp và cả
mối liên hệ gián tiếp; đồng thời xem xét các mối liên hệ giữa các yếu tố, thuộc tính
bên trong của sự vật. V.I. Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”.
1
Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể: phải nhận thức đầy đủ
các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải
nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự vật tồn tại và xuất
hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, là cách xem xét từng
mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ đa dạng
của sự vật.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn, V.I. Lênin đã nêu lên
tư tưởng về sự kết hợp chặt chẽ giữa “Chính sách dàn đều ” và “Chính sách có trọng
điểm” trong “chính sách kinh tế mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã nêu lên quan điểm đổi mới toàn diện và bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối chính sách đối nội, đối ngoại. Đồng thời Đảng cũng
tập trung vào nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã
hội, tạo tiền đề vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải
nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự vật tồn tại và xuất
hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, là cách xem xét từng
mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ đa dạng
của sự vật.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn, V.I. Lênin đã nêu lên
tư tưởng về sự kết hợp chặt chẽ giữa “Chính sách dàn đều ” và “Chính sách có trọng
điểm” trong “chính sách kinh tế mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã nêu lên quan điểm đổi mới toàn diện và bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối chính sách đối nội, đối ngoại. Đồng thời Đảng cũng
tập trung vào nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã
hội, tạo tiền đề vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
________________________
Câu 5: Nguyên lý phát triển
2.1 Nội dung nguyên lý
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì các sự vật tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến, nhờ có liên hệ mới có tác động qua lại và gây ra sự biến đổi- tức là
vận động, mà nếu không có vận động thì không có sự phát triển, tuy nhiên, “vận
động” và “ phát triển ” là hai khái niệm khác nhau. Vận động là mọi biến đổi nói
chung, không tính đến xu hướng, kết quả của những biến đổi. Phát triển không khái
quát mọi vận động mà chỉ khái quát những sự vận động đi lên, làm xuất hiện cái
mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Phát triển là phạm trù triết học khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy, sự phát triển là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết
cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định mới cao hơn về chất.
Phép biện chứng duy vật khẳng định sự phát triển, đổi mới là quá trình diễn ra
không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy của con người. Trong giới
hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể
trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở
khả năng hoàn thiện về trao đổi vật chất giữa cơ thể với môi trường.
Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên
và xã hội theo quy luật, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới sự
nghiệp giải phóng con người.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc,
đầy đủ hơn về tự nhiên và xã hội và nhận thức chính bản thân con người.
Phép biện chứng duy vật khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của
các sự vật, hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tuyến, mà quanh co, phức
tạp, theo hình xoáy ốc; trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Phép siêu hình do tuyệt đối hóa trạng thái ổn định của sự vật đi đến phủ nhận
sự phát triển. Nếu có thừa nhận sự phát triển thì cũng chỉ là sự tăng giảm về lượng,
sự lặp lại tuần hoàn mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự phá hủy cái cũ
và sự ra đời của cái mới.
Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng
siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen cho rằng sự phát triển giới tự
nhiên của xã hội đều đã được thiết định trước, từ sự vận động của “ý niệm tuyệt
đối”. Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong sự vật quy
định. Do đó phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên
trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế
thừa những giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra
khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển
dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên một cơ sở cao hơn.
2.2. Ý nghĩa về phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được phương pháp
luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Giới tự nhiên, xã hội và tư duy đều trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng. Bản chất khách quan của các quá trình hiện thực đòi hỏi chúng ta
muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan, cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển yêu cầu khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi,
chuyển hóa của chúng.
Quan điểm phát triển đối lập với tư tưởng bảo thủ trì trệ. Tuyệt đối hóa tri thức
là kết quả của sự nhận thức về sự vật trong một hoàn cảnh cụ thể và xem nó như là
tri thức đúng cho cả quá trình phát triển của sự vật.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nhận thức sự vật, hiện tượng trong thực tế là
quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó hoạt động thực tiễn là quá trình tìm ra
mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn và tìm ra giải pháp giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng
cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển. V.I. Lênin cho rằng, để
có tri thức đúng về sự vật, “...bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan
hệ của nó và trong sự phát triển của nó”
2.1 Nội dung nguyên lý
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì các sự vật tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến, nhờ có liên hệ mới có tác động qua lại và gây ra sự biến đổi- tức là
vận động, mà nếu không có vận động thì không có sự phát triển, tuy nhiên, “vận
động” và “ phát triển ” là hai khái niệm khác nhau. Vận động là mọi biến đổi nói
chung, không tính đến xu hướng, kết quả của những biến đổi. Phát triển không khái
quát mọi vận động mà chỉ khái quát những sự vận động đi lên, làm xuất hiện cái
mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Phát triển là phạm trù triết học khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy, sự phát triển là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết
cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định mới cao hơn về chất.
Phép biện chứng duy vật khẳng định sự phát triển, đổi mới là quá trình diễn ra
không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy của con người. Trong giới
hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể
trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở
khả năng hoàn thiện về trao đổi vật chất giữa cơ thể với môi trường.
Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên
và xã hội theo quy luật, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới sự
nghiệp giải phóng con người.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc,
đầy đủ hơn về tự nhiên và xã hội và nhận thức chính bản thân con người.
Phép biện chứng duy vật khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của
các sự vật, hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tuyến, mà quanh co, phức
tạp, theo hình xoáy ốc; trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Phép siêu hình do tuyệt đối hóa trạng thái ổn định của sự vật đi đến phủ nhận
sự phát triển. Nếu có thừa nhận sự phát triển thì cũng chỉ là sự tăng giảm về lượng,
sự lặp lại tuần hoàn mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự phá hủy cái cũ
và sự ra đời của cái mới.
Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng
siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen cho rằng sự phát triển giới tự
nhiên của xã hội đều đã được thiết định trước, từ sự vận động của “ý niệm tuyệt
đối”. Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong sự vật quy
định. Do đó phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên
trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế
thừa những giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra
khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển
dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên một cơ sở cao hơn.
2.2. Ý nghĩa về phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được phương pháp
luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Giới tự nhiên, xã hội và tư duy đều trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng. Bản chất khách quan của các quá trình hiện thực đòi hỏi chúng ta
muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan, cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển yêu cầu khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi,
chuyển hóa của chúng.
Quan điểm phát triển đối lập với tư tưởng bảo thủ trì trệ. Tuyệt đối hóa tri thức
là kết quả của sự nhận thức về sự vật trong một hoàn cảnh cụ thể và xem nó như là
tri thức đúng cho cả quá trình phát triển của sự vật.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nhận thức sự vật, hiện tượng trong thực tế là
quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó hoạt động thực tiễn là quá trình tìm ra
mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn và tìm ra giải pháp giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng
cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển. V.I. Lênin cho rằng, để
có tri thức đúng về sự vật, “...bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan
hệ của nó và trong sự phát triển của nó”
_______________________________
Câu 6: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
2.1. Khái niệm
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu
thuẫn) vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển. V.I. Lênin xem lý
luận về sự thống nhất của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng.
+ Khái niệm mặt đối lập.
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới đều có cấu trúc bao gồm những
mặt, những yếu tố, thuộc tính khác nhau và đối lập nhau.
Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại, quy định lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và
phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong
tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của
nhận thức, của tư duy trên con đường nhận thức chân lý khách quan.
Những mâu thuẫn logíc hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, nó xuất hiện do sai
lầm của tư duy. Mâu thuẫn logic hình thức là mâu thuẫn được tạo thành từ hai phán
đoán phủ định nhau về cùng một phẩm chất của sự vật tại cùng một thời điểm.
+ Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất
với nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi phải
có nhau của các mặt đối lập; sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được gọi là sự “đồng nhất” của các mặt
đối lập, bởi vì các mặt đối lập bao giờ cũng có nhân tố giống nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự "tác động ngang nhau”
của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát
triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
+ Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập, của mối liên hệ qua lại giữa
chúng, vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thủ
tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, tương đối, sự đấu
tranh của các mặt đối lập, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối.
2.2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Phương pháp siêu hình phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong sự
vật, hiện tượng, do đó quan điểm siêu hình phải tìm nguồn gốc của sự vận động và
phát triển ở sự tác động từ bên ngoài vào sự vật, tiêu biểu là cái “ hích” ở Niutơn.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng
đã tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa
các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng.
Mâu thuẫn biện chứng cũng nằm trong quá trình phát triển. Khi mới xuất hiện,
mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản của hai khuynh hướng trái ngược nhau. Sự
khác nhau không ngừng phát triển và đi đến sự đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột
gay gắt đã đủ điều kiện, mâu thuẫn được giải quyết và mâu thuẫn mới hình thành.
Sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. C. Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự
vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu
tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”
1
.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “ Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập”
Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận thức sự vật, cũng có nghĩa là nhận thức mâu thuẫn của sự vật, nhận thức
được các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn, và do đó biết được nguồn gốc của sự
vận động và phát triển của sự vật.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá
trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua
từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện cần cho sự biến đổi, đánh giá đúng vai trò
của từng mặt và của cả mâu thuẫn, xem mâu thuẫn đó có gì giống và khác các mâu
thuẫn khác.
Hoạt động thực tiễn là nhằm giải quyết mâu thuẫn tạo ra sự biến đổi của sự
vật. Dó đó, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương
thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh của các mặt đối lập. Đối với mâu thuẫn khác
nhau có phương pháp giải quyết khác nhau.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu
thuẫn) vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển. V.I. Lênin xem lý
luận về sự thống nhất của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng.
+ Khái niệm mặt đối lập.
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới đều có cấu trúc bao gồm những
mặt, những yếu tố, thuộc tính khác nhau và đối lập nhau.
Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại, quy định lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và
phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong
tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của
nhận thức, của tư duy trên con đường nhận thức chân lý khách quan.
Những mâu thuẫn logíc hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, nó xuất hiện do sai
lầm của tư duy. Mâu thuẫn logic hình thức là mâu thuẫn được tạo thành từ hai phán
đoán phủ định nhau về cùng một phẩm chất của sự vật tại cùng một thời điểm.
+ Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất
với nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi phải
có nhau của các mặt đối lập; sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được gọi là sự “đồng nhất” của các mặt
đối lập, bởi vì các mặt đối lập bao giờ cũng có nhân tố giống nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự "tác động ngang nhau”
của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát
triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
+ Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập, của mối liên hệ qua lại giữa
chúng, vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thủ
tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, tương đối, sự đấu
tranh của các mặt đối lập, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối.
2.2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Phương pháp siêu hình phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong sự
vật, hiện tượng, do đó quan điểm siêu hình phải tìm nguồn gốc của sự vận động và
phát triển ở sự tác động từ bên ngoài vào sự vật, tiêu biểu là cái “ hích” ở Niutơn.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng
đã tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa
các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng.
Mâu thuẫn biện chứng cũng nằm trong quá trình phát triển. Khi mới xuất hiện,
mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản của hai khuynh hướng trái ngược nhau. Sự
khác nhau không ngừng phát triển và đi đến sự đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột
gay gắt đã đủ điều kiện, mâu thuẫn được giải quyết và mâu thuẫn mới hình thành.
Sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. C. Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự
vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu
tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”
1
.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “ Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập”
Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận thức sự vật, cũng có nghĩa là nhận thức mâu thuẫn của sự vật, nhận thức
được các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn, và do đó biết được nguồn gốc của sự
vận động và phát triển của sự vật.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá
trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua
từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện cần cho sự biến đổi, đánh giá đúng vai trò
của từng mặt và của cả mâu thuẫn, xem mâu thuẫn đó có gì giống và khác các mâu
thuẫn khác.
Hoạt động thực tiễn là nhằm giải quyết mâu thuẫn tạo ra sự biến đổi của sự
vật. Dó đó, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương
thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh của các mặt đối lập. Đối với mâu thuẫn khác
nhau có phương pháp giải quyết khác nhau.
_____________________________-____
C
âu 7: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Quy luật này vạch ra cách thức của sự vận động và phát triển.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà
không phải là cái khác.
Chất là chất của mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, cái làm nên sự vật,
để phân biệt nó với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác cùng tồn tại trong thế giới.
Quan hệ giữa chất và thuộc tính, thuộc tính là đặc trưng (khía cạnh) của chất
được bộc lộ ra trong các mối quan hệ với sự vật khác. Mỗi sự vật có nhiều thuộc
tính, mỗi thuộc tính lại là sự tổng hợp của những đặc trưng và trở thành một chất.
Điều đó có nghĩa sự vật có thể có nhiều chất. Ph. Ăngghen: “Những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại”.
Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành sự
vật mà còn được xác định bởi trật tự sắp xếp, phương thức liên kết giữa các yếu tố.
1.1.2. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó.
Lượng và chất thống nhất với nhau trong mỗi sự vật tồn tại khách quan, do đó
lượng cũng mang tính khách quan, phong phú như chất.
Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị, các đại lượng
và được nhận thức thông qua các đơn vị và đại lượng ..., có những lượng không
được xác định bằng đơn vị, đại lượng, nhưng chúng ta vẫn nhận thức được nhờ ở
khả năng trừu tượng hóa.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là một thể thống nhất giữa chất và
lượng. Trong quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, chất và lượng cũng không
ngừng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và chất không diễn ra độc lập với nhau, mà
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tồn tại trong
khuôn khổ của một độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể
thay đổi khi điều kiện thay đổi.
Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiệm tiến tăng dần hoặc giảm
dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi
là điểm nút.
Điểm nút là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất
của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Ví dụ: Trạng thái
nước lỏng (chất), 00
c và 1000
c là những điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự
chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của các sự
vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng: có bước nhảy toàn bộ, bước
nhảy cục bộ; bước nhảy đột biến, bước nhảy dần dần.
Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua
những bước nhảy vọt, tạo ra sự chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là
sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên
tục của sự vật.
- Sự ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời, chất mới tác động trở lại lượng, quy định lượng mới để tạo ra phù hợp giữa chất và lượng mới. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của
sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà
không phải là cái khác.
Chất là chất của mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, cái làm nên sự vật,
để phân biệt nó với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác cùng tồn tại trong thế giới.
Quan hệ giữa chất và thuộc tính, thuộc tính là đặc trưng (khía cạnh) của chất
được bộc lộ ra trong các mối quan hệ với sự vật khác. Mỗi sự vật có nhiều thuộc
tính, mỗi thuộc tính lại là sự tổng hợp của những đặc trưng và trở thành một chất.
Điều đó có nghĩa sự vật có thể có nhiều chất. Ph. Ăngghen: “Những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại”.
Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành sự
vật mà còn được xác định bởi trật tự sắp xếp, phương thức liên kết giữa các yếu tố.
1.1.2. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó.
Lượng và chất thống nhất với nhau trong mỗi sự vật tồn tại khách quan, do đó
lượng cũng mang tính khách quan, phong phú như chất.
Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị, các đại lượng
và được nhận thức thông qua các đơn vị và đại lượng ..., có những lượng không
được xác định bằng đơn vị, đại lượng, nhưng chúng ta vẫn nhận thức được nhờ ở
khả năng trừu tượng hóa.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là một thể thống nhất giữa chất và
lượng. Trong quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, chất và lượng cũng không
ngừng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và chất không diễn ra độc lập với nhau, mà
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tồn tại trong
khuôn khổ của một độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể
thay đổi khi điều kiện thay đổi.
Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiệm tiến tăng dần hoặc giảm
dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi
là điểm nút.
Điểm nút là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất
của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Ví dụ: Trạng thái
nước lỏng (chất), 00
c và 1000
c là những điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự
chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của các sự
vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng: có bước nhảy toàn bộ, bước
nhảy cục bộ; bước nhảy đột biến, bước nhảy dần dần.
Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua
những bước nhảy vọt, tạo ra sự chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là
sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên
tục của sự vật.
- Sự ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời, chất mới tác động trở lại lượng, quy định lượng mới để tạo ra phù hợp giữa chất và lượng mới. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của
sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thức tiễn.
Để có tri thúc đúng về sự vật, thì phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của
nó, và đặc biệt về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất có mối quan hệ với nhau, do vậy
trong hoạt động thực tiễn phải hiểu đúng vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay
đổi về lượng và chất, đặc biệt trong sự phát triển xã hội; phải kịp thời chuyển từ sự
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến
hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Xem xét tiến hóa và cách mạng trong quan hệ biện chứng là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách
mạng. Hiểu đúng mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ
nghĩa xét lại hữu khuynh, cũng như chủ nghĩa “tả” khuynh.
Chất của sự vật còn phụ thuộc vào trật tự sắp xếp, phương thức liên kết các
yếu tố của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn phải biết vận dụng để tạo ra sự phát
triển đa dạng về chất của các sự vật và quá trình tự nhiên. Trong hoạt động xã hội
cũng phải tạo ra sự phát triển đa dạng về chất của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội.
Nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thức tiễn.
Để có tri thúc đúng về sự vật, thì phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của
nó, và đặc biệt về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất có mối quan hệ với nhau, do vậy
trong hoạt động thực tiễn phải hiểu đúng vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay
đổi về lượng và chất, đặc biệt trong sự phát triển xã hội; phải kịp thời chuyển từ sự
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến
hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Xem xét tiến hóa và cách mạng trong quan hệ biện chứng là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách
mạng. Hiểu đúng mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ
nghĩa xét lại hữu khuynh, cũng như chủ nghĩa “tả” khuynh.
Chất của sự vật còn phụ thuộc vào trật tự sắp xếp, phương thức liên kết các
yếu tố của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn phải biết vận dụng để tạo ra sự phát
triển đa dạng về chất của các sự vật và quá trình tự nhiên. Trong hoạt động xã hội
cũng phải tạo ra sự phát triển đa dạng về chất của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội.
_______________________________
Câu 8: Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản.
- Tính khách quan, phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quả giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan.
- Tính kế thừa, phủ định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái
cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa
những giá trị của cái cũ. Do đó phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời
cũng là sự khẳng định.
Phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, là sự
thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu
thuẫn bên trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.
Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở
điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất, trở thành cái đối lập với mình-
bước trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng
trên cơ sở mới cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định. Ví
dụ: Hạt thóc - Cây lúa- Bông lúa (Những hạt thóc)
Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong
những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của
phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết
quả của lần phủ định thứ nhất.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, ở đó
sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, đây là đặc
điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng. Điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển lại đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
- Tính khách quan, phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quả giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan.
- Tính kế thừa, phủ định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái
cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa
những giá trị của cái cũ. Do đó phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời
cũng là sự khẳng định.
Phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, là sự
thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu
thuẫn bên trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.
Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở
điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất, trở thành cái đối lập với mình-
bước trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng
trên cơ sở mới cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định. Ví
dụ: Hạt thóc - Cây lúa- Bông lúa (Những hạt thóc)
Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong
những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của
phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết
quả của lần phủ định thứ nhất.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, ở đó
sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, đây là đặc
điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng. Điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển lại đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông thường
mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định, tuy nhiên, thế giới tồn tại rất đa dạng, do đó,
số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn. Nhưng trong số rất nhiều lần
phủ định của một chu kỳ vẫn có thể khái quát lại hai lần: phủ định lần thứ nhất
chuyển cái xuất phát thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai chuyển cái
trung gian thành cái đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển.
Sự phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy trôn ốc”.
V.I. Lênin viết: “Sự phát triển dường như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng
dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự
phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”
.
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy trôn ốc” chính là
hình thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính tiến lên của
sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy trôn ốc” thể hiện một trình độ cao
hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường như lặp
lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển,
tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao
mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định, tuy nhiên, thế giới tồn tại rất đa dạng, do đó,
số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn. Nhưng trong số rất nhiều lần
phủ định của một chu kỳ vẫn có thể khái quát lại hai lần: phủ định lần thứ nhất
chuyển cái xuất phát thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai chuyển cái
trung gian thành cái đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển.
Sự phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy trôn ốc”.
V.I. Lênin viết: “Sự phát triển dường như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng
dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự
phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”
.
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy trôn ốc” chính là
hình thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính tiến lên của
sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy trôn ốc” thể hiện một trình độ cao
hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường như lặp
lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển,
tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu quy luật phủ định có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn phải nhận thức
đúng cái mới, cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ nhất định chiến
thắng cái lạc hậu.
Phải biết phát hiện cái mới, quý trọng cái mới, tin tưởng vào tương lai phát
triển của cái mới, dù cho quá trình đó diễn ra đầy quanh co, phức tạp.
Cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế
thừa những giá trị, tinh hoa của cái cũ. Do đó, phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa,
phủ định sạch trơn quá khứ, nhưng cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, bám giữ
cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Nghiên cứu quy luật phủ định có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn phải nhận thức
đúng cái mới, cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ nhất định chiến
thắng cái lạc hậu.
Phải biết phát hiện cái mới, quý trọng cái mới, tin tưởng vào tương lai phát
triển của cái mới, dù cho quá trình đó diễn ra đầy quanh co, phức tạp.
Cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế
thừa những giá trị, tinh hoa của cái cũ. Do đó, phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa,
phủ định sạch trơn quá khứ, nhưng cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, bám giữ
cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét